Ứng dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ (phương pháp Hybrid)

Phương pháp kinh điển điều trị bệnh lý quai động mạch chủ là phẫu thuật. Tuy nhiên, các biến chứng

liên quan đến phẫu thuật bao gồm nhiễm trùng, chảy máu, tái phát tổn thương làm hạn chế hiệu quả của

phương pháp này. Khoảng 2 thập kỷ gần đây việc áp dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật (Hybrid)

đã rút ngắn được thời gian phẫu thuật, tăng tỷ lệ thành công, giảm các biến chứng. Mục đích của phương

pháp này là tạo ra một khoảng mạch lành (landing zone) đủ dài để đặt stent graft mà không có rò ở vị trí

tổn thương. Bằng phẫu thuật, việc chuyển vị các mạch máu vùng quai kèm theo có hoặc không gia cố động

mạch chủ lên tạo ra khoảng landing zone đủ dài. Can thiệp đặt stent graft sẽ đặt ở vị trí phù hợp để che kín

tổn thương. Qua nghiên cứu và áp dụng, chúng tôi nhận thấy đây là hướng đi mới hiệu quả so với phương

pháp kinh điển trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ, nhất là với những bệnh nhân nguy cơ cao

pdf 12 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ (phương pháp Hybrid)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ (phương pháp Hybrid)

Ứng dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ (phương pháp Hybrid)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
159TCNCYH 134 (10) - 2020
Tác giả liên hệ: Đoàn Đức Dũng, 
Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 10/10/2020
Ngày được chấp nhận: 03/12/2020
Bệnh lý động mạch chủ rất đa dạng và có 
nguy cơ cao dẫn đến đột tử nếu bệnh nhân có 
triệu chứng. Bệnh lý động mạch chủ đoạn quai 
có các hình thái như phình, lóc tách, loét do xơ 
vữa, giả phình, hẹp eo động mạch chủ.1 Nguyên 
nhân của bệnh lý động mạch chủ hay gặp nhất 
là bệnh lý tăng huyết áp, và các nguyên nhân 
khác như nhiễm trùng, bệnh mô liên kết, chấn 
thương, bẩm sinh. Phẫu thuật điều trị bệnh lý 
động mạch chủ đoạn quai là phương pháp điều 
trị kinh điển, tuy nhiên với những trường hợp 
bệnh lý tái phát hoặc ở bệnh nhân có bệnh lý 
nền nặng, thể trạng yếu sẽ có nhiều khó khăn 
đối với đối với phẫu thuật như phẫu tích khó 
khăn khi mổ lại, biến chứng chảy máu, nhiễm 
trùng xương ức, biến chứng của khó khăn cho 
gây mê hồi sức. Cách đây hơn 2 thập kỷ, khi 
phương pháp can thiệp đặt stent graft động 
mạch chủ ra đời, việc điều trị các bệnh lý động 
mạch chủ trở nên dễ dàng, triệt để và ít xâm 
lấn hơn, đồng thời có tỷ lệ thành công cao hơn 
và giảm thiểu các biến chứng, do đó đây là một 
biện pháp điều trị thay thế phẫu thuật. Nguyên 
lý của phương pháp này là qua đường động 
mạch (thường là động mạch đùi), một đoạn 
mạch nhân tạo có kích thước phù hợp được đặt 
áp sát vào trong lòng động mạch chủ, phủ qua 
vị trí tổn thương để tái tạo lại dòng chảy của 
động mạch này. Một tiêu chí quan trọng để tiến 
hành đặt stent graft là phần mạch lành từ gốc 
mạch máu quan trọng (động mạch cảnh, thân 
cánh tay đầu, động mạch tạng) đến điểm khởi 
phát tổn thương phải đủ dài để neo giữ stent và 
không bị rò ra ngoài lòng stent (landing zone).2 
Kỹ thuật này đến nay đã trở nên phổ biến, dễ 
áp dụng ở nhiều trung tâm can thiệp trong nước 
và trên thế giới với tỷ lệ thành công cao nếu tổn 
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP KẾT HỢP 
PHẪU THUẬT TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ 
PHẦN QUAI ĐỘNG MẠCH CHỦ (PHƯƠNG PHÁP HYBRID)
Đoàn Đức Dũng1, , Bùi Văn Nhơn1, Bùi Quang Thắng1, 
Bùi Đức Nhuận1, Nguyễn Lân Hiếu1,2
1 Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
2 Trường Đại học Y Hà Nội
Phương pháp kinh điển điều trị bệnh lý quai động mạch chủ là phẫu thuật. Tuy nhiên, các biến chứng 
liên quan đến phẫu thuật bao gồm nhiễm trùng, chảy máu, tái phát tổn thương làm hạn chế hiệu quả của 
phương pháp này. Khoảng 2 thập kỷ gần đây việc áp dụng phương pháp can thiệp kết hợp phẫu thuật (Hybrid) 
đã rút ngắn được thời gian phẫu thuật, tăng tỷ lệ thành công, giảm các biến chứng. Mục đích của phương 
pháp này là tạo ra một khoảng mạch lành (landing zone) đủ dài để đặt stent graft mà không có rò ở vị trí 
tổn thương. Bằng phẫu thuật, việc chuyển vị các mạch máu vùng quai kèm theo có hoặc không gia cố động 
mạch chủ lên tạo ra khoảng landing zone đủ dài. Can thiệp đặt stent graft sẽ đặt ở vị trí phù hợp để che kín 
tổn thương. Qua nghiên cứu và áp dụng, chúng tôi nhận thấy đây là hướng đi mới hiệu quả so với phương 
pháp kinh điển trong điều trị bệnh lý phần quai động mạch chủ, nhất là với những bệnh nhân nguy cơ cao.
Từ khoá: Phình quai động mạch chủ, lóc tách động mạch chủ, phương pháp Hybrid
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
160 TCNCYH 134 (10) - 2020
thương ở động mạch chủ xuống và “landing zone” tốt.3,4 Tuy nhiên với tổn thương ở vùng quai động 
mạch chủ, do vùng landing zone ngắn khó khăn do neo giữ stent, nguy cơ rò ra ngoài stent, đồng 
thời đây là nơi xuất phát của nhiều mạch máu lớn nên việc thực hiện can thiệp có nguy cơ stent sẽ 
che lấp những mạch máu quan trọng này. Việc điều trị tổn thương đòi hỏi phải có phẫu thuật chuyển 
vị các mạch máu đó trước can thiệp đảm bảo vùng landing zone đủ dài và đảm bảo dòng chảy của 
các mạch máu xuất phát từ quai động mạch chủ, đây gọi là phương pháp Hybrid.3 - 6 Phương pháp 
Hybrid bao gồm những kỹ thuật phức tạp nhất trong can thiệp bệnh lý động mạch chủ. 
II. GIỚI THIỆU CA BỆNH
1. Ca bệnh không sử dụng kỹ thuật Chimney
- Ca bệnh 1: Bệnh nhân nam, 79 tuổi, tiền sử tăng huyết áp nhiều năm, nhập viện vì đau ngực 
và khàn tiếng. Bệnh nhân được chẩn đoán phình quai động mạch chủ. Kích thước khối phình lớn 
nhât là 80 mm, landing zone ngắn (13mm), khối phình gây triệu chứng đau ngực và khàn tiếng do 
liệt thần kinh quặt ngược trái.
Hình 1. Hình ảnh phình lớn vùng quai động mạch chủ 
Bệnh nhân được chỉ định điều trị tổn thương vì triệu chứng đau ngực có nguy cơ vỡ, kích thước 
khối phình lớn trên 80 mm. Phương pháp điều trị là can thiệp đặt stent graft kết hợp phẫu thuật bắc 
cầu động mạch cảnh phải - động mạch cảnh trái - động mạch dưới đòn trái. Stent được đặt đến sát 
gốc của thân động mạch cánh tay đầu. Sau can thiệp bệnh nhân ổn định, hết đau ngực, biểu hiện 
khàn tiếng hết sau 1 tháng. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
161TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 2. Hình ảnh khối phình trước và sau can thiệp đặt stent graft.
- Ca bệnh 2: Bệnh nhân nam 79 tuổi, tiền sử tăng huyết áp nhiều năm, nhập viện trong tình trạng 
đau ngực dữ dội, tràn máu màng phổi trái. Bệnh nhân được chẩn đoán phình quai động mạch chủ 
vỡ vào màng phổi trái. Trên phim chụp có hình ảnh phình quai động mạch chủ thoát thuốc vào màng 
phổi trái, landing zone 12 mm. Chỉ định điều trị trong trường hợp này là tổn thương phình quai có 
biến chứng vỡ vào màng phổi trái. Bệnh nhân được hồi sức, truyền máu, bắc cầu động mạch cảnh 
phải - động mạch cảnh trái và can thiệp đặt stent graft cấp cứu. Vị trí của stent graft cũng ngay sát 
gốc thân động mạch cánh tay đầu.
Hình 3. Hình ảnh phình lớn quai động mạch chủ và tràn máu màng phổi trái
Sau can thiệp tình trạng chảy máu màng phổi được kiểm soát, nhưng bệnh nhân có biến chứng 
tụt áp do rung nhĩ, tai biến mạch não. Tình trạng bệnh nhân phục hồi dần và ra viện, còn di chứng 
do tai biến mạch não.
2. Ca bệnh có sử dụng kỹ thuật Chymney
- Ca bệnh 3: Bệnh nhân nam, 41 tuổi, vào viện vì đau ngực sau xương ức. Tiền sử: Tăng huyết 
áp nhiều năm, giang mai đã ổn định, lóc tách động mạch chủ type A đã phẫu thuật thay quai và can 
thiệp đặt stent graft sau động mạch dưới đòn. Bệnh nhân được chụp cắt lớp đa dãy phát hiện có lóc 
tách tái phát lan lên quai động mạch chủ. Kích thước landing zone là 14 mm. Chỉ định điều trị trong 
trường hợp này do lóc tách tái phát lan ngược lên trên kèm theo triệu chứng đau ngực, ở bệnh nhân 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
162 TCNCYH 134 (10) - 2020
đã được phẫu thuật mở ngực trước đó. Bệnh nhân được chỉ định thực hiện phương pháp Hybrid có 
sử dụng kỹ thuật Chymney do vùng landing zone ngắn: Phẫu thuật bắc cầu động mạch cảnh phải - 
động mạch cảnh trái, đặt stent graft đến động mạch chủ lên, đồng thời đặt stent thân cánh tay đầu.
Hình 4. Hình ảnh lóc tách tái phát lan lên phần quai động mạch chủ
Sau can thiệp bệnh nhân ổn định, ra viện điều trị và theo dõi ngoại trú.
Ca bệnh 4: Bệnh nhân nữ 60 tuổi, chuyển từ một bệnh viện khác đến với tình trạng đau ngực và 
đau bụng không kiểm soát bằng điều trị nội khoa, ở bệnh nhân sau mổ thay quai do lóc tách động 
mạch chủ Standford A. Phim cắt lớp đa dãy cho thấy hình ảnh lóc tách động mạch chủ tồn dư lan tới 
phần quai động mạch chủ, lòng giả lớn đè ép lòng thật gây thiếu máu thận 2 bên. Bệnh nhân được 
điều trị bằng phương pháp Hybrid có áp dụng kỹ thuật Chymney vì lóc tách tái phát, triệu chứng đau 
không cải thiện với điều trị nội khoa, biểu hiện thiếu máu thận do lòng giả chèn ép lòng thật. Trong 
thủ thuật bệnh nhân có biến chứng thủng xoang Valsava không vành vào thất phải, biến chứng được 
xử trí thành công bằng dụng cụ bít lỗ thủng. Bệnh nhân hết đau ngực và đau bụng sau can thiệp. 
Hình 5. Hình ảnh lóc tách tồn dư lan đến phần quai động mạch chủ sau phẫu thuật 
thay quai động mạch chủ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
163TCNCYH 134 (10) - 2020
Ca bệnh 5: Bệnh nhân nam 71 tuổi, nhập 
viện vì khàn tiếng và đau ngực. Bệnh nhân 
được chẩn đoán phình quai động mạch chủ, liệt 
dây thanh quản trái. Phim chụp cắt lớp cho thấy 
phình lớn quai động mạch chủ kích thước 88 
mm, landing zone 8 mm. Chỉ định điều trị cho 
bệnh nhân này do phình lớn quai động mạch 
chủ có triệu chứng đau ngực, liệt thần kinh 
quặt ngược trái, landing zone ngắn. Bệnh nhân 
được tiến hành phẫu thuật bắc cầu động mạch 
cảnh phải - động mạch cảnh trái, đặt stent graft 
động mạch chủ đến động mạch chủ lên có kèm 
theo đặt stent thân cánh tay đầu. Bệnh nhân 
ổn định sau can thiệp và xuất viện sau điều trị 
10 ngày.
Hình 6. Hình ảnh phình quai động mạch 
chủ và cầu nối động mạch cảnh phải 
- động mạch cảnh trái
III. BÀN LUẬN
 Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu của 
chúng tôi đều là bệnh nhân có nguy cơ cao đối 
với phẫu thuật do tình trạng bệnh lý nền nặng, 
thể trạng yếu, mổ cưa xương ức cũ. Các nghiên 
cứu đã được công bố trên thế giới cũng nhấn 
mạnh đặc điểm tương tự ở bệnh nhân được 
điều trị bằng phương pháp Hybrid 7. Tác giả 
Nadia Vallejo đã công bố một nghiên cứu hồi 
cứu với 38 bệnh nhân, trong đó có tỷ lệ 12/38 
bệnh nhân lóc tách type A, 10/38 bệnh nhân 
phình quai động mạch chủ, 8/38 bệnh nhân 
lóc tách Standford B, 3/38 bệnh nhân phình 
động mạch chủ xuống, còn lại là rò động mạch 
chủ vào phế quản, phình thân cánh tay đầu, 
giả phình quai động mạch chủ. 4 Trong nghiên 
cứu của chúng tôi có tỷ lệ 2/5 bệnh nhân lóc 
tách động mạch chủ Standford A, còn lại 3/5 
bệnh nhân phình động mạch chủ đoạn quai với 
độ tuổi từ 34 đến 75 tuổi, tỷ lệ nam/nữ là 4/1. 
Bệnh lý nền trong nhóm bệnh nhân của chúng 
tôi bao gồm tiền sử bệnh giang mai, tăng huyết 
áp, bệnh lý mạch vành, đái tháo đường. Nghiên 
cứu của nhiều tác giả khác cũng ghi nhận tiền 
sử tăng huyết áp gặp ở hầu hết những bệnh 
nhân có tổn thương phình hoặc lóc động mạch 
chủ.4, 8, 9 Những bệnh nhân lóc tách Standford 
A ở các nghiên cứu trên thế giới thường được 
can thiệp thì đầu và ngay sau phẫu thuật động 
mạch chủ lên. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 
1 bệnh nhân lóc tách type A được can thiệp thì 
2 sau phẫu thuật 2 tháng. Một bệnh nhân được 
phẫu thuật thay động mạch chủ lên và đặt stent 
graft động mạch chủ xuống trước đó 3 năm. 
Chỉ định can thiệp thì 2 với 2 bệnh nhân này là 
do bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu tạng và 
lóc tách tái phát sau phẫu thuật, can thiệp. Hai 
bệnh nhân phình quai động mạch chủ có biểu 
hiện đau ngực và khàn tiếng, đây là biểu hiện 
lâm sàng điển hình của phình quai động mạch 
chủ đã được mô tả trong y văn. Biểu hiện đau 
ngực sau xương ức, đau liên tục và âm ỉ có thể 
đau xuyên ra sau lưng là biểu hiện của nguy cơ 
vỡ phình động mạch chủ. Kích thước lớn nhất 
của khối phình trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 105 mm. Trong nghiên cứu của Yoshihiko 
Kurimoto, có 33 bệnh nhân phình quai động 
mạch chủ được can thiệp đặt stent graft, kích 
thước lớn nhất của túi phình lên tới 303 mm 10.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
164 TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 7. Túi phình lớn vùng quai động mạch chủ trong nghiên cứu
Biến chứng vỡ phình động mạch chủ thường đến sau biểu hiện lâm sàng này, thường liên quan 
đến trạng thái gắng sức, ho, chấn thương va đập, cơn tăng huyết áp và những hoạt động gia tăng 
áp lực lồng ngực. Một bệnh nhân đến với chúng tôi trong bệnh cảnh cấp cứu do vỡ khối phình vào 
màng phổi trái. 
Hình 8. Phình động mạch chủ biến chứng vỡ vào khoang màng phổi trái
Trong nghiên cứu của Nadia Vallejo, tỷ lệ bệnh nhân nhập viện trong bệnh cảnh cấp cứu chiểm 
26%. 4
Kỹ thuật can thiệp: Trong nghiên cứu của chúng tôi, cả 5 bệnh nhân đều được thực hiện phương 
pháp Hybrid không mở ngực. Có 2 bệnh nhân được đặt Stent đến zone 1 động mạch chủ. Có 3 bệnh 
nhân được đặt đến zone 0 động mạch chủ và đặt stent nhánh thân cánh tay đầu.
Với kỹ thuật đặt stent đến zone 1, cầu nối động mạch cảnh phải - động mạch cảnh trái kèm hoặc 
không kèm động mạch dưới đòn trái được thực hiện trong thì đầu. Ở thì 2, stent graft được đặt ở 
ngay sau gốc của thân cánh tay đầu. Một số trường hợp nếu gốc của thân cánh tay đầu không bị 
hẹp, đầu gần của stent có thể được đặt tiến vào một phần của gốc động mạch này để tăng khả năng 
cố định của stent, thường áp dụng cho những bệnh nhân có phình quai lớn, có nguy cơ di lệch và 
trôi stent vào khối phình sau khi đặt.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
165TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 9. Stent graft được đặt ở vùng zone 1
Nghiên cứu của Nadia Vallejo, tỷ lệ đặt stent 
vùng zone 1 đối với bệnh nhân bệnh lý vùng 
quai động mạch chủ là 11/38. 4 Kỹ thuật này 
dễ áp dụng và được chỉ định đối với những 
bệnh nhân có khối phình quai không lớn hoặc 
lóc tách động mạch chủ type B lan ngược lên 
quai động mạch chủ hoặc có vùng landing 
zone ngắn. Trong quá trình thực hiện thủ thuật, 
thông thường chúng tôi sử dụng 2 đường vào: 
Một đường động mạch đùi chung (thường ở 
bên phải), một đường động mạch quay phải. 
Đường động mạch đùi chung được thiết lập 
bởi mở mạch bằng phẫu thuật hoặc perclose, 
được sử dụng để đẩy và thả dụng cụ. Đường 
động mạch quay để đưa vào thân cánh tay đầu 
xuống động mạch chủ lên với mục đích đánh 
dấu động mạch chủ lên và kết nối máy chụp 
thuốc cản quang. Đầu tiên chúng tôi sử dụng 
ống thông Pigtail với sự dẫn đường của dây 
dẫn Terumo đầu cong 0,035 inch, đi vào đường 
động mạch đùi lên động mạch chủ lên. Sau đó 
chúng tôi rút dây dẫn Terumo và thay bằng dây 
dẫn siêu cứng. Qua đường ống thông Pigtail 
của động mạch quay, phim chụp cung động 
mạch chủ được thực hiện để đánh dấu tổn 
thương và vị trí giải phẫu của các nhánh mạch 
vùng quai. Stent graft đã được lựa chọn về kích 
thước và chiều dài dựa trên tính toán của phim 
chụp MSCT, được đưa vào động mạch chủ 
lên qua đường động mạch đùi và dây dẫn siêu 
cứng dẫn đường. Khi stent đúng vị trí, chúng tôi 
thực hiện thao tác thả stent ở góc nghiêng trái 
45-60 độ. Trong quá trình thả stent, việc chụp 
kiểm tra vị trí của stent được thực hiện lặp lại 
để đảm bảo stent đúng vị trí và không di lệch. 
Nếu quá trình thả những mắt stent đầu tiên, khi 
đầu stent bị di lệch, chúng tôi có thể dễ dàng 
điều chỉnh, tuy nhiên khi stent đã được thả trên 
1/3 chiều dài, việc điều chỉnh là khó khăn do áp 
lực của lòng động mạch chủ đầy stent áp sát 
vào thành. 
Hình 10. Mở stent và thân cánh tay đầu 
được đánh dấu bởi ống thông Pigtail
Kỹ thuật đặt stent graft ở vùng zone 0 được 
thực hiện ở 3 bệnh nhân còn lại. So với kỹ thuật 
đặt ở các vùng còn lại, đây là kỹ thuật khó nhất 
và phức tạp nhất 11. Về mặt kỹ thuật có sự khác 
biệt đối với đặt stent vùng zone 1. Đường vào là 
động mạch đùi 2 bên, một bên để đưa stent lên, 
một bên để đưa ống thông Pigtail lên gốc có kết 
nối bơm chụp cản quang. Một đường nữa là 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
166 TCNCYH 134 (10) - 2020
động mạch cánh tay hoặc động mạch dưới đòn 
bên phải, đường này dùng để đặt stent thân 
cánh tay đầu. 
Hai dây dẫn siêu cứng được đưa vào động 
mạch đùi và động mạch cánh tay (hoặc dưới 
đòn bên phải) vào thân cánh tay đầu. Đầu dây 
dẫn đường cho stent động mạch chủ có thể 
được đưa vào trong buồng thất trái, đầu dân 
dẫn còn lại đặt ở gốc động mạch chủ. Để phòng 
biến chứng rối loạn nhịp trong lúc thực hiện thủ 
thuật, cần đặt máy tạo nhịp tạm thời để chế độ 
chờ. Có một số tác giả để cả 2 đầu dây dẫn ở 
gốc động mạch chủ.
Hình 11. Vị trí của stent động mạch chủ và 
stent thân cánh tay đầu trước thả
Trong thao thác thả stent sẽ có 1 người thả 
stent động mạch chủ, 1 người thả stent nhánh 
thân cánh tay đầu, các bác sỹ còn lại sẽ phối 
hợp để giữ cho dây dẫn ổn định. Trước tiên, 
stent động mạch chủ sẽ được thả chậm cho 
đến khoảng 3 mắt đầu tiên, sau đó stent thân 
cánh tay đầu cũng được mở những mắt phần 
đầu, đầu xa của stent cánh tay đầu phải thấp 
hơn đầu xa của stent động mạch chủ khoảng 
1 cm. Để đảm bảo mối tương quan của 2 stent 
và khoảng cách an toàn với động mạch vành, 
việc thực hiện phim chụp động mạch chủ là bắt 
buộc, thông thường tư thế nghiêng bóng 45-60 
độ. 
Hình 12. Chụp kiểm tra 2 stent và khoảng 
cách tới động mạch vành
Khi vị trí của 2 stent ổn định và khoảng cách 
tới động mạch vành phù hợp, cả 2 stent sẽ 
được thả đồng thời và nhịp nhàng để 2 stent 
khi nở ra sẽ áp sát nhau. Đối với stent thân 
cánh tay đầu cần chú ý đầu xa của stent phải 
được căn chỉnh khi thả sao cho ở phía trước ngã 
3 chia đôi động mạch cảnh chung và động mạch 
dưới đòn. Vị trí ngã 3 này phải được đánh dấu 
bằng phim roadmap (phim nhớ hình giải phẫu 
mạch máu bằng thuốc cản quang). Trong khi thực 
hiện thao tác thả có thể để máy tạo nhịp ở tần 
số nhanh phù hợp để giảm huyết áp, giảm thiểu 
nguy cơ di lệch stent. Stent đặt cho thân cánh tay 
đầu có kích thước bằng với kích thước thân cánh 
tay đầu, đồng thời phải có độ cứng của chất liệu 
tương đương với stent động mạch chủ. Nếu độ 
cứng của stent thân cánh tay đầu khác biệt với 
nhánh động mạch chủ, sẽ có nguy cơ gập stent 
nhánh hoặc rò giữa 2 stent.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
167TCNCYH 134 (10) - 2020
Hình 13. Hình ảnh MSCT sau can thiệp của bệnh nhân được áp dụng kỹ thuật Chimney technique
Trong nghiên cứu của Nadia Vallejo, trong 
số 27 bệnh nhân được đặt stent vùng zone 0, 
chỉ có 5 bệnh nhân được thực hiện kỹ thuật 
Chimney technique, những bệnh nhân này có 
tiền sử mở ngực cưa xương ức trước đó và có 
nguy cơ của phẫu thuật cao. 4
Với tổn thương phần quai động mạch 
chủ phải đặt stent đến vùng zone 0, tác giả 
Yoshihiko Kurimoto có cách tiếp cận khác khi 
không sử dụng sỹ thuật Chimney hay bắc cầu 
ở một số trường hợp. Trong nghiên cứu của 
Yoshihiko Kurimoto với 37 trường hợp bệnh 
nhân phình động mạch chủ phải can thiệp đến 
vùng zone 0, có có áp dụng một vài trường hợp 
sử dụng Stent graft mở cửa sổ 10. Kỹ thuật này 
sử dụng loại stent được mở cửa sổ với kích 
thước khoảng cách phù hợp với cách nhánh 
của quai động mạch chủ, dựa trên sự đo đạc 
chính xác của phim MSCT. Kỹ thuật này có ưu 
điểm là không phải phẫu thuật bắc cầu cũng 
như bảo tồn được vị trí nguyên uỷ nơi xuất phát 
của mạch máu vùng quai 11. Nhược điểm là mất 
thời gian để thiết kế và sản xuất không phù hợp 
cho bệnh nhân cấp cứu, ngoài ra có nguy cơ rò 
qua vị trí cửa sổ vào túi phình.
Hình 14. Phình động mạch chủ được can thiệp tới vùng zone 0 sử dụng stent graft mở cửa sổ
Tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật trong can thiệp Hybrid điều trị bệnh lý quai động mạch chủ lên 
tới 95% đến 100% qua các nghiên cứu. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ thành công về mặt kỹ 
thuật đạt 100%.
Tỷ lệ tử vong sớm trong vòng 1 tháng sau thủ thuật từ 0 - 29,6%, nguyên nhân tử vong được kể 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
168 TCNCYH 134 (10) - 2020
đến là liệt tuỷ, đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy hô 
hấp, suy đa tạng, chảy máu trong. Nghiên cứu 
của chúng tôi không ghi nhận trường hợp tử 
vong nào. Tỷ lệ sống sau 1 năm đạt 5/5.
Biến chứng được ghi nhận trong can thiệp 
động mạch chủ vùng zone 0 gồm đột quỵ, liệt 
ngoại biên, nhồi máu cơ tim, suy thận, chảy 
máu, suy hô hấp, nhiễm trùng, rối loạn nhịp. 
Tỷ lệ biến chứng gộp có thể lên tới trên 30%. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi nhận 
3 loại biến chứng: Biến chứng rối loạn nhịp, 
biến chứng thủng xoang valsava không vành 
vào thất phải, biến chứng nhồi máu não.
Biến chứng rối loạn nhịp xảy ra ở 2 bệnh 
nhân: Bệnh nhân đầu tiên xảy ra rối loạn nhịp 
vô tâm thu khi đưa dụng cụ đến động mạch 
chủ lên với dây dẫn nằm trong buồng thất trái. 
Chúng tôi xử trí bằng cách rút lại hệ thống dây 
dẫn và dụng cụ về động mạch chủ xuống, bật 
máy tạo nhịp. Sau khoảng 1 phút, nhịp của 
bệnh nhân phục hồi về nhịp xoang. Chúng 
tôi cho rằng nguyên nhân có thể do dụng cụ 
khi đưa vào động mạch chủ lên, phần đầu hệ 
thống thả đi vào phần đường ra thất trái chèn 
ép đường dẫn truyền. Khi tình trạng huyết động 
và nhịp tim về bình thường, chúng tôi tiến hành 
đặt dây dẫn ở gốc động mạch chủ. 
Bệnh nhân thứ 2 có biểu hiện rung nhĩ nhanh 
sau thủ thuật kèm theo chảy máu màng phổi 
bên trái tiếp tục gây tụt áp. Bệnh nhân được xử 
trí bù khối lượng tuần hoàn, truyền máu, dùng 
thuốc rối loạn nhịp phục hồi nhịp xoang.
Hình 15. Biến chứng vô tâm thu khi phần 
đầu dụng cụ đi đường ra thất trái với dây 
dẫn trong buồng thất trái
Biến chứng thủng xoang valsava không 
vành vào thất trái: Biến chứng này xảy ra ở 
một bệnh nhân. Sau khi thả xong stent động 
mạch chủ và thân cánh tay đầu, chúng tôi chụp 
kiểm tra phát hiện ra biến chứng này. Để xử trí 
biến chứng này, chúng tôi tiến hành lái dây dẫn 
Terumo 0,035 inch qua lỗ thủng vào thất phải 
lên tĩnh mạch chủ trên. Từ đường tĩnh mạch 
đùi chúng tôi bắt thòng lọng kéo dây dây ra 
ngoài. Sau đó chúng tôi tiến hành bít xuôi dòng 
lỗ thủng bằng dụng cụ ADO1 kích thước 12x10 
mm che kín hoàn toàn tổn thương. 
Hình 16. Biến chứng thủng xoang không vành và dụng cụ kín bít lỗ thủng
Chúng tôi tìm hiểu nguyên nhân của biến chứng này và thấy rằng trong quá trình thả dụng cụ, 
đầu dây dẫn của stent động mạch chủ đã bị trôi ra đến phần mềm của dây và không đủ bảo vệ, 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
169TCNCYH 134 (10) - 2020
do đó phần đầu nhọn của hệ thống thả đã đâm 
thủng xoang không vành. Để tránh biến chứng 
này đòi hỏi người phụ phải phối hợp rất nhịp 
nhàng trong quá trình thao tác đảm bảo cho 
dân dẫn đủ độ dài cần thiết.
Hình 17. Phần dây dẫn bị trôi ra đến phần 
mềm của dây
Biến chứng đột quỵ não: Biến chứng này 
xảy ra ở một bệnh nhân với biến chứng rung 
nhĩ nhanh sau thủ thuật kèm theo tiếp dục chảy 
máu khoang màng phổi sau thủ thuật. Bệnh 
nhân sau đó được mở khí quản và chăm sóc 
lâu dài. Tác giả Joseph Bavaria nghiên cứu 
trên 36 bệnh nhân được điều trị bằng phương 
pháp Hybrid đặt stent graft vùng zone 0 cũng 
ghi nhận 15 bệnh nhân (chiếm 42%) có biểu 
hiện rung nhĩ.3 Đây là nguyên nhân trực tiếp và 
hay gặp của biến chứng nhồi máu não. Ngoài 
ra còn có nguyên nhân trôi mảng xơ vữa động 
mạch chủ gây nhồi máu não cũng được đặt ra. 
Cho tới nay cũng chưa có khuyến cáo nào nói 
về biện phòng ngừa biến chứng nhồi máu não 
do rung nhĩ ở bệnh nhân can thiệp vùng zone 0 
động mạch chủ. Do đó vẫn cần những thông tin 
của những nghiên cứu với số lượng bệnh nhân 
lớn hơn và thời gian theo dõi dài hơn.
Hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là 
số lượng bệnh nhân còn ít so với các nghiên 
cứu khác do đó các thông số thống kê chưa có 
ý nghĩa thật sự thuyết phục. Chúng tôi hy vọng 
sẽ tiếp tục thực hiện những nghiên cứu với cỡ 
mẫu lớn hơn.
IV. KẾT LUẬN
Với những tiến bộ không ngừng về kỹ thuật 
và cải tiến dụng cụ trong y học nói chung và 
trong tim mạch can thiệp nói riêng, việc thực 
hiện điều trị bằng phương pháp ít xâm lấn ngày 
càng được ứng dụng ở hầu hết các thể bệnh 
đòi hỏi can thiệp ngoại khoa. Phương pháp 
Hybrid đã được áp dụng để điều trị thể bệnh 
phức tạp nhất của động mạch chủ với những 
nghiên cứu với số lượng bệnh nhân ngày càng 
lớn và thời gian theo dõi ngày càng dài, đã trở 
thành phương pháp điều trị thay thế hiệu quả 
phẫu thuật kinh điển. Việc áp dụng phương 
pháp này ở 5 bệnh nhân đầu tiên đã cho thấy 
tính hiệu quả và khả thi về mặt kỹ thuật cũng 
như qua thời gian theo dõi trên 12 tháng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lân Việt và cộng sự. Thực Hành 
Bệnh Tim Mạch. Hà Nội: Nhà xuất bản Y học; 
2015.
2. Frank J Criado. A percutaneous technique 
for preservation of arch branch patency during 
thoracic endovascular aortic repair (TEVAR): 
retro- grade catheterization and stenting. J 
Endovasc Ther. 2007;14(1):54-58. doi:https://
doi.org/10.1583/06-2010.1
3. Bavaria J, Vallabhajosyula P, Moeller 
P, Szeto W, Desai N, Pochettino A. Hybrid 
approaches in the treatment of aortic arch 
aneurysms: Postoperative and midterm 
outcomes. The Journal of Thoracic and 
Cardiovascular Surgery. 2013;145(3):S85-S90. 
doi:10.1016/j.jtcvs.2012.11.044
4. Vallejo N, Rodriguez-Lopez JA, Heidari 
P, et al. Hybrid repair of thoracic aortic lesions 
for zone 0 and 1 in high-risk patients. Journal 
of Vascular Surgery. 2012;55(2):318-325. 
doi:10.1016/j.jvs.2011.08.042
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
170 TCNCYH 134 (10) - 2020
5. Frank J Criado, Marcos F Barnatan, 
Youssef Rizk, Nancy S Clark. Technical 
strategies to expand stent-graft applicability 
in the aortic arch and proximal descending 
thoracic aorta. J Endovasc Ther. 2002;9(2):II32-
38. doi:https://doi.org/10.1177%2F1526602802
0090S206
6. Tokuda Y, Oshima H, Narita Y, et al. 
Hybrid versus open repair of aortic arch 
aneurysms: co mparison of postoperative and 
mid-term outcomes with a propensity score-
matching analysis. Eur J Cardiothorac Surg. 
2016;49(1):149-156. doi:10.1093/ejcts/ezv063
7. Esposito G, Cappabianca G, Bichi S, 
Cricco A, Albano G, Anzuini A. Hybrid repair 
of type A acute aortic dissections with the 
Lupiae technique: Ten-year results. The 
Journal of Thoracic and Cardiovascular 
Surgery. 2015;149(2):S99-S104. doi:10.1016/j.
jtcvs.2014.07.099
8. Leontyev S, Misfeld M, Daviewala P, et 
al. Early- and medium-term results after aortic 
arch replacement with frozen elephant trunk 
techniques—a single center study. Annals of 
cardiothoracic surgery. 2013;2(5):6.
9. Benedetto U, Melina G, Angeloni E, 
Codispoti M, Sinatra R. Current results of 
open total arch replacement versus hybrid 
thoracic endovascular aortic repair for aortic 
arch aneurysm: A meta-analysis of comparative 
studies. The Journal of Thoracic and 
Cardiovascular Surgery. 2013;145(1):305-306. 
doi:10.1016/j.jtcvs.2012.09.011
10. Yoshihiko Kurimoto, Ryushi Maruyama, 
Kousuke Ujihira, Naritomo Nishioka. Thoracic 
Endovascular Aortic Repair for Challenging 
Aortic Arch Diseases Using Fenestrated 
Stent Grafts From Zone 0. Ann Thorac 
Surg. 2015;100(1):24-32. doi:doi: 10.1016/j.
athoracsur.2015.01.071.
11. Preventza O, Tan CW, Orozco-Sevilla 
V, Euhus CJ, Coselli JS. Zone zero hybrid arch 
exclusion versus open total arch replacement. 
Ann Cardiothorac Surg. 2018;7(3):372-379. 
doi:10.21037/acs.2018.04.03
Summary
APPLICATION OF INTERVENTION AND SURGICAL 
COMBINATION METHODOLOGY IN TREATMENT OF AORTIC 
ARCH DISEASES (HYBRID TECHNIQUE)
The classic method of treating aortic arch diseases is surgery. Complications related to surgery 
including infection, bleeding, disease recurrence limit the effectiveness of this method. But the last 
2 decades, the application of the combined surgical and intervention (Hybrid) has reduced the surgery 
time, increased the successful rate, and minimized the complications. The aim of this approach is to 
extend a landing zone long enough to implant the stent graft without leaking in the site of the lesion. 
Surgical displacement of the aortic arch branches with or without strengthening the ascending aorta 
helps extanding the landing zone. The intervention will be placed in a suitable position to cover the 
disease lesion. Through research and application, we find that this is a new and effective method 
compared to the classic method in treatment of aortic arch disease, especially for high-risk patients.
Keywords: Aortic arch aneyrysm, Aortic arch dissection, Hybrid

File đính kèm:

  • pdfung_dung_phuong_phap_can_thiep_ket_hop_phau_thuat_trong_dieu.pdf