Ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của John Mayer và Peter Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non
Abstract: Emotional intelligence is a type of intelligence that demonstrates the subject's capability
to deal with emotional issues that reflect the mood or emotions of individuals in all general
activities and activities. occupation in particular. Emotional intelligence consists of four emotional
energies, namely: Identifying emotions of oneself and others; Using emotions to support, promote
thinking, allowing people to regulate their emotions in different cognitive processes; Understand
emotions and rules of emotion; Managing / adjusting emotions. From this emotional intelligence
model, we applied the identification of 4 groups of competencies in the professional activities of
preschool teachers
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của John Mayer và Peter Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của John Mayer và Peter Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 21-25; 53 21 Email: nthuyen-mn@moet.gov.vn ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA JOHN MAYER VÀ PETER SALOVEY ĐỂ XÁC ĐỊNH CÁC YẾU TỐ TRÍ TUỆ CẢM XÚC TRONG HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON Nguyễn Thị Thanh Huyền - Bộ Giáo dục và Đào tạo Ngày nhận bài: 10/03/2018; ngày sửa chữa: 20/03/2018; ngày duyệt đăng: 24/04/2018. Abstract: Emotional intelligence is a type of intelligence that demonstrates the subject's capability to deal with emotional issues that reflect the mood or emotions of individuals in all general activities and activities. occupation in particular. Emotional intelligence consists of four emotional energies, namely: Identifying emotions of oneself and others; Using emotions to support, promote thinking, allowing people to regulate their emotions in different cognitive processes; Understand emotions and rules of emotion; Managing / adjusting emotions. From this emotional intelligence model, we applied the identification of 4 groups of competencies in the professional activities of preschool teachers. Keywords: emotional intelligence; emotional intelligence model; Preschool teachers, emotional intelligence of preschool teachers. 1. Mở đầu Trong những năm gần đây, trí tuệ cảm xúc (TTCX) là một hướng nghiên cứu mới về trí tuệ, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Có nhiều quan điểm khác nhau về TTCX. Theo Reuven Bar - On“TTCX là một tổ hợp các năng lực phi nhận thức và những kĩ năng chi phối năng lực của cá nhân nhằm đương đầu có hiệu quả với những đòi hỏi và sức ép từ môi trường” [1; tr 15]. Daniel Goleman cho rằng “Trí tuệ xúc cảm bao gồm những năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình, kiên trì và năng lực tự thôi thúc mình” [2; tr 36]. Ông cũng khẳng định “Trí tuệ xúc cảm không có nghĩa là để cho mọi người tự do và có cảm giác “hãy để mọi thứ tự nhiên” mà có nghĩa là phải kiểm soát được tình cảm để chúng bộc lộ một cách thích hợp và hiệu quả, khuyến khích được những người xung quanh hợp tác ăn ý với nhau để đạt đến mục tiêu chung” [3; tr 25-26]. John Mayer và Peter Salovey lại tiếp cận TTCX theo mô hình thuần năng lực. Trong các cách tiếp cận đó, cách tiếp cận theo mô hình thuần năng lực của J. Mayer và P. Salovey được sử dụng phổ biến hơn cả. Bài viết trình bày về cách ứng dụng mô hình TTCX của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố TTCX trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non (GVMN) ở Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mô hình trí tuệ cảm xúc của John Mayer và Peter Salovey Theo J. Mayer và P. Salovey “TTCX như là năng lực nhận biết, bày tỏ cảm xúc; hòa cảm xúc vào suy nghĩ; hiểu, suy luận với cảm xúc; điều khiển, kiểm soát cảm xúc của mình và của người khác” [4; tr 186]. Như vậy, TTCX gắn liền với cách thức cá nhân nhận thức về cảm xúc, giúp con người nhận biết, vận dụng vào thực tế cuộc sống; hiểu và kiểm soát được cảm xúc của bản thân và của người khác, từ đó giúp chủ thể giải quyết tốt các tình huống giao tiếp ứng xử đang diễn ra trong lao động và cuộc sống thường ngày. Mô hình trí tuệ cảm xúc (EI97) của J. Mayer và P. Salovey [5; tr 11] xem TTCX như là một tổ hợp gồm bốn nhóm năng lực liên quan đến cảm xúc, từ các kĩ năng cơ bản cho đến các kĩ năng phức tạp, được mô tả cụ thể như sau (xem hình 1 trang bên). - Nhóm năng lực nhận biết các cảm xúc: gồm các kĩ năng cho phép cá nhân biết cách cảm nhận, thấu hiểu và biểu lộ các cảm xúc. Các năng lực cụ thể bao gồm nhận dạng những cảm xúc của mình và của người khác, bày tỏ cảm xúc của mình và phân biệt được những dạng cảm xúc mà người khác biểu lộ trên nét mặt, ánh mắt, giọng nói của họ, đôi khi hành vi cá nhân chẳng hạn như những biểu hiện trung thực và thiếu trung thực của cảm xúc. Nhận biết cảm xúc giúp cá nhân nhận ra và nhập vào các thông tin từ hệ thống cảm xúc dưới hai hình thức có lời và không lời. Các quá trình thu nhận thông tin cơ bản này là điều kiện tiên quyết cần thiết cho quá trình hình thành những thông tin cảm xúc sau này để giải quyết vấn đề. - Nhóm năng lực sử dụng cảm xúc để hỗ trợ, thúc đẩy tư duy: nhóm năng lực này cho phép con người điều tiết cảm xúc của mình trong các quá trình nhận thức khác nhau; nhận thức được rằng những thay đổi tâm trạng có thể dẫn đến sự xem xét những quan điểm thay thế và hiểu rằng sự thay đổi trạng thái cảm xúc, cách nhìn có thể khuyến khích nảy sinh các loại năng lực giải quyết vấn VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 21-25; 53 22 Nhận biết, đánh giá và biểu lộ xúc cảm Những cảm xúc tiềm tàng và đủ mạnh mẽ sống động có thể bộc phát nhằm giúp cho việc đánh giá và ghi nhớ có liên quan đến cảm giác Năng lực nhận biết xúc cảm của người khác, trong những thiết kế, tác phẩm nghệ thuậtqua ngôn ngữ, âm thanh, diện mạo và hành vi Năng lực thể hiện xúc cảm chính xác, và thể hiện những nhu cầu liên quan đến xúc cảm đó Năng lực phân biệt sự biểu hiện xúc cảm chân thật hay không chân thật, chính xác hay không chính xác. Tạo điều kiện xúc cảm cho suy nghĩ Những giao động tâm trạng cảm xúc làm một người thay đổi từ lạc quan sang bi quan, thúc đẩy việc xem xét các cách nhìn nhận khác nhau Tình trạng xúc cảm tác động đến cách giải quyết những vấn đề cụ thể, chẳng hạn như khi hạnh phúc thì thúc đẩy suy luận logic và sáng tạo Những cảm xúc thúc đẩy suy nghĩ bằng cách hướng sự quan tâm chú ý vào những thông tin quan trọng Năng lực xác định xúc cảm và nhận biết mối quan hệ giữa ngôn từ và xúc cảm chẳng hạn như mối quan hệ giữa thích và yêu Năng lực giải thích ý nghĩa mà xúc cảm truyền đạt liên quan đến những mối quan hệ, chẳng hạn như nỗi buồn thường đi kèm với sự mất mát Năng lực thấu hiểu những xúc cảm phức tạp, xúc cảm yêu ghét đồng thời hoặc những xúc cảm pha trộn chẳng hạn như sự kinh sợ là kết hợp của nỗi sợ hãi và ngạc nhiên. Hiểu và phân tích xúc cảm; sử dụng những tri thức xúc cảm Năng lực nhận thức được những chuyển đổi xúc cảm có thể xảy ra, chẳng hạn như sự chuyển đổi từ giận dữ sang thỏa mãn, hoặc từ giận dữ sang xấu hổ. EI Điều chỉnh xúc cảm một cách có suy nghĩ nhằm tăng cường sự phát triển xúc cảm và trí tuệ Năng lực kiểm soát xúc cảm của bản thân và người khác bằng cách điều chỉnh xúc cảm tiêu cực và thúc đẩy cảm xúc dễ chịu mà không cần kìm nén hay thổi phồng những thông tin mà nó biểu đạt. Năng lực để xúc cảm phát triển tự do, cả xúc cảm dễ chịu và khó chịu Năng lực điều chỉnh xúc cảm liên quan tới bản thân và những người khác một cách có suy nghĩ, chẳng hạn nhận thức được những xúc cảm đó rõ ràng, đặc trưng, có sức ảnh hưởng hoặc hợp lí. Năng lực loại bỏ hoặc tách biệt xúc cảm một cách có suy nghĩ, phụ thuộc vào thông tin mà xúc cảm đó đem lại hoặc việc sử dụng xúc cảm đó. Hình 1. Mô hình trí tuệ cảm xúc EI 97 của J.Mayer và P.Salovay [5; tr 11] VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 21-25; 53 23 đề khác nhau. Ví dụ: cảm giác thất vọng có thể làm người ta tin rằng họ không có năng lực hay không phù hợp với công việc nào đó; cảm xúc phấn khởi, hào hứng giúp con người thông minh hơn, đưa ra nhiều ý tưởng sáng tạo, cách giải quyết vấn đề dứt khoát nên dễ dẫn đến thành công; cảm xúc cũng có thể được khai thác để hỗ trợ hiệu quả hơn trong việc giải quyết vấn đề, lập luận và đưa ra các quyết định. - Nhóm năng lực hiểu các cảm xúc và quy luật của cảm xúc: hiểu biết về nguyên nhân và tiến trình phát triển cảm xúc, thể hiện năng lực đánh giá cảm xúc của người khác, của cá nhân và sự thấu hiểu mà họ có được từ việc quan sát cảm nhận của người khác. Năng lực này đòi hỏi kiến thức cần thiết về cảm xúc, bao gồm năng lực gọi tên các cảm xúc, phân biệt được các loại cảm xúc khác nhau, hiểu được sự pha trộn phức tạp của các loại tình cảm và nhận ra các quy luật về tình cảm: chẳng hạn sự tức giận loại bỏ được sự e thẹn, sự mất mát thường kéo theo sự buồn chán. Những thành tố này trải ra từ năng lực xác định cảm xúc và nhận ra mối quan hệ giữa lời nói và cảm xúc đến năng lực nhận biết sự chuyển biến cảm xúc có thể xảy ra. - Nhóm năng lực quản lí/điều chỉnh cảm xúc: nhóm năng lực này xem xét sự điều chỉnh cảm xúc trong chính mỗi cá nhân và những người khác: kiểm soát, tự điều khiển các cảm xúc của bản thân, sắp xếp các cảm xúc nhằm hỗ trợ một mục tiêu xã hội nào đó, điều khiển cảm xúc của người khác. Ở mức độ phức tạp hơn này của TTCX gồm các kĩ năng cho phép cá nhân tham gia có chọn lọc vào các loại cảm xúc nào đó hoặc thoát ra khỏi những cảm xúc nào đó để điều khiển, kiểm soát các cảm xúc của mình và của người khác. Năng lực này bao gồm những kĩ năng cao nhất, sắp xếp từ việc để cảm xúc tự do phát triển đến khả năng quản lí cảm xúc của bản thân và người khác bằng cách tăng cường những cảm xúc dễ chịu và điều hòa những cảm xúc tiêu cực. Năng lực giúp đỡ người khác cải thiện hoặc thay đổi tâm trạng là một kĩ năng quan trọng, khuyến khích các hoạt động phù hợp với xã hội và hỗ trợ sự hình thành, duy trì các mối quan hệ xã hội vững chắc. 2.2. Ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của J. Mayer và P. Salovey xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non 2.2.1. Hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non GVMN là những người có tri thức về sự phát triển thể chất, tâm - sinh lí trẻ em và có phương pháp nuôi dưỡng, chăm sóc và GD trẻ em; có kĩ năng chuyên nghiệp nhất định để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, giáo dục trẻ em dưới 6 tuổi, đáp ứng nhu cầu xã hội về phát triển con người mới trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa. Nghề GVMN có những đặc thù rất riêng. Ngoài chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, GVMN phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và lòng yêu trẻ, biết vị tha, chu đáo, gần gũi và nâng niu trẻ em. GVMN không chỉ dạy mà cần có tình yêu đối với trẻ, kiên nhẫn, linh hoạt và sáng tạo. Trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, GVMN cùng một lúc phải đóng ba vai trò xã hội: vừa là người mẹ, vừa là người thầy, vừa là người bạn cùng học, cùng chơi, cùng hát, múa với trẻ - đối tượng còn non nớt về mọi mặt, nhưng rất hiếu động, chưa đủ khả năng điều chỉnh hành vi và tự chăm sóc bản thân Đây là một áp lực lớn đối với GVMN, đòi hỏi họ phải luôn nhận biết cảm xúc, quản lí và điều khiển cảm xúc của bản thân, của đồng nghiệp hay của trẻ. Nếu GVMN không yêu nghề, mến trẻ, năng lực TTCX hạn chế thì sẽ khó vượt qua áp lực công việc, dễ dẫn đến những hành vi, việc làm, thái độ thiếu tính sư phạm. Trong nhiều tình huống, nhiều GV không nhận biết được cảm xúc của bản thân, của trẻ dẫn đến không kiểm soát, điều khiển được cảm xúc của mình, thậm chí xảy ra tình trạng bạo hành về thể chất lẫn tinh thần trẻ em, nhất là khi chúng lười ăn, bướng bỉnh, tranh giành đồ chơi của bạn, khóc nhè Như vậy, bồi dưỡng năng lực TTCX phù hợp với hoạt động nghề nghiệp cho GVMN là việc làm thực sự cấp thiết, cần được thực hiện ngay từ khâu đào tạo ở các trường sư phạm và cần tiếp tục bồi dưỡng trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. 2.2.2. Ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của J. Mayer và P. Salovey xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non Dựa trên mô hình TTCX của J. Mayer và P. Salovey; căn cứ vào tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của GVMN, chúng tôi cho rằng: TTCX trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN bao gồm 4 nhóm năng lực; cụ thể: * Nhóm năng lực nhận biết các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em - Nhận thức được rằng cảm xúc đóng vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi của con người. - Nhận biết chính xác các cảm xúc đang diễn ra ở bản thân. - Quan sát và cảm nhận để nhận biết được cảm xúc của trẻ hàng ngày. Chủ động hỏi và sử dụng các phương thức khác để biết cảm xúc, tâm trạng của trẻ - Hiểu ý nghĩa phổ biến của các hành vi phi ngôn ngữ. - Đồng cảm với trạng thái tâm lí, cảm xúc tình cảm của đồng nghiệp - Hỗ trợ/dạy trẻ nhận biết cảm xúc của bản thân và của người khác * Nhóm năng lực sử dụng các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 21-25; 53 24 - Thể hiện/bày tỏ chính xác cảm xúc, tình cảm của bản thân để trẻ nhận biết được trên cơ sở kết hợp hài hòa, thống nhất hành vi ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ. - Biết tạo ra/sử dụng những cảm xúc tích cực ở bản thân, ở trẻ để thúc đẩy quá trình nhận thức, tạo điều kiện cho hoạt động của cô và trẻ diễn ra thuận lợi, hướng đến mục tiêu GD/thực hiện tốt công việc. - Biết cân nhắc để tổ chức quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ/giao nhiệm vụ phù hợp với cảm xúc tâm trạng của trẻ. - Trong các hoạt động, biết tạo ra cảm xúc tích cực/môi trường tinh thần tích cực như: tạo không khí thật cởi mở, tôn trọng ý kiến của tất cả trẻ. Biết khen ngợi, khích lệ trẻ nêu ý kiến làm cho mọi trẻ thoát khỏi vỏ bọc “tự ti”, “phòng thủ”, mạnh dạn nêu ra chính kiến của mình. - Biết đồng cảm với cảm xúc của trẻ, đặc biệt sự lo lắng, sợ hãi, bất an... của trẻ, và chú ý tới những trẻ có khó khăn. - Tìm hiểu nguyên nhân, làm cho trẻ cảm thấy yên tâm, tự tin hơn vì không sợ bị phê bình, trách phạt. Thể hiện thái độ, lời nói, cử chỉ đúng mực, tôn trọng, yêu thương trẻ, không dọa dẫm làm trẻ sợ hãi, lo lắng, cho trẻ thời gian để trẻ tự nhận ra lỗi và tự tìm cách khắc phục, rút kinh nghiệm cho lần sau. - Kiên trì lắng nghe ý kiến của trẻ/người khác, nhất là các ý kiến khác biệt, thậm chí là trái chiều. Kiềm chế không phản ứng ngay theo cách chê bai, diễu cợt các ý kiến khác biệt với mình. GVMN cần biết lắng nghe và khích lệ ý kiến của trẻ, sự sáng tạo trong các hoạt động. - Có khả năng điều chỉnh cảm xúc của bản thân để thay đổi quan điểm một cách khách quan, biết đặt mình vào vị trí của người khác (như của trẻ hay của đồng nghiệp) để hiểu cảm xúc, tâm trạng của trẻ, đồng nghiệp, từ đó hiểu đúng hơn quan điểm, suy nghĩ của trẻ, của đồng nghiệp. Từ đó đồng cảm, thông cảm với cảm xúc của người khác. * Nhóm năng lực hiểu các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em - Suy luận, dự báo được chiều hướng phát triển của các cảm xúc bằng cách trả lời câu hỏi “Nếu... thì ”; “điều gì sẽ xảy ra, nếu?” trên cơ sở nắm vững các quy luật của cảm xúc. - Hiểu được/Phát hiện đúng nguyên nhân gây cảm xúc ở bản thân cũng như ở trẻ/đối tượng giao tiếp (cả cảm xúc tích cực và tiêu cực). Đặc biệt là hiểu đúng nguyên nhân gây nên cảm xúc tức giận hay lo lắng, sợ hãi, buồn rầu, thất vọng ở trẻ/ở người khác. - Hiểu mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thành công, cảm thấy hạnh phúc khi giúp đỡ người khác... - Hiểu mối liên hệ giữa việc bị đối xử bất công và các cảm xúc âm tính tiêu cực. Nếu đã trót nhầm lẫn, bất công hoặc thiếu tế nhị trong đối xử với người khác, cảm nhận được sự khó chịu ở họ, dám thừa nhận mình đã sai và chủ động xin lỗi/ sửa sai. - Lan truyền được niềm tin, giá trị, tạo ra cảm xúc hứng khởi, phấn chấn ở trẻ. - Hiểu sự lo lắng, băn khoăn, lo sợ thường xuất hiện ở trẻ. Biết động viên, khích lệ trẻ để trẻ tự tin. Không gay gắt uy hiếp, chê bai... - Tôn trọng và chấp nhận các cảm xúc của trẻ (cả cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực), cố gắng hỗ trợ trẻ kiểm soát cảm xúc tiêu cực. * Nhóm năng lực quản lí các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em - Biết thoát ra khỏi cảm xúc buồn chán, tiêu cực khi gặp khó khăn, thất bại trong công việc. Giữ thái độ bình tĩnh, cố gắng tìm ra nguyên nhân thất bại và giải pháp khắc phục. - Biết tự phân định được cảm xúc của bản thân trong công việc với cảm xúc trong cuộc sống để điều chỉnh, điều khiển cảm xúc của bản thân để cảm xúc của cuộc sống không ảnh hưởng đến cảm xúc trong công việc (ví dụ, buổi sáng giáo viên có thể gặp chuyện không vui của cá nhân hoặc trong sinh hoạt ở gia đình nhưng không mang cảm xúc tiêu cực đó vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường). - Biết thoát ra khỏi cơn giận dữ hoặc những cảm xúc mang tính tiêu cực nếu thấy nó không có lợi cho công việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Điều chỉnh cảm xúc của bản thân từ hướng tiêu cực chuyển sang hướng tích cực trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Biết động viên, khích lệ trẻ kịp thời. Giúp trẻ giải tỏa trạng thái tâm lí, cảm xúc tiêu cực và phát triển cảm xúc tích cực trong các hoạt động hằng ngày. - Giữ thái độ, cảm xúc bình tĩnh, ôn hòa. Dùng thái độ ôn hòa để “hạ nhiệt” cảm xúc của trẻ/người khác và đề nghị cùng trao đổi, tìm cách giải quyết một cách thiện chí. - Bình tĩnh, kiềm chế, tôn trọng lắng nghe tất cả các ý kiến thuận chiều và trái chiều của trẻ/mọi người (nghe cả thông tin và cả cảm xúc của họ). - Biết vượt qua rào cản cảm xúc (e ngại, lo lắng, sợ mất lòng,...) để phản hồi lại, bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình. - Biết tận dụng cơ hội khi trẻ/người cùng giao tiếp có tâm trạng vui vẻ để đề xuất các vấn đề có lợi cho quá trình chăm sóc - giáo dục trẻ em. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 21-25; 53 25 2.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi khi ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của giáo viên mầm non Để khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi khi ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN, chúng tôi tiến hành khảo sát trên 60 GVMN của 10 trường mầm non trên địa bàn TP. Hà Nội (Mầm Nhí, Ngôi Sao, Hoa Thủy Tiên, Táo Đỏ, Tuổi Thần Tiên, Hoa Ban, Happy House, Vạn Hạnh, Hoa Hồng, Hướng Dương) từ tháng 11/2017-03/2018. Kết quả ở bảng 1, 2. Kết quả bảng 1 và 2 cho thấy, đa số GV ở các trường mầm non trên địa bàn TP. Hà Nội được khảo sát đều cho rằng: việc ứng dụng mô hình trí tuệ cảm xúc của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố trí tuệ cảm xúc trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN là cần thiết và khả thi, chỉ có một số ít GVMN cho rằng đó là việc làm không cần thiết và không khả thi. Trong đó “nhóm năng lực quản lí các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em” và “Nhóm năng lực nhận biết các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em” được đánh giá là cần thiết và khả thi hơn. 3. Kết luận Từ mô hình lí thuyết TTCX của J. Mayer và P. Salovey cùng với đặc điểm nghề nghiệp của GVMN, có thể xác định cấu trúc TTCX trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN gồm: năng lực nhận biết cảm xúc; năng lực sử dụng cảm xúc; năng lực thấu hiểu cảm xúc; năng lực quản lí cảm xúc trong chăm sóc, giáo dục trẻ em. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để xây dựng nội dung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao TTCX trong hoạt động nghề nghiệp cho GVMN và xây dựng công cụ đo lường TTCX của GVMN trong hoạt động nghề nghiệp. Bảng 1. Tính cần thiết khi ứng dụng mô hình TTCX của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố TTCX trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN TT Nội dung Tính cần thiết Điểm trung bình Thứ bậc Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Số lượng (SL) Tỉ lệ (%) SL % SL % 1 Nhóm năng lực nhận biết các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 44 73,3 13 21,7 3 5,0 161 1 2 Nhóm năng lực sử dụng các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 33 55,0 25 41,7 2 3,3 151 4 3 Nhóm năng lực hiểu các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 35 58,3 24 40,0 1 1,7 154 3 4 Nhóm năng lực quản lí các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 39 65,0 17 28,3 4 6,7 155 2 Bảng 2. Tính khả thi của việc ứng dụng mô hình TTCX của J. Mayer và P. Salovey để xác định các yếu tố TTCX trong hoạt động nghề nghiệp của GVMN TT Nội dung Tính khả thi Điểm trung bình Thứ bậc Rất khả thi Khả thi Không Khả thi SL % SL % SL % 1 Nhóm năng lực nhận biết các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 38 63,3 17 28,3 5 8,3 153 2 2 Nhóm năng lực sử dụng các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 27 45,0 29 48,3 4 6,7 143 3 3 Nhóm năng lực hiểu các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 22 36,7 36 60,0 2 3,3 140 4 4 Nhóm năng lực quản lí các cảm xúc trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em 41 68,3 16 26,7 3 5,0 158 1 (Xem tiếp trang 53) VJE Tạp chí Giáo dục, Số 440 (Kì 2 - 10/2018), tr 49-53 53 6 Tăng các mối quan hệ, giao tiếp kĩ năng sống 120 95 6 5 101 84 19 16 8,042 <0,001 7 Hạn chế thói quen xấu và tệ nạn xã hội 110 87 16 13 85 71 35 29 9,858 <0,001 8 Thể hiện đam mê, năng khiếu thể thao 108 86 18 14 84 70 36 30 8,708 <0,001 9 Rèn luyện đức hạnh, hoàn thiện nhân cách 105 83 21 17 93 78 27 22 1,310 >0,05 10 Mong muốn tiếp tục tập luyện 118 94 8 6 107 89 13 11 1,588 >0,05 Tổng 1052 83,5 208 16,5 899 74,9 301 25,1 26 <0,001 Kết quả ở bảng 9 cho thấy, sau thời gian tập luyện, bất kể tập theo nội dung và hình thức tổ chức nào, về những giá trị tinh thần mà thể thao ngoại khóa đã mang lại, học viên các nhóm đều có cảm nhận tích cực hơn cảm nhận tiêu cực. Tuy nhiên, so sánh về mức độ cảm nhận của 2 nhóm sau tập luyện ngoại khóa thì học viên NTN có mức độ cảm nhận tích cực cao hơn so với NĐC ở các tiêu chí 1, 5, 6, 7, 8 (P<0,05 đến P<0,001). Các tiêu chí còn lại tuy có khác biệt về cảm nhận tích cực của NTN với NĐC nhưng chỉ là ngẫu nghiên, chưa mang ý nghĩa thống kê (P>0.05). Song, đánh giá một cách tổng thể thì cảm nhận tích cực sau tập luyện ngoại khóa môn Taekwondo vẫn chiếm ưu thế hơn tập luyện ngoại khóa môn Bóng rổ đối với học viên khóa H05S Trường CĐCSND I. Tỉ lệ đó tương ứng là 83,5% và 74,9% (P<0,001). 3. Kết luận Sau 5 tháng tập luyện ngoại khóa, cả 2 nhóm đều có sự tiến triển đáng kể về mặt thể lực. Đánh giá xếp loại thể lực học viên theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của Bộ GD-ĐT cũng như theo tiêu chuẩn rèn luyện thể lực của Bộ Công an, nhóm tập luyện ngoại khóa môn Taekwondo luôn chiếm ưu thế hơn nhóm tập luyện ngoại khóa môn Bóng rổ về tỉ lệ đạt chuẩn (96% với 82,5% - theo tiêu chuẩn Bộ GD-ĐT và 80,2% với 65,83% - theo tiêu chuẩn Bộ Công an). Kết quả học tập loại khá, giỏi của NTN tập luyện môn Taekwondo cũng cao hơn NĐC tập luyện môn Bóng rổ, với tỉ lệ tương ứng là 79,4% và 58,3%. Cảm nhận tích cực của NTN tập luyện môn Taekwondo cũng cao vượt trội hơn NĐC tập luyện môn Bóng rổ sau khi thực nghiệm kết thúc (83,5% thuộc NTN và 74,9% thuộc NĐC). Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2008). Quyết định số 53/2008/QĐ- BGDĐT ngày 18/9/2008 quy định về việc đánh giá, xếp loại thể lực học sinh, sinh viên. [2] Bộ Công an (2013). Thông tư số 24/2013/TT - BCA ngày 11/4/ 2013 quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể trong lực lượng công an nhân dân. [3] Lê Văn Lẫm - Phạm Xuân Thành (2007). Giáo trình đo lường thể dục thể thao. NXB Thể dục thể thao. [4] Nguyễn Đức Văn (1987). Phương pháp thống kê trong thể dục thể thao. NXB Thể dục thể thao. [5] Lưu Quang Hiệp - Phạm Thị Uyên (1995). Sinh lí học thể dục thể thao. NXB Thể dục thể thao. [6] Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan (2000). Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm. NXB Giáo dục. [7] Kim Long (2007). Sổ tay võ thuật Taekwondo cho người mới học. NXB Phương Đông. ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TRÍ TUỆ CẢM XÚC... (Tiếp theo trang 25) Tài liệu tham khảo [1] Bar-On, R. (2006). The Bar-On model of Emotional- Social Intelligence (ESI). Psicothema, Vol.18 (sup), pp. 13-25. [2] Dương Thị Hoàng Yến (2010). Trí tuệ cảm xúc của giáo viên Tiểu học. Luận án tiến sĩ Tâm lí học. Viện Tâm lí học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. [3] Daniel Goleman (Phương Thúy - Minh Phương - Phương Linh dịch, 2007). Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc. NXB Tri thức. [4] Salovey, P. - Mayer, J. D. (1990). Emotional intelligence. Imagination, Cognition, and Personality. Vol. 9 (3), pp. 185-211. [5] Mayer, J, D. - Salovey, P. (1997). What is emotional intelligence? In P. Salovey - D. J. Slyter (Eds.), Emotional development and emotional intelligence: Educational implications, New York: Basic Book. [6] Daniel Goleman (Lê Diên dịch, 2002). Trí tuệ xúc cảm - Làm thế nào để biến những xúc cảm của mình thành trí tuệ. NXB Khoa học xã hội. [7] Bộ GD-ĐT (2008). Quy định về Chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non. [8] Hồ Lam Hồng (2008). Nghề giáo viên mầm non. NXB Đại học Sư phạm.
File đính kèm:
- ung_dung_mo_hinh_tri_tue_cam_xuc_cua_john_mayer_va_peter_sal.pdf