Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường

Tóm tắt: Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột của giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo

dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường thông qua hoạt động quản lý rác thải sinh

hoạt theo phương thức phân loại rác tại nguồn ở Hội An đã và đang đáp ứng được mục

đích nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, hình thành thói quen, nếp sống văn minh đô

thị, bảo vệ môi trường và trách nhiệm với cuộc sống, vì lợi ích mọi người, lợi ích thiên

nhiên, hướng đến phát triển bền vững. Bài viết với mục tiêu mô tả sự lồng ghép luận điểm

trên vào công tác truyền thông giáo dục cộng đồng bảo vệ môi trường thông qua trường

hợp nghiên cứu điển hình về hoạt động môi trường của sinh viên Đại học Quảng Nam

cùng cộng đồng ở Hội An. Dữ liệu được thu thập trên 15 thôn/khối của 2 xã, phường đại

diện qua đo đạc thực nghiệm tại hộ gia đình, và của toàn thành phố qua đánh giá có sự

tham gia, phỏng vấn nhóm dựa trên khung cấp độ đồng quản lý và phương pháp nghiên

cứu hành động cùng tham gia.

pdf 14 trang phuongnguyen 7400
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường

Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường
119 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
VÀO ĐÀO TẠO TRUYỀN THÔNG GIÁO DỤC CỘNG ĐỒNG 
 THAM GIA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 
"Nghiên cứu trường hợp điển hình về hoạt động môi trường 
 của sinh viên Đại học Quảng Nam cùng cộng đồng ở Hội An". 
Chu Mạnh Trinh 1 
Tóm tắt: Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột của giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo 
dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường thông qua hoạt động quản lý rác thải sinh 
hoạt theo phương thức phân loại rác tại nguồn ở Hội An đã và đang đáp ứng được mục 
đích nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, hình thành thói quen, nếp sống văn minh đô 
thị, bảo vệ môi trường và trách nhiệm với cuộc sống, vì lợi ích mọi người, lợi ích thiên 
nhiên, hướng đến phát triển bền vững. Bài viết với mục tiêu mô tả sự lồng ghép luận điểm 
trên vào công tác truyền thông giáo dục cộng đồng bảo vệ môi trường thông qua trường 
hợp nghiên cứu điển hình về hoạt động môi trường của sinh viên Đại học Quảng Nam 
cùng cộng đồng ở Hội An. Dữ liệu được thu thập trên 15 thôn/khối của 2 xã, phường đại 
diện qua đo đạc thực nghiệm tại hộ gia đình, và của toàn thành phố qua đánh giá có sự 
tham gia, phỏng vấn nhóm dựa trên khung cấp độ đồng quản lý và phương pháp nghiên 
cứu hành động cùng tham gia. 
Keywords: 4 trụ cột giáo dục; Cộng đồng tham gia; Phân loại rác tại nguồn; Thay 
đổi hành vi. 
1. Mở đầu 
4 trụ cột giáo dục theo quan điểm UNESCO “học để biết, học để làm, học để cùng 
chung sống, học để làm người” [7] ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Học để biết. Học 
để có được kiến thức. Học để lĩnh hội được thông tin. Tuy nhiên, ngày nay với sự bùng nỗ 
của công nghệ, người học như được tắm mình trong biển cả của thông tin của tri thức. Vì 
vậy biết cái gì? vì sao cần phải biết? và làm thế nào để biết? là vấn đề quan trọng. Học để 
làm. Học để biết được cách làm. Học để làm được việc là nhu cầu của người đi học. Tuy 
nhiên, làm cái gì? làm cho ai? hoặc là vì sao phải làm? có làm được không? vẫn thường là 
các câu hỏi lớn trong xã hội. Vì vậy, học như thế nào để làm được? và làm ở đâu? cũng 
cần được quan tâm. Học để cùng chung sống. Đã từ lâu con người không thể tách rời khỏi 
gia đình, khỏi xã hội và đặc biệt trong thời đại ngày nay, con người càng không thể tách 
rời khỏi cộng đồng. Tuy nhiên, chung sống với ai? vì sao phải chung sống? và làm thế nào 
để được mọi người chấp nhận? là những câu hỏi lớn khi tiếp cận vấn đề này. Học để làm 
người. Học để có điều kiện khẳng định lấy mình là nhu cầu lớn đối với mỗi con người. 
Con người được thể hiện qua nhân cách? đạo đức? 
Quá trình sư phạm toàn diện bao gồm 2 quá trình bộ phận là quá trình dạy học và 
1 TS, BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm 
CHU MẠNH TRINH 
 120 
quá trình giáo dục [2]. Quá trình dạy học cơ bản là trang bị tri thức khoa học cho người 
được giáo dục, trong khi quá trình giáo dục là hình thành nhân cách, hay nói cách khác là 
quá trình hình thành đức và tài cho người học. Giáo dục cộng đồng cũng là một quá trình 
giáo dục toàn diện hiện nay trong xã hội nhằm hình thành tính cách xã hội, phẩm chất tốt 
đẹp của mọi thành viên trong cộng đồng ấy [7]. Đối với tài nguyên và môi trường, đối 
tượng của giáo dục cộng đồng về lĩnh vực này được mở rộng với mọi tầng lớp trong xã 
hội [5]. Tuy nhiên, trong một không gian nghiên cứu nhất định, các đối tượng giáo dục 
gắn liền với nhà trường thường theo các trang lứa đều nhau, còn trong cộng đồng thì tính 
phức tạp cao hơn về các khía cạnh như tuổi tác, nghề nghiệp, thành phần. Vai trò của cộng 
đồng, xã hội trong liên kết giáo dục với nhà trường nhằm đáp ứng được tính phức tạp của 
quá trình giáo dục [2]. Điều kiện làm việc của lao động sư phạm bao gồm không gian và 
thời gian [2], vì vậy tăng cường giáo dục cộng đồng càng tạo điều kiện thuận lợi cho lao 
động sư phạm hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình dạy học và giáo dục. 
Người sinh viên được tào tạo về quản lý môi trường hôm nay sẽ là người cán bộ 
cộng đồng ngày mai đòi hỏi không những vững kiến thức đã học, mà còn phải biết thực 
hành, biết làm, biết vận động cộng đồng tham gia vào bảo vệ môi trường. Muốn vậy người 
cán bộ cộng đồng phải biết tập hợp được lực lượng, phải thành thạo các kỹ năng hỗ trợ 
cộng đồng xây dựng được tầm nhìn, triển vọng tương lai của phát triển bền vững tại địa 
phương, phân tích được các tình huống và giải quyết được các vấn đề theo khả năng của 
nội lực địa phương. Đồng thời người cán bộ cộng đồng phải hết sức mẫu mực, là tấm 
gương trong thực hành các nỗ lực bảo vệ môi trường [3]. Như vậy, nhu cầu của người học, 
người được giáo dục không chỉ là học để biết, mà học còn để làm, để cùng mọi người làm, 
để chung sống với cộng đồng và để có thể khẳng định lấy mình với chia sẻ trách nhiệm và 
lợi ích chung của mọi người của xã hội. 
Thông qua nghiên cứu khả thi về quản lý rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An, 
người sinh viên thực tập có được cơ hội lĩnh hội thông tin khoa học, tri thức xã hội, cộng 
đồng về tài nguyên, môi trường và rác thải chuyển đến người dân thông qua mục đích, nội 
dung, hình thức truyền thông và giáo dục nhằm thay đổi nhận thức, hành vi, hình thành 
thói quen, nếp sống hài hòa với thiên nhiên. Ở đây, người sinh viên được hướng dẫn thực 
hiện các điều tra khảo sát trực tiếp trong cộng đồng để phát hiện các quy luật phát sinh, 
vận hành và đến điểm cuối cùng của rác thải. Người sinh viên một lần nữa được kiểm 
nghiệm thực tế và đối chiếu với những kiến thức hàn lâm mà mình đã được học ở trường 
và từ đó hình thành nên kiến thức cho riêng mình [6]. Sinh viên được tiếp cận thiết kế bài 
giảng truyền thông về rác thải và quản lý rác thải cho cộng đồng. Sinh viên sẽ phải làm 
việc với các bên liên quan cơ bản trong cộng đồng như nhà quản lý, nhà khoa học, đồng 
doanh nghiệp và người dân để thuyết phục sự đồng thuận từ mọi người ở đây. Người sinh 
viên sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ này nếu như chỉ có một mình, mà phải cùng 
làm nhóm, có sự tổ chức và phân công một cách phù hợp. Đồng thời từ đó người sinh viên 
nhận ra được rằng quá trình giáo dục cộng đồng một cách toàn diện phải thực hiện bao 
gồm hai quá trình thành phần là quá trình truyền thông, truyền đạt, tổ chức hoạt động và 
quá trình giáo dục thường xuyên, liên tục thì mới chuyển đổi được hành vi, xây dựng thói 
quen và hình thành nhân cách [2,6]. Từ tinh thần được đào tạo và giáo dục, tham gia 
nghiên cứu khả thi này người sinh viên được chủ động chuyển sang vai trò là người ứng 
dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục truyền thông và giáo dục cộng đồng thông qua sản 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 121 
phẩm là người dân cần được biết, hiểu, làm, hợp tác, tổ chức thực hiện, chuyển đổi hành 
vi, thực hiện nếp sống văn minh, tích cực bảo vệ môi trường tại địa phương. 
Với mô hình thí điểm về đồng quản lý rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An [3], 
người sinh viên vừa tác nghiệp là người thực hiện nghiên cứu vừa với vai trò là nhà khoa 
học, bảo tồn, giáo dục cộng đồng. Hòa nhập thành phần này, người sinh viên là người giáo 
dục, truyền thông và sẽ thực hiện quá trình sư phạm bao gồm 2 quá trình thành phần là 
truyền thông, và giáo dục. Để làm tốt công việc này người sinh viên phải thực hiện đồng 
thời 3 chức năng lớn là nghiên cứu, giảng dạy và giáo dục đối với nhà quản lý, doanh 
nghiệp và người dân, cũng như tác động đến vai trò của 4 nhà trong quá trình thực hiện 
mô hình [2,6]. 
2. Nội dung 
2.1. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 
Đây là một nghiên cứu hành động (Participatory Action Research, PAR) của nhóm 
nghiên cứu và tham gia của cộng đồng dân cư địa phương từ việc phát hiện các vấn đề bất 
ổn trong quản lý rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An đến việc tìm ra và thực hiện 
phương cách giải quyết để tăng cường hiệu quả những nỗ lực bảo vệ môi trường thông qua 
ứng dụng luận điểm 4 trụ cột giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng đồng. 
2.1.1. Dữ liệu định tính 
Nghiên cứu đã vận dụng một số công cụ đồng tham gia để khai thác thông tin định 
tính từ cộng đồng. Khung phân tích DPSIR (dẫn lực, áp lực, hiện trạng, tác động, đáp ứng) 
hướng dẫn cộng đồng nhận định các mâu thuẫn tồn tại trong hiện trạng quản lý rác thải địa 
phương để đưa ra các giải pháp cần thực hiện trong quá trình đồng quản lý (ĐQL). Khung 
phân tích này được sử dụng định kỳ trong khoảng thời gian 2012, 2013, 2014 để xác định 
các mâu thuẫn, cũng như các giải pháp bổ sung thực hiện. Nguyên tắc SMART (cụ thể, 
lượng hóa, thực thi, hợp lý, thời gian) hướng dẫn cộng đồng chọn lựa theo thứ tự ưu tiên 
các hoạt động thực tiễn để thảo luận trên cơ sở cụ thể, khả thi, thiết thực và mốc thời gian 
của quản lý rác thải; thường đi kèm hỗ trợ cho khung phân tích DPSIR. Ma trận SWOT 
(điểm mạnh, mặt yếu, cơ hội, thách thức) hướng dẫn cộng đồng nhận định về thế mạnh, 
điểm yếu của địa phương, cũng như phân tích các cơ hội và thách thức trong quản lý rác 
thải; thường đi kèm hỗ trợ cho khung phân tích DPSIR [1]. 
2.1.2. Dữ liệu định lượng 
Hướng tiếp cập “Khung cấp độ đồng quản lý” theo [4], giới thiệu từ năm 2011 được 
vận dụng để khảo sát và thu thập thông tin về hiện trạng đồng quản lý tại địa phương. 
Điểm chính yếu của khung cấp độ đồng quản lý là sự kết hợp 3 thước đo mức độ hành 
động của cộng đồng, cấp độ đồng quản lý và cấp độ tham gia theo các bước thông tin 
tương ứng từ thấp đến cao (Hình 1). 
Nghiên cứu đã khảo sát 300 mẫu điều tra xác định theo 4 nhóm đối tượng bao gồm 
nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, người dân, nhà khoa học, truyền thông và khách du lịch để 
thu thập thông tin về quản lý rác thải sinh hoạt bao gồm phân loại, quy định, cơ sở hạ tầng 
thu gom, xử lý, công nghệ và đầu tư, về trách nhiệm và lợi ích của cộng đồng dựa theo 
khung cấp độ đồng quản lý để đánh giá hiện trạng đồng quản lý theo thời gian. 
CHU MẠNH TRINH 
 122 
Hình 1: Khung cấp độ đồng quản lý [4] 
2.1.3. Hướng phân tích 
Dữ liệu định tính được phân tích dựa trên một số công cụ đánh giá có sự tham gia 
của cộng đồng. Dữ liệu định lượng được phân tích theo phương pháp thống kê mô tả. Các 
thùng rác được đánh dấu theo thùng dễ phân hủy, thùng khó phân hủy và thùng rác tái chế 
hay rác ve chai. Tại mỗi thùng, rác được phân theo các nhóm dễ phân hủy, khó phân hủy 
và tái chế theo hướng dẫn chung của thành phố Hội An. Các nhóm rác phân loại được cân 
tổng khối lượng và được ghi chép theo dõi sự diễn biến của chúng theo thời gian. 
2.2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
2.2.1. Thiết kế mô hình đồng quản lý (ĐQL) rác thải sinh hoạt 
Sinh viên thực tập được tham gia thiết kế mô hình đồng quản lý (ĐQL) rác thải sinh 
hoạt theo phương thức phân loại rác tại nguồn (PLRTN) trên cơ sở khoa học về đồng quản 
ý, con đường đi của rác thải và định hướng chiến lược quản lý rác thải tại thành phố Hội 
An. Một giả định khoa học đặt ra là định hướng đó chỉ rõ rác thải được phân thành 3 nhóm 
riêng biệt bao gồm rác thải dễ phân hủy, rác thải khó phân hủy và rác thải tái chế hay còn 
gọi là rác thải ve chai ngay sau khi nó được hình thành. Hành động phân loại rác thải sinh 
hoạt một cách song hành tại thời điểm rác thải được hình thành gọi là phân loại rác tại 
nguồn. Sau đó 3 loại rác thải sinh hoạt được thu gom và chuyển đến các điểm cuối cùng 
theo đúng quy định. Rác thải tái chế sẽ được chuyển đến các cơ sở thu mua phế liệu. Rác 
Hành động của cộng đồng Cấp độ đồng quản lý Cấp độ tham gia 
Hướng dẫn 
Cố vấn 
Hợp tác 
Tư vấn 
Thông tin 
Quyết định 
Biết 
Bàn 
Làm 
Kiểm tra 
Thụ động 
Chủ động 
Thực thi, tuân thủ 
Tâm huyết 
Tự quản 
Cấp độ tham 
gia ĐQL rác 
thải Hội An 
vào năm 
2014 
Thời gian bắt đầu tháng 11/2012 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 123 
thải dễ phân hủy sẽ được chuyển đến nhà máy làm phân compost, hoặc các nơi làm 
compost hộ gia đình. Rác thải khó phân hủy sẽ được chuyển đến bãi rác Cẩm Hà. Mô hình 
được thực hiện mang nội dung và hình thức phát triển cộng đồng vì vậy để thuận lợi triển 
khai các hoạt động của mô hình ĐQL rác thải theo phương thức PLRTN cần phải xúc tiến 
công tác truyền thông nâng cao nhận thức và năng lực cho cộng đồng tiếp cận và tham gia 
các hoạt động của mô hình. Sự tham gia rộng rãi và tích cực của người dân, doanh nghiệp, 
nhà khoa học vào mô hình bao giờ cũng tỷ lệ thuận với hiệu quả triển khai hoạt động. 
Đồng thời mô hình sẽ tạo điều kiện kế thừa một cách có hệ thống và phối kết hợp với các 
chương trình, dự án có liên quan tại địa phương một cách phù hợp. Sinh viên được hướng 
dẫn xây dựng tài liệu truyền thông bao gồm tờ rơi, tài liệu hướng dẫn tập huấn kỹ thuật 
TOT, số tay PLRTN, hướng dẫn xây dựng kế hoạch quản lý rác thải địa phương là những 
phương tiện quan trọng giúp cho mô hình ĐQL PLRTN được triển khai hiệu quả. Tài liệu 
truyền thông dễ hiểu, dễ đọc, dễ tiếp cận, sinh động tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình 
chuyển hóa thông tin vào “nhận thức” của cộng đồng và từ đó phát triển thành ý thức. 
1.000 tờ rơi PLRTN được thiết kế và in ấn để phục vụ cho hoạt động truyền thông, tập 
huấn kỹ thuật trong suốt thời gian đề tài được thực hiện. Nội dung tờ rơi phản ảnh quy 
định của Hội An về 3 nhóm rác thải cơ bản bao gồm rác thải dễ phân hủy, khó phân hủy 
và tái chế hay còn gọi là rác thải ve chai [8]. 
Hình 2: Tờ rơi PLRTN [3] 
CHU MẠNH TRINH 
 124 
Hình 3: Mô hình đồng quản lý rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An [3] 
UBND Hội 
An
UBND 
Xã/Phường 
Khối/Thôn C/ty CTCC 
Phòng 
TN&MT
Hội Đoàn 
thể 
Chuyên gia 
Tổ Nhân dân 
Hộ gia đình 
Nhà hàng, 
khách sạn 
Chợ, trường 
học, cơ 
quan 
Đường phố, 
nơi công 
cộng 
Sự hỗ trợ 
TC&KT 
- JICA 
- GEF 
- Action for 
city 
- MPA 
- France 
ODA 
Rác phát 
sinh 
Phân loại 
rác
Thu gom Điểm cuối 
cùng 
Rác 
dễ 
phân 
hủy 
Rác 
khó 
phân 
hủy 
Rác 
tái 
chế 
Xe thu gom 
Tổ Tự quản 
Hội Ve chai 
Bãi rác 
Cẩm Hà 
Nhà máy 
compost 
Cơ sở thu 
mua phế 
liệu 
Compost 
hộ gia 
đình 
Hộ gia đình 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 125 
Giải thích các kí hiệu trên hình 3 
 : quan hệ giữa các nhóm nguồn phát sinh rác thải sinh hoạt 
 : quan hệ chỉ đạo 
 : quan hệ hợp tác 
: con đường đi của rác thải sinh hoạt tại Hội An 
: rác dễ phân hủy 
: rác tái chế (rác ve chai) 
: rác khó phân hủy 
Giải thích ý nghĩa của hình 3 
A. Con đường đi của rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An 
 Con đường đi của rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An được bắt đầu từ bước 
phát sinh đến phân loại rác qua thu gom và điểm đến cuối cùng. 
 “Bước phát sinh”: Rác thải sinh hoạt tại thành phố Hội An được ra đời từ 4 nguồn 
phát sinh chính đó là (1) hộ gia đình, (2) nhà hàng, khách sạn, (3) chợ, trường học, cơ 
quan, (4) đường phố, nơi công cộng. 
“Phân loại rác”: Rác thải được phân thành 3 nhóm riêng biệt là rác thải dễ phân 
hủy, rác thải khó phân hủy và rác thải tái chế hay còn gọi là rác thải ve chai ngay sau khi 
nó được hình thành. Hành động phân loại rác thải sinh hoạt một cách song hành tại thời 
điểm rác thải được hình thành gọi là phân loại rác tại nguồn. 
“Thu gom” là biểu hiện của giai đoạn rác thải được thu gom từ khắp nơi trong  ... ký thực 
hiện 
5 Tự làm phân 
compost tại 
nhà 
Quan sát xem gia đình có thùng hoặc hục 
phân compost không? 
100% các hộ gia 
đình đăng ký thực 
hiện 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 127 
TT Chỉ thị Chỉ số giám sát (Đo đạc) Đăng ký thực hiện 
6 Sử dụng hộp 
nhựa, camen, 
để mua thức 
ăn, hoặc đựng 
thực phẩm ướt 
Quan sát xem gia đình có bao nhiêu hộp đựng 
thực phẩm, camen? 
100% các hộ gia 
đình đăng ký thực 
hiện 
7 Sử dụng 
hướng dẫn 
PLRTN 
Quan sát xem tờ rơi phân loại rác được đặt 
hoặc dán tại đâu? 
100 % các hộ gia 
đình đăng ký thực 
hiện 
Sinh viên được hướng dẫn quan sát và ghi nhận sự tham gia của người dân trực tiếp 
vào PLRTN. Thông tin và dữ liệu thu thập trong quá trình giám sát được sinh viên tổng 
hợp và mô phỏng theo các biểu đồ (Hình 4). 
Hình 4: Diễn biến khối lượng 3 loại rác trong các thùng rác dễ phân hủy (DPH), thùng rác khó 
phân hủy (KPH) và thùng rác tái chế (TC) [3]. 
Trong thùng rác dễ phân hủy, khối lượng rác dễ phân hủy luôn luôn đạt tỷ lệ cao từ 
90% đến 100%, khối lượng của 2 loại rác thải còn lại là rác khó phân hủy và rác tái chế 
thấp chiếm tỷ lệ dưới 10%. Trong khi đó trong thùng rác khó phân hủy, khối lượng rác 
thải khó phân hủy luôn luôn chiếm tỷ lệ từ 65% đến 100%; và trong thùng rác tái chế, khối 
lượng rác thải tái chế luôn luôn chiếm tỷ lệ cao xấp xỉ 100% trong suốt thời gian giám sát 
từ tháng 9/2013 đến tháng 4/2014. 
Hình 5: Hiện trạng sử dụng túi nylon tại Trà Quế, thời gian từ tháng 1 đến 4/2014 [3]. 
CHU MẠNH TRINH 
 128 
Theo dõi hiện trạng sử dụng túi nylon tại thôn Trà Quế trong thời gian từ tháng 1 đến 
tháng 4/2014, sinh viên nhận thấy rằng diễn biến số túi nylon đếm được trong giỏ rác tăng 
dần. Trong khi đó số túi nylon sử dụng được giặt sạch, phơi khô để sử dụng trở lại, bán 
cho ve chai, hoặc bỏ vào thùng rác khó phân hủy thì giảm dần. Số lượng túi nylon sử dụng 
và số lượng túi nylon bỏ vào giỏ rác theo lời khai của các hộ gia đình định kỳ theo các 
tuần giám sát cũng giảm dần. 
Phần lớn sự tham gia của người dân là phụ nữ, người nội trợ chính trong gia đình và 
có ảnh hưởng trực tiếp đến thành công việc PLRTN. Mặc dù, thông tin cung cấp là có sự 
phân chia trách nhiệm rất rõ ràng và khác nhau giữa người dân, công ty CP CTCC, chính 
quyền địa phương, tuy nhiên chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa nghiên cứu với đơn vị thu 
gom rác. Đồng thời qua giám sát, sinh viên nhận thấy rằng PLRTN cần được tổ chức giáo 
dục đến trẻ em. Mặc dù, PLRTN người lớn tiếp thu nhanh hơn trẻ em, nhưng thói quen 
của người lớn khó thay đổi hơn trẻ em. Tuy nhiên, nhìn chung, hộ gia đình đều có thể thực 
hiện được PLRTN. Nhiều phụ nữ đã hành động giặt túi nylon đã dùng, phơi khô để sử 
dụng trở lại và đã chuẩn bị hộp nhựa đựng thức ăn thay cho túi nylon, cũng như xách giỏ 
đi chợ hàng ngày [9]. 
Hạn chế lớn nhất là các tờ rơi hướng dẫn PLRTN, các chị phụ nữ để chúng trong tủ, 
bàn nước, hoặc để quên ở lớp tập huấn. Sinh viên đã ghi nhận việc sử dụng các tài liệu 
truyền thông này để thảo luận, quảng bá, kêu gọi người khác tham gia PLRTN chưa được 
phát huy hoặc thể hiện hành động tích cực tại địa phương. Trong khi đó, tại thôn Trà Quế 
đã ghi nhận được khách du lịch đến tham quan, ăn uống, nghỉ ngơi. Thôn Trà Quế cần 
phân compost để trồng rau. Theo truyền thống, bà con vớt rong dưới sông mang về làm 
phân bón. Tuy nhiên trong tương lai với sự phát triển của đô thị, lượng rong có thể giảm 
dần và đồng thời nhu cầu sử dụng phân compost gia tăng. Vì vậy tăng cường PLRTN, làm 
phân compost hộ gia đình tại thôn Trà Quế cần phải được thảo luận và triển khai, không 
những vì hành động môi trường mà còn là cải thiện sinh kế địa phương thông qua du lịch 
sinh thái. 
Sinh viên được hướng dẫn giám sát sự tham gia của cán bộ thôn, khối, người lãnh 
đạo các đoàn thể trong quá trình thực hiện nghiên cứu xây dựng mô hình ĐQL rác thải 
sinh hoạt tại Hội An. Vai trò thúc đẩy sự tham gia từ người dân của cán bộ thôn, khối, 
lãnh đạo các đoàn thể là rất quan trọng. Sự tham gia và thúc đẩy hoạt động giám sát 
PLRTN của cán bộ thôn, lãnh đạo các đoàn thể của thôn Trà Quế là rất quý báu, trong khi 
đó đối với phường Cẩm Phô thì sự tham gia này có phần hạn chế hơn nhiều. Sự nhiệt tình 
của cán bộ thôn, khối và người lãnh đạo các đoàn thể đã và đang là động lực thúc đẩy sự 
tham gia của hộ gia đình vào PLRTN. Tham khảo ý kiến của nhiều cán bộ khối, thôn và 
lãnh đạo các đoàn thể về sự thúc đẩy hoạt động PLRTN thì vấn đề thù lao không kém 
phần quan trọng, làm gia tăng nhiệt huyết của cán bộ thôn, khối, người lãnh đạo các đoàn 
thể đối với phong trào PLRTN tại địa phương. 
Theo kết quả giám sát cho thấy, số hộ tham gia PLRTN tại Cẩm Phô và Trà Quế 
chiếm 97.01%, số hộ không tham gia phân loại rác chiếm 2.99%. Trong số hộ tham gia 
PLRTN thì có 89.23% hộ có thùng rác phân loại, có 10.77% hộ chưa có thùng rác. Như 
vậy vẫn còn một bộ phận nhỏ chưa thực sự hưởng ứng PLRTN và hầu hết các hộ gia đình 
tự sắm thùng rác cho mình đều tham gia phân loại rác đạt yêu cầu. Điều tra về sự tham gia 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 129 
của người dân trong PLRTN ghi nhận 44.78% tham gia phân loại vì yêu cầu; 47.76% 
tham gia vì nhận thấy khả năng tái sử dụng của rác thải; 5.97% tham gia vì cho rằng đa số 
người khác làm chẳng nhẽ mình không làm, đồng thời góp phần xử lý rác thải thuận lợi 
hơn; 1.49% không ý kiến. 
PLRTN là một hành động nhỏ nhưng ý nghĩa rất lớn và làm sao để mọi người tham 
gia trên tinh thần tự giác là điều rất khó. Theo điều tra trên phạm vi toàn thành phố thì 
44.78 % người dân tham gia theo kiểu ép buộc, thiếu tự nguyện và nhiệt tình. Vì vậy, cần 
phải có giải pháp để mỗi cá nhân tham gia vào PLRTN như là một chủ thể thật sự thay vì 
là một khách thể làm cho xong việc. Tuy nhiên, phần lớn người dân tại Cẩm Phô và Trà 
Quế có sự quan tâm đến chương trình PLRTN, tỷ lệ này chiếm 95.52%, chỉ một bộ phận 
nhỏ người chưa biết chiếm 4.48%. 
Hình 6: Biểu diễn nhận thức của người dân về thông tin tìm hiểu chương trình, bản chất và hiện 
trạng tổ chức công tác tuyên truyền về PLRTN tại địa phương [3]. 
Đại đa số người dân cho rằng việc phân loại rác là “Một hành động nhỏ - ý nghĩa 
lớn” vì khả năng tái chế rác thành phân vi sinh; lợi ích kinh tế cho việc buôn bán phế liệu; 
góp phần cho quá trình xử lý rác thải tại nhà máy diễn ra thuận lợi hơn. 92.54% tỷ lệ 
người dân cho rằng tại Cẩm Phô và Trà Quế có tổ chức phát động chương trình truyền 
thông PLRTN, trong khi 2.98% cho rằng tại địa bàn chưa tổ chức phát động chương trình 
và 4.48% không có ý kiến. 
Hình 7: Phân tích nguyên nhân, hạn chế, giải pháp khắc phục và hình thức đóng góp nâng cao hiệu 
quả công tác truyền thông giao dục cộng đồng. 
Ý thức tham gia của người dân được đánh giá với 53.73% là tốt, 44.78% ở mức độ 
trung bình và 1.49% là chưa tốt. Nguyên nhân mà các hộ gia đình chưa tham gia, hoặc 
tham gia chưa tốt là do thói quen hằng ngày, tiếp theo là thiếu thùng rác phân loại và 
người dân chưa thật sự hiểu về bản chất của việc PLRTN. Việc thay đổi thói quen của 
người dân đòi hỏi thời gian. Do đó, cần phải có những chính sách để người dân có thể 
thực hiện được nguyên tắc: “Dân biết – Dân bàn – Dân làm - Dân kiểm tra” cho đến khi 
mỗi cá nhân ý thức được sự tham gia của mình không chỉ thể hiện ở lời nói mà phải có 
hành động cụ thể và cùng làm với nhau trong cộng đồng. Liên quan đến thay đổi thói 
CHU MẠNH TRINH 
 130 
quen, nhiều ý kiến đề nghị tăng cường tuyên truyền và nhắc nhở, động viên tham gia, tuy 
nhiên vẫn có quan điểm cho rằng cần áp dụng biện pháp xử phạt hành chính khi vi phạm 
nhiều lần, để nâng cao trách nhiệm và tác động vào yếu tố kinh tế nhiều khi mang lại hiệu 
quả cao. 
Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ truyền thông là nhiệm vụ quan trọng trong việc chuyển 
tải thông tin từ chỗ chưa biết đến biết; từ chỗ biết đến thực hành; và từ chỗ thực hành đến 
nhận thức cao và ý thức [5]. Vì vậy, hình thức chuyển tải phải phong phú nhằm cho cộng 
đồng dễ nhận ra, dễ hiểu, dễ học, dễ nhớ, dễ hành động và trở thành thói quen, rồi mới đến 
ý thức. Thông thường hoạt động truyền thông chỉ tập trung lồng ghép vào các dịp lễ hội, 
hoặc nhiệm vụ được giao từ cấp trên thì vẫn chưa đủ, hoặc đôi khi thông tin cung cấp quá 
nhiều làm cho người nghe, người đọc, người tiếp nhận có cảm giác dư thừa, “bội thực”. 
Và như vậy hiệu quả của các hoạt động truyền thông thường rất hạn chế, hơn nữa còn tốn 
kém nhiều về thời gian, tài chính, công sức con người. Thông tin một khi được chuyển đến 
người nghe, đọc, xem một cách liên tục, lặp đi, lặp lại nhiều lần thì thông tin đó mới có 
khả năng được tiếp nhận, được chuyển hóa thành nhận thức cao và ý thức được. 
Khi được hỏi một cách chủ quan đến các cán bộ môi trường của địa phương về nhận 
thức của người dân đối với rác thải và xử lý rác thải thì được kết luận rằng có tiến bộ hơn 
trước. Tất nhiên là qua một quá trình rèn luyện về phân loại và xử lý rác thải thì người dân 
đã và đang có nhận thức tiến bộ hơn nhiều thông qua các hành động ứng xử tốt dần với vệ 
sinh môi trường tại địa phương. Hoạt động truyền thông được xác định là một quá trình rất 
quan trọng trong PLRTN. Truyền thông giúp chuyển tải thông tin đến cộng đồng, nâng 
cao nhận thức và từ đó góp phần phát triển ý thức trong PLRTN. Vì vậy cần có một chiến 
lược truyền thông PLRTN một cách dài hạn và thường xuyên, đa dạng về hình thức, nội 
dung và không chỉ tập trung vào các dịp lễ hội mà còn phải thường kỳ, lặp đi, lặp lại, 
nhằm hình thành thói quen, nhân cách [10]. 
3. Kết luận 
Ứng dụng luận điểm 4 trụ cột của giáo dục vào đào tạo truyền thông giáo dục cộng 
đồng tham gia bảo vệ môi trường tại trường hợp nghiên cứu xây dựng mô hình đồng quản 
lý rác thải sinh hoạt theo phương thức phân loại rác tại nguồn ở thành phố Hội An, tỉnh 
Quảng Nam, đã và đang đáp ứng được mục đích nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, 
hình thành thói quen, nếp sống văn minh đô thị, bảo vệ môi trường và trách nhiệm với 
cuộc sống, vì lợi ích mọi người, lợi ích thiên nhiên, hướng đến phát triển bền vững. 
Hoạt động truyền thông giáo dục cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường cần phải 
được thực hiện theo sự phối hợp giữa 4 nhà quản lý, doanh nghiệp, khoa học, và người 
dân, đa dạng về hình thức, nội dung và duy trì một cách liên tục theo thời gian. Truyền 
thông và giáo dục cộng đồng cần chú ý đến hoạt động nghiên cứu và trao đổi thông tin 
nhằm có thể bắt kịp với phát triển kinh tế xã hội và ứng dụng khoa học công nghệ giúp 
cộng đồng tiếp cận và chuyển đổi được thói quen nhanh chóng và hiệu quả. 
 Tham gia nghiên cứu tại địa phương thông qua mô hình ĐQL rác thải theo phương 
thức PLRTN tại Hội An, người sinh viên hòa nhập vào thực tế hiểu rõ được 4 luận điểm 
giáo dục, học để biết, để làm, để hợp tác cùng mọi người và để khẳng định lấy chính mình. 
Thông qua các hoạt động điều tra, thiết kế, giảng dạy, giám sát, đánh giá công tác truyền 
ỨNG DỤNG LUẬN ĐIỂM 4 TRỤ CỘT GIÁO DỤC 
 131 
thông, giáo dục cộng đồng tham gia PLRTN, người sinh viên tự đào tạo và khẳng định lấy 
chính mình trước tập thể nhóm và xã hội một khi ghi nhận được sự chuyển biến hành vi 
của mọi người tham gia bảo vệ môi trường ngày một tốt đẹp hơn. 
 Sự tham gia và hỗ trợ của sinh viên tham gia nghiên cứu đã đóng góp một phần 
công sức, trí tuệ tạo nên sự thành công của mô hình ĐQL PLRTN tại địa phương. Đồng 
thời kết quả hoạt động cũng cho thấy nghiên cứu không chỉ là cầu nối tạo điều kiện giúp 
cho người sinh viên gắn liền học đi đôi với hành, mà còn là nhà trường với thực tiễn. Vì 
vậy, đã đến lúc xã hội và nhà trường cần phải cùng sát cánh với nhau trong sự nghiệp đào 
tạo và giáo dục thế hệ trẻ tương lai cũng như cộng đồng hôm nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bach, H. (2002), Methodology and Process for Indicator Development, Ministry of 
Natural Resources and Environment Viet Nam, Hanoi. 
[2] Bùi Văn Vân (2015), Đề cương Bài giảng Giáo dục học Đại cương, Khoa Tâm lý – 
Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 
[3] Chu Mạnh Trinh, Phạm Văn Hiệp (2015), Đồng quản lý rác thải sinh hoạt góp phần 
thúc đẩy tăng trưởng xanh tại địa phương và khu vực. Bài học kinh nghiệm từ trường 
hợp thành phố Hội An, Quảng Nam, BQL Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm, Hội An, 
Quảng Nam. 
[4] Chu Mạnh Trinh (2011), “Đồng quản lý tài nguyên và môi trường tại Khu bảo tồn 
biển Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T11 
(2011), 2, tr.79-95. 
[5] Nguyễn Chu Hồi (2007), Cộng đồng tham gia bảo tồn và phát triển môi trường biển 
Việt Nam, Trung tâm Nâng cao Nhận thức Cộng đồng, Cục Bảo vệ Môi trường, Việt 
Nam. 
[6] Nguyễn Thị Trâm Anh (2015), Tập bài giảng Tâm lý học Đại cương, Khoa Tâm lý – 
Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 
[7] Sergio. A.S, Jan. V.M, Manu. B. (2010), Developing a curriculum for “learning to 
live together”: building peace in the minds of people, GROUP T – International 
University College Leuven, Belgium. 
[8] TN&MT (2013), Báo cáo chung về tình hình quản lý rác thải tại thành phố Hội An, 
Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hội An, Quảng Nam. 
[9] TU HA (2009), Chỉ thị về việc tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân 
nâng cao ý thức và giảm thiểu sử dụng túi nylon góp phần bảo vệ môi trường trên địa 
bàn thành phố, Số 37-CT/T, Ngày 17/6/2009, Thành ủy Hội An. 
[10] UBND HA (2014a), Kế hoạch triển khai mở rộng chương trình phân loại rác tại 
nguồn, Số 1061-KH/UBND, ngày 24/4/2014, UBND thành phố Hội An. 
CHU MẠNH TRINH 
 132 
Title: APPLYING THE “FOUR PILLARS OF EDUCATION” IN 
COMMUNICATION TRAINING TO EDUCATE THE COMMUNITY 
PARTICIPATING THE ENVIRONMENTAL PROTECTION 
“ Research the specific case on environmental activities of students of Quang Nam 
University in company with the community in Hoi An City, Quang Nam Province” 
CHU MANH TRINH 
Management Board of Cham Islands Marine Protected Area 
Abstract: Applying the “Four Pillars of Education” aims at training, 
communicating, and educating the community to join in the environmental protection 
through the management of household garbage according to the process of separating 
waste at source has met the purpose of public awareness raising, behavior change, habit 
formation, urban civilized lifestyle, environmental protection, life responsibility, nature 
and people benefit sharing towards the sustainable development. This article aims to 
describe the above concept inserting into community based on the environmental 
communication and education via the specific case about the environmental activities of 
students of Quang Nam University in company with the community in Hoi An City, Quang 
Nam Province. The research samples of households were broken down into 15 communes 
and wards of Hoi An city in which Participatory Action Research was applied and “Co-
management analyze framework” has been used as a guideline for gathering and 
analyzing data. 
Keywords: 4 pillars of education; Community participation; Separating waste at 
source; Behavior change. 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_luan_diem_4_tru_cot_giao_duc_vao_dao_tao_truyen_tho.pdf