Ứng dụng kích thích buồng trứng nhẹ trong thụ tinh ống nghiệm (IVF)
Kích thích buồng trứng và tác động lên chức năng sinh sản
Sinh sản của con người đôi khi là một quá trình không hiệu quả. Kích thích buồng trứng (KTBT) đã được ứng dụng như một trong những chiến lược điều trị chính trong hỗ trợ sinh sản. Từ việc tăng số lượng noãn thu nhận kéo theo việc tăng số lượng phôi được tạo ra và đặt con người trước bài toán mới: lựa chọn và chuyển phôi tốt nhất vào tử cung.2 Mặc dù hình thái phôi được sử dụng rộng rãi để đánh giá chất lượng phôi, nhưng phương pháp này phụ thuộc chủ quan, cung cấp thông tin hạn chế liên quan đến cấu trúc nhiễm sắc thể.3 Nhiều nghiên cứu cho thấy không có khác biệt về hình thái và khả năng phân chia giữa 2 nhóm phôi của chu kỳ tự nhiên và phôi của chu kỳ có KTBT.4, 5 Tuy nhiên, cấu trúc DNA của phôi chịu ảnh hưởng của KTBT.6-8 KTBT dẫn đến tình trạng tăng quá mức sinh lý nồng độ FSH và estradiol trong áu tác động vào sự phát triển của phôi và khả năng làm tổ của phôi
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng kích thích buồng trứng nhẹ trong thụ tinh ống nghiệm (IVF)
17 TỔNG QUAN Y VĂN Ứng dụng kích thích buồng trứng nhẹ trong thụ tinh ống nghiệm (IVF) Tăng Quang Thái* Kích thích buồng trứng và tác động lên chức năng sinh sản Sinh sản của con người đôi khi là một quá trình không hiệu quả.1 Kích thích buồng trứng (KTBT) đã được ứng dụng như một trong những chiến lược điều trị chính trong hỗ trợ sinh sản. Từ việc tăng số lượng noãn thu nhận kéo theo việc tăng số lượng phôi được tạo ra và đặt con người trước bài toán mới: lựa chọn và chuyển phôi tốt nhất vào tử cung.2 Mặc dù hình thái phôi được sử dụng rộng rãi để đánh giá chất lượng phôi, nhưng phương pháp này phụ thuộc chủ quan, cung cấp thông tin hạn chế liên quan đến cấu trúc nhiễm sắc thể.3 Nhiều nghiên cứu cho thấy không có khác biệt về hình thái và khả năng phân chia giữa 2 nhóm phôi của chu kỳ tự nhiên và phôi của chu kỳ có KTBT.4, 5 Tuy nhiên, cấu trúc DNA của phôi chịu ảnh hưởng của KTBT.6-8 KTBT dẫn đến tình trạng tăng quá mức sinh lý nồng độ FSH và estradiol trong máu tác động vào sự phát triển của phôi và khả năng làm tổ của phôi.8 Thêm vào đó, những phác đồ KTBT hiện nay khá đa dạng, luôn đổi mới, nhiều vấn đề đáng quan tâm như chi phí, thời gian dùng thuốc, quá trình theo dõi đáp ứng, những biến chứng như quá kích buồng trứng và đa thai, những tác động lên tâm lý, Những nguy cơ lâu dài vẫn chưa được chú ý đúng mức như ung thư buồng trứng, tăng tỉ lệ trẻ sinh ra nhẹ cân, những dị tật bẩm sinh, 9-11. __________________________________ *Bệnh viện Hùng Vương DĐ: 0989220925 Vậy đâu là ranh giới của hiệu quả và an toàn? Đó là câu hỏi lớn qua nhiều thập niên. Nhiều nhà khoa học nhận định rằng đã đến lúc phải nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc hơn, một phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ hoặc gần với tự nhiên mà vẫn mang lại kết cục lâm sàng mong muốn. Quan điểm tiếp cận nhẹ trong hỗ trợ sinh sản đang ngày được quan tâm. Trong phạm vi bài viết này sẽ tập trung về dạng IVF với chu kỳ có kích thích buồng trứng nhẹ (MildIVF). Mục tiêu của Mild IVF là thu nhận được 2-7 noãn bào 12. Theo nhiều dữ liệu hiện nay, đây có thể là một trong những phương pháp có tiềm năng thay thế phương pháp IVF cổ điển. Các phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ Từ năm 2006, khi mà những báo cáo đầu tiên về ứng dụng lâm sàng của các phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ đã tạo được những chú ý lớn trong giới hỗ trợ sinh sản, đã có sự quan tâm ngày càng tăng về hướng tiếp cận nhẹ hơn trong thụ tinh ống nghiệm, nhằm giảm gánh nặng về thể chất và tâm lý cho bệnh nhân, tăng sự tiện lợi cho bệnh nhân và góp phần giảm chi phí điều trị. Các rủi ro của hai biến chứng chính liên quan đến việc sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (hội chứng quá kích buồng trứng và đa thai) giảm rõ rệt trong các phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ hơn và tăng cường chính sách lựa chọn chuyển 1 phôi (SET). Tại Việt Nam, vấn đề này cũng được quan tâm từ những năm 2007; có một số phác đồ và biến thể trong 18 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 kích thích buồng trứng nhẹ đã được áp dụng và đi vào hướng dẫn điều trị tại một số đơn vị hỗ trợ sinh sản: 13, 14 Biến thể Mild IVF dùng clomiphen citrate thuần túy không GnRH đối vận: trong biến thể này clomiphen citrate liều thấp (50mg/ngày) được dùng từ ngày thứ 3 của chu kỳ kinh kéo dài đến tận ngày thực hiện khởi động trưởng thành cuối cùng của noãn bào. Việc kéo dài thời gian cho clomiphen citrate sẽ ngăn cản hiện tượng phát khởi đỉnh LH nội sinh, do đó không cần thiết phải sử dụng GnRH đối vận. Tác nhân được dùng để khởi động trưởng thành cuối cùng noãn bào thường là hCG hoặc GnRH đồng vận. Biến thể Mild IVF dùng clomiphen citrate kết hợp gonadotropin không hoặc có GnRH đối vận: Biến thể này khởi đầu bằng clomiphen citrate 50mg/ngày từ ngày thứ 3, gonadotrophin (FSH 150IU/ngày) chỉ được cho sau khi đã bắt đầu clomiphen citrate được 5 ngày. Clomiphen citrate và gonadotropin được dùng kéo dài đến tận ngày khởi động trưởng thành cuối cùng của noãn bào. Hoặc chỉ duy trì gonadotropin kết hợp GnRH đối vận để ngăn đỉnh LH sớm. Tác nhân được dùng để khởi động trưởng thành cuối cùng noãn bào thường là hCG. Biến thể Mild IVF dùng letrozole kết hợp gonadotropin: chu kỳ trước chu kỳ kích thích được sử dụng thuốc ngừa thai hằng ngày dạng uống (OCP). Letrozole 5mg/ngày được dùng từ ngày 4 sau khi ngưng OCP, dùng trong 5 ngày. hMG 150 IU/ngày được bổ sung từ ngày cuối cùng dùng letrozole và kéo dài đến ngày khởi động trưởng thành cuối cùng của noãn bào. GnRH đồng vận được sử dụng để ngăn đỉnh LH sớm, khởi đầu khi nang noãn đạt 14mm. Tác nhân được dùng để khởi động trưởng thành cuối cùng noãn bào có thể là hCG. Biến thể Mild IVF dùng gonadotrophin có kết hợp GnRH đối vận: Biến thể này sử dụng thuần túy gonadotrophin ngoại sinh với liều thấp và khởi đầu muộn. FSH 150IU/ngày từ ngày thứ 5 của chu kỳ kinh. GnRH đối vận nhằm ngăn đỉnh LH nội sinh. Tác nhân được dùng để khởi động trưởng thành cuối cùng noãn bào thường là hCG. Bảng 1: Phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ dựa trên nhóm thuốc chính sử dụng trong quá trình kích thích. Clomiphene citrate Letrozole FSH GnRH đối vận Gây phóng noãn N3 (MN) - (+/-) N8 (MN) - GnRHa / hCG - N1-N5 N5 (MN) Nang noãn 14mm hCG - - N5 (MN) Nang noãn 14mm hCG MN: mỗi ngày Hiệu quả của MildIVF và tiềm năng ứng dụng Những kết quả trong IVF cần được nghiên cứu nhiều hơn và chú ý đến các kết cục quan trọng, bao gồm tỉ lệ mang thai, tỉ lệ biến chứng, và chi phí hiệu quả. Tỉ lệ mang thai Tiếp cận nhẹ không chỉ chú trọng đến kích thích buồng trứng mà còn hướng đến thực hiện chuyển 1 phôi. Điều này đặc biệt quan trọng khi so sánh các kết quả với điều trị IVF cổ điển, với tình trạng chuyển 19 TỔNG QUAN Y VĂN nhiều phôi. Những báo cáo đã công bố cho thấy phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ có tỉ lệ sinh – sống trên tất cả các nhóm tuổi khoảng 11%, tỉ lệ mang thai cho mỗi chu kỳ đầu tiên là 37%. Tỉ lệ này không chênh lệch nhiều đối với những báo cáo đối với phác đổ chuẩn, tỉ lệ có thai trong mỗi chu kỳ chuyển phôi 16-67%.15 Khi tăng số phôi chuyển, dường như làm tăng tỉ lệ có thai, do đó trong phác đồ IVF cổ điển có xu hướng chuyển phôi nhiều hơn, nhưng điều này dẫn đến tỉ lệ biến chứng đa thai tăng lên, và đây không được xem là thành công của điều trị. Hiện nay nhiều tác giả đồng thuận rằng tỉ lệ sinh – sống cần loại bỏ các trường hợp đa thai. Và xem đa thai là biến chứng của điều trị IVF, không phải là thành công của IVF, bởi nó đặt bệnh nhân vào một bối cảnh khác, nhiều nguy cơ hơn trong giai đoạn thai kỳ. Trong các chu kỳ kích thích buồng trứng nhẹ, vì chu kỳ dùng thuốc ngắn và không cần trì hoãn trước khi bắt đầu một chu kỳ mới, do đó nó mang lại lợi ích vượt trội hơn chu kỳ chuẩn, nhất là quá trình kích thích có thể thực hiện nhiều chu kỳ liên hoàn, từ đó tác động đến tỉ lệ có thai cộng dồn trong một thời khoảng nhất định.16, 17 Cũng từ luận điểm này, một số tác giả đã hiệu chỉnh thành các chu kỳ IVF lite, tăng số lượng phôi tốt được thu nhận trong một khoảng thời gian nhất định. Ở nhóm bệnh nhân có đáp ứng buồng trứng kém, không có sự khác biệt trong số noãn bào chọc hút được và tỉ lệ mang thai giữa nhóm MildIVF và IVF cổ điển (2,79 ± 1,96 so với 2,20 ± 1,71 và 5,6% so với 4,1%). Liều gonadotropin được sử dụng trong nhóm MildIVF thấp hơn gấp đôi so với nhóm IVF cổ điển (1046 ± 596 vs 2806 ± 583).18 Tỉ lệ các biến chứng Kích thích buồng trứng nhẹ mang lại một thay đổi ngoạn mục trong chiến lược giảm biến chứng trong thụ tinh ống nghiệm. Quá kích buồng trứng là hiếm khi ghi nhận ở những phụ nữ thực hiện kích thíc buồng trứng nhẹ (<1%), trong khi ở các phác đồ kích thích chuẩn tỉ lệ quá kích buồng trứng trung bình – nặng là khoảng 3-8%, theo báo cáo của RCOG (Royal College of Obstetricians and Gynecologists). Những báo cáo về tỉ lệ đa thai trong MildIVF khoảng 4 – 11,5% song thai và 0 – 0,04% tam thai,19 thấp hơn so với khoảng 25% đa thai, trong đó 22,5% song thai, 1,6% tam thai, và 0,07% tứ thai ở nhóm IVF cổ điển.20, 21 Tỉ lệ bỏ cuộc Bỏ cuộc trong quá trình IVF tác động vào thành công chung của chương trình IVF. Tỉ lệ bỏ cuộc được ước tính khoảng 25% sau một chu kỳ IVF thất bại, và tỉ lệ bỏ cuộc cộng dồn là 54% sau 2 chu kỳ.21, 22 Về mặt tâm lý, điều trị hỗ trợ sinh sản thành công là một điều có ý nghĩa nhân văn đối với các cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên khi thất bại, bên cạnh những vấn đề về sức khỏe, tổn thất về chi phí, thì những tổn thương về tâm lý cũng tác động đến các quyết định của bệnh nhân. Các yếu tố này tác động qua lại với nhau, làm giảm mức độ tác động của một yếu tố nào cũng giúp cải thiện các yếu tố còn lại, từ đó mang đến thay đổi trong quyết định của bệnh nhân.23 Theo các nhà nghiên cứu, kích thích buồng trứng nhẹ có vẻ có tác động tích cực trong việc làm giảm tỉ lệ bỏ cuộc lên hơn 50%.24 Chi phí điều trị hiệu quả Một vài báo cáo đã đánh giá hiệu quả chi phí điều trị của phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ và phác đồ chuẩn dựa trên chi 20 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 2, Tháng 5 – 2017 phí để có một trẻ sinh – sống. Trước hết có thể nhận định ngay chi phí điều trị của một chu kỳ MildIVF thấp hơn có ý nghĩa đối với chu kỳ IVF cổ điển vì tổng liều FSH thấp hơn. Trong nhiều nghiên cứu cho thấy tỉ lệ mang thai của chu kỳ MildIVF không khác biệt có ý nghĩa so với chu kỳ cổ điển (56% so với 52%), do đó có thể tính được hiệu quả chi phí trong phác đồ MildIVF cao hơn so với chu kỳ chuẩn 18 - 23%.25, 26 Thêm vào đó vì tỉ lệ biến chứng thấp hơn đáng kể nên chi phí của MildIVF càng vượt trội hơn so với IVF cổ điển nói chung, vì giảm chi phí cho giai đoạn phục hồi sau IVF.21 Những yếu tố liên quan đến việc quyết định ứng dụng Thủy tinh hóa: đây là một trong những kỹ thuật trữ đông mới có liên quan đến tăng tỉ lệ thu nhận phôi và noãn sau rã đông. Từ một số kỹ thuật trữ đông thủy tinh hóa, thủy tinh hóa dùng Cryotop cho kết quả vượt trội hơn hết, với tỉ lệ sống của phôi từ 87-98%.27, 28 Tiếp cận buồng trứng nhẹ có tỉ lệ có thai thấp hơn trong chu kỳ đầu tiên và chuyển phôi tươi. Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân nhận được chuyển 1 phôi, và có những cơ hội tốt vì những bệnh nhân này có những phôi dư có chất lượng cao hơn để trữ đông. Do đó, kích thích buồng trứng nhẹ không nên nghĩ đến nếu thiếu một kỹ thuật trữ đông đáng tin cậy. Dựa trên luận điểm tỉ lệ phôi sống cao sau rã đông và tỉ lệ có thai của chuyển phôi trữ đông khoảng 40-50%, Mild IVF kết hợp trữ đông bằng phương pháp thủy tinh hóa cho tỉ lệ có thai 49%, tỉ lệ này là tương đương với IVF cổ điển có chuyển nhiều phôi. Tuy nhiên, hiệu quả của IVF chuẩn cũng không ngừng được quan tâm cải tiến; khi áp dụng lựa chọn phôi tốt để chuyển dựa trên các kỹ thuật theo dõi đánh giá phôi thời gian thực và chuyển phôi giới hạn 1-2 phôi thì tỉ lệ có thai của IVF chuẩn đã được cải thiện rất nhiều và đạt 63% cao hơn so với Mild IVF. Đó chính là sự cạnh tranh với nhau giữa 2 quan điểm điều trị. Do đó Mild IVF không phải là chỉ định phổ biến cho dân số chung, hoặc cho chiến lược tăng tỉ lệ mang thai trong thời gian nhất định của một trung tâm IVF. Mild IVF hướng đến lợi ích cho bệnh nhân về sức khỏe, và các hao tốn chi phí nếu phải thực hiện dài hơi, như vậy lợi ích này có vẻ là phù hợp cho những trường hợp nguy cơ cao với kích thích buồng trứng (bao gồm: trẻ tuổi, hội chứng buồng trứng đa nang) hoặc thất bại IVF nhiều lần, hoặc chất lượng phôi không như mong đợi, hoặc dự trữ buồng trứng kém và những trường hợp có hạn chế về kinh tế không thể chi trả khoảng phí cao cho thụ tinh ống nghiệm chuẩn. Di truyền: Quá trình kích thích buồng trứng có thể dẫn đến bất thường di truyền của phôi. Mặc dù những cơ chế cụ thể vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng có thể nồng độ estrogen cao làm tổn thương quá trình trưởng thành noãn và tác động lên quá trình phân chia của nhiễm sắc thể.29 Nếu điều này là đúng, thì việc dùng thuốc ít hơn có thể tránh được tác động lên noãn và phôi. Để đánh giá và so sánh tác động lên noãn và phôi, cần đến những nghiên cứu về chẩn đoán phôi trước làm tổ. Nhìn chung, theo nghiên cứu của Baart và cộng sự 2007, bất thường nhiễm sắc thể ở phôi chiếm 55% trong nhóm Mild IVF và là 73% trong nhóm kích thích buồng trứng cổ điển. Nói cách khác Mild IVF cho tỉ lệ phôi tốt cao hơn, khoảng 1,8 phôi có nhiễm sắc thể bình thường cho mỗi chu kỳ.30 21 TỔNG QUAN Y VĂN Biểu đồ 1. So sánh số lượng noãn, phôi và phôi tốt (sinh thiết phôi và chẩn đoán nhiễm sắc thể bình thường thông qua phương pháp FISH) trong trường hợp Mild IVF và IVF cổ điển. 30 Độ tuổi: Trong một nghiên cứu lớn thực hiện tại Nhật Bản,31 tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 39,4 ± 4,7 tuổi (dao động từ 22 – 53 tuổi). Không có trường hợp nào bị quá kích buồng trứng trung bình – nặng. Số noãn chọc hút được trong mỗi chu kỳ là 1,54. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kế ở biến số noãn chọc hút khi xét trên những nhóm tuổi khác nhau, ngoại trừ các trường hợp ≥ 45 tuổi. Tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phân chia không có sự khác biệt ở những nhóm tuổi khác nhau. Tuy nhiên tỉ lệ phát triển thành phôi nang có giảm theo tuổi. Trong tổng số 10401 trường hợp chuyển phôi, có 4902 (47,1%) trường hợp được chuyển phôi tươi ngày 3 (giai đoạn phân chia), 416 (4%) chuyển phôi đông ngày 3, 149 (1,4%) chuyển phôi tươi blastocyst, 4934 (47,4%) chuyển phôi đông blastocyst. Trong đó, tỉ lệ phôi sống trung bình sau rã đông là 98% đối với phôi trong giai đoạn phân chia và 95% đối với phôi blastocyst. Tỉ lệ sinh-sống giảm theo tuổi từ sau 35 tuổi ở tất cả các nhóm chuyển phôi khác nhau. So với các nhóm khác, nhóm chuyển phôi đông blastocyst cho tỉ lệ có thai sinh – sống cao nhất trong các nhóm tuổi. Biểu đồ 2. Phân bố theo tuổi của tỉ lệ sinh – sống trên chuyển phôi với những nhóm chuyển phôi khác nhau, sau thực hiện Mild IVF. 31 Kết luận Như vậy trong Mild IVF, độ tuổi rất quan trọng vì nó liên quan đến sự suy giảm không thể tránh khỏi của chất lượng noãn. Tuy nhiên kích thích buồng trứng nhẹ cho kết quả tổng thể về chất lượng phôi tốt hơn. Với những chu kỳ tự nhiên, độ tuổi cho phép thực hiện theo phác đồ này có thể được nâng cao hơn. Chuyển phôi đông nên được kết hợp trong các chu kỳ Mild IVF dùng clomiphene citrate. Chuyển phôi blastocyst cũng cho thấy có lợi nhưng cần cân nhắc khả năng nuôi phôi blastocyst thất bại. Tài liệu tham khảo chính 1. Norwitz ER, Schust DJ, Fisher SJ. Implantation and the survival of early pregnancy. The New England journal of medicine. 2001;345(19):1400-8. Epub 2002/01/17. 2. Tăng QT. Quan điểm tiếp cận buồng trứng nhẹ (Mild IVF) trong thụ tinh ống nghiệm. Sức khoẻ sinh sản. 2012;2(3):13-5. 3. Nargund G, Fauser BC, Macklon NS, Ombelet W, Nygren K, Frydman R. The ISMAAR proposal on terminology for ovarian stimulation for IVF. Hum Reprod. 2007;22(11):2801-4. Epub 2007/09/15. 4. Tăng QT. Hướng dẫn tiếp cận buồng trứng nhẹ trong thụ tinh ống nghiệm. In: Hoàng TDT, editor. Hướng dẫn điều trị 2016. Bệnh viện Hùng Vương: NXB Thanh Niên; 2016. 5. Chávez-Badiola A. Mild approaches: A whole different philosophy in IVF approaches - an overview. In: Chávez-Badiola A, Allahbadia GN, editors. Textbook of minimal stimulation IVF - milder, mildest or back to nature. London: Jaypee brothers medical publisher; 2011.
File đính kèm:
ung_dung_kich_thich_buong_trung_nhe_trong_thu_tinh_ong_nghie.pdf

