Ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong hồi sức phẫu thuật tim

Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng các phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao tại Khoa Hồi sức – Phẫu thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy.

Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu, Báo cáo hàng loạt ca.

Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân đã được sử dụng bóng dội ngược động mạch chủ (IABP), tuần hoàn ngoài cơ thể (ECMO) và dụng cụ hỗ trợ thất (VAD)

pdf 8 trang phuongnguyen 60
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong hồi sức phẫu thuật tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong hồi sức phẫu thuật tim

Ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong hồi sức phẫu thuật tim
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 107
Ứng dụng các phương tiện kỹ thuật cao trong hồi 
sức phẫu thuật tim
Nguyễn Thị Tuyết Lan, Trần Quyết Tiến và cộng sự
Bệnh viện Chợ Rẫy
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng 
các phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao tại Khoa 
Hồi sức – Phẫu thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy.
Thiết kế nghiên cứu: Hồi cứu, báo cáo hàng 
loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân đã được sử 
dụng bóng dội ngược động mạch chủ (IABP), tuần 
hoàn ngoài cơ thể (ECMO) và dụng cụ hỗ trợ thất 
(VAD).
Kết quả: Bóng dội ngược động mạch chủ được 
ứng dụng lần đầu tiên tại Khoa Hồi sức - Phẫu Thuật 
Tim năm 2012, số lượng bệnh nhân được đặt bóng 
dội ngược động mạch chủ ngày càng tăng. Năm 
2016, 42 bệnh nhân được đặt IABP, tỉ lệ bệnh nhân 
cai máy thành công là 59,5%. Từ năm 2013- 6 tháng 
đầu năm 2017 có 23 bệnh nhân được đặt ECMO và 
VAD, riêng năm 2015- 6 tháng đầu năm 2017 có 18 
bệnh nhân được đặt ECMO, trong đó 1 bệnh nhân 
chuyển viện ra nước ngoài trong quá trình điều trị. 
Trong số 17 bệnh nhân còn lại được tiếp tục theo dõi 
có 7 bệnh nhân cai ECMO thành công (41,16%), 
5 bệnh nhân xuất viện ổn định (29,41%), 12 bệnh 
nhân tử vong trong thời gian nằm viện do nhiều 
nguyên nhân khác nhau (70,59%). Chỉ định đặt 
ECMO chủ yếu cho bệnh nhân suy tim sau phẫu 
thuật bắc cầu mạch vành do nhồi máu cơ tim (13 
bệnh nhân). Các biến chứng thường gặp ở những 
bệnh nhân có đặt ECMO là nhiễm trùng, suy thận, 
suy gan, xuất huyết , thiếu máu chi,
Kết luận: Phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng 
cao ra đời là một bước tiến mới trong lĩnh vực hồi 
sức tim mạch cũng như phẫu thuật tim, đã mang 
lại một cơ hội sống mới cho những bệnh nhân suy 
tim nặng kháng trị với những điều trị thông thường, 
cũng là bước đệm giúp bệnh nhân có thể chờ đợi 
biện pháp điều trị cuối cùng là ghép tim.
Từ khóa: IABP (Bóng đối xung động mạch chủ), 
Tuần hoàn ngoài cơ thể (ECMO).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là tình trạng bệnh lý trong đó với áp lực 
đổ đầy thất bình thường tim không đủ khả năng bơm 
một lượng máu mang oxy và các chất biến dưỡng 
cho nhu cầu của cơ thể. Có thể nói suy tim là hậu 
quả cuối cùng của các bệnh tim bẩm sinh hoặc mắc 
phải, có thể xảy ra ở cả trẻ em hoặc người lớn. Năm 
2015, trên thế giới có khoảng 26 triệu người mắc 
bệnh, ở các nước phát triển tỷ lệ mắc bệnh suy tim là 
1-2% trong dân số người trưởng thành[8],[9]. Suy 
tim tăng theo tuổi và là một trong những nguyên 
nhân nhập viện hàng đầu ở người trên 65 tuổi[10].
Ngày nay với sự phát triển của y học, các biện 
pháp điều trị suy tim ngày càng được hoàn thiện và 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017108
nâng cao: biện pháp không dùng thuốc, biện pháp 
dùng thuốc, phẫu thuật tim, đặt bóng đối xung 
động mạch chủ (IABP), tuần hoàn ngoài cơ thể 
(ECMO), thiết bị hỗ trợ thất (VAD), ghép tim. Đặc 
biệt các phương tiện hỗ trợ tuần hoàn ngày càng 
được sử dụng nhiều hơn và hiệu quả hơn trong điều 
trị suy tim giúp cứu sống bệnh nhân cũng như góp 
phần cải thiện chất lượng cuộc sống. 
Các nghiên cứu cho thấy có 1-6% bệnh nhân 
sốc tim sau khi được phẫu thuật tái tưới máu hoặc 
thay van tim, 0,5-1,5% bệnh nhân không đáp ứng 
với thuốc vận mạch và bóng dội ngược động mạch 
chủ[1],[2],[6]. Tình trạng sốc tim sau phẫu thuật 
tim có thể xảy ra ở những bệnh nhân chức năng tim 
bình thường hoặc suy giảm trước đó, lúc này các 
phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao giúp tưới 
máu các cơ quan nội tạng, giúp cơ tim được nghỉ 
ngơi và có thời gian hồi phục đã mang lại một hy 
vọng sống mới cho bệnh nhân[3]. 
Hiện nay, đi cùng sự phát triển của y học thế 
giới, Bệnh viện Chợ Rẫy đã sử dụng các phương 
tiện hỗ trợ tuần hoàn cho bệnh nhân suy tim nặng. 
Từ năm 2010, tại Khoa Hồi sức – Phẫu thuật tim 
bóng dội ngược động mạch chủ đã bắt đầu được đặt 
cho những bệnh nhân bệnh mạch vành nặng có suy 
tim và đau ngực nhiều. Năm 2013 chúng tôi tiếp tục 
sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ 
thất cho bệnh nhân suy tim không đáp ứng điều trị 
nội khoa. Để đánh giá lợi ích của việc ứng dụng các 
phương tiện kỹ thuật cao trong hồi sức phẫu thuật 
tim chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu 
đánh giá kết quả bước đầu sử dụng các phương tiện 
hỗ trợ tuần hoàn nâng cao tại khoa Hồi Sức – Phẫu 
Thuật Tim, Bệnh viện Chợ Rẫy.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá kết quả bước đầu sử dụng các phương 
tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao tại khoa Hồi Sức - 
Phẫu Thuật Tim, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định tỉ lệ tử vong dù đã sử dụng các phương 
tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao.
- Xác định nguyên nhân tử vong dù đã sử dụng 
các phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao.
- Xác định tỉ lệ biến chứng khi sử dụng các 
phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
 Hồi cứu, báo cáo hàng loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu
Dân số mục tiêu: Bệnh nhân đã được sử dụng 
phương tiện hỗ trợ tuần hoàn bao gồm bóng dội 
ngược động mạch chủ (IABP), tuần hoàn ngoài cơ 
thể (ECMO) và dụng cụ hỗ trợ thất (VAD).
Dân số nghiên cứu: Bệnh nhân đã được sử dụng 
phương tiện hỗ trợ tuần hoàn bao gồm tuần hoàn 
ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất tại Khoa Hồi 
sức - Phẫu thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn chọn bệnh: Bệnh nhân đã được sử 
dụng phương tiện hỗ trợ tuần hoàn bao gồm tuần 
hoàn ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất tại Khoa 
Hồi Sức – Phẫu thuật Tim, Bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn loại trừ: Không đủ dữ liệu nghiên 
cứu.
Cỡ mẫu: Lấy tất cả các trường hợp thỏa tiêu chí 
chọn bệnh.
Xử lý số liệu
Các thuật toán thống kê y học (phần mềm 
SPSS).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi đã bắt đầu 
đưa bóng dội ngược động mạch chủ (IABP) vào sử 
dụng từ năm 2010 chỉ với khởi đầu 2 ca trong năm 
này đến nay số lượng bệnh nhân được sử dụng bóng 
dội ngược động mạch chủ ngày càng tăng.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 109
Biểu đồ 1. Số lượng bệnh nhân được sử dụng IABP
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân sử dụng bóng đội 
ngược động mạch chủ tăng dần qua các năm.
Bên cạnh bóng dội ngược động mạch chủ, 
chúng tôi cũng đã đưa dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn 
ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất vào sử dụng 
cho bệnh nhân suy tim nặng bắt đầu từ năm 2013. 
Đến nay có 23 bệnh nhân được sử dụng tuần hoàn 
ngoài cơ thể, trong đó có 2 bệnh nhân được sử dụng 
dụng cụ hỗ trợ thất. Trong nghiên cứu này chúng tôi 
không đề cập đến bóng dội ngược động mạch chủ 
vì sẽ được đánh giá ở một nghiên cứu khác. Chúng 
tôi chỉ tập trung nghiên cứu trên bệnh nhân được sử 
dụng tuần hoàn ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất. 
Tuy nhiên, trong 23 bệnh nhân được nghiên cứu có 
2 bệnh nhân do dữ liệu không đầy đủ nên chúng tôi 
không theo dõi được suốt quá trình nằm viện. 
3 2 2 
7 
9 
0
2
4
6
8
10
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 6 tháng đầu 
năm 2017 
ECMO
ECMO
Biểu đồ 2. Số lượng bệnh nhân được sử dụng ECMO
Nhận xét: Số lượng bệnh nhân được sử dụng 
ECMO ngày càng tăng.
Bệnh cơ bản cần sử dụng dụng cụ hỗ trợ tuần 
hoàn từ 2015- 6 tháng đầu năm 2017
Bảng 1. Bệnh cơ bản cần sử dụng dụng cụ hỗ trợ tuần 
hoàn
Bệnh cơ bản Tần số Tỉ lệ (%)
Nhồi máu cơ tim 13 72.22
Bệnh van tim 3 16.67
Tim bẩm sinh 2 11.11
Nhận xét: Bệnh cơ bản cần được hỗ trợ tuần 
hoàn đa số là bệnh mạch vành
Thời gian sử dụng phương tiện hỗ trợ tuần hoàn
Bảng 2. Thời gian sử dụng phương tiện hỗ trợ tuần 
hoàn
Phương tiện Thời gian (ngày)
Tuần hoàn ngoài cơ thể 13 ngày ( 4-24)
Nhận xét: Thời gian sử dụng tuần hoàn ngoài cơ 
thể trung bình 13 ngày, dài nhất 24 ngày, ngắn nhất 
3 ngày.
Tỉ lệ tử vong
Từ năm 2015 đến 6 tháng đầu năm 2017 có 18 
bệnh nhân đặt ECMO, trong đó có 1 bệnh nhân 
chuyển ra nước ngoài khi đang sử dụng ECMO nên 
không theo dõi tiếp tục quá trình điều trị, trong 17 
bệnh nhân còn lại có 7 bệnh nhân cai ECMO thành 
công (chiếm tỉ lệ 41.16%) và 5 bệnh nhân xuất 
viện trong tình trạng ổn định (chiếm tỉ lệ 29.41%), 
12 bệnh nhân diễn tiến nặng và thân nhân xin về 
(chiếm tỉ lệ 70.59%).
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017110
70.59% 
29.41% 
Tử vong 
Không tử vong 
Biểu đồ 3. Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân được sử dụng 
phương tiện hỗ trợ tuần hoàn
Nhận xét: Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân được sử 
dụng phương tiện hỗ trợ tuần hoàn tương đối cao.
Nguyên nhân tử vong 2015 - 6 tháng đầu năm 
2017
Bảng 3. Nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân sử dụng 
dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn
Nguyên nhân Tần số Tỉ lệ (%)
Suy 2 thất, suy đa cơ quan 4 33,33
Chảy máu 3 25
Tắc cầu vành 2 16,67
Viêm phổi do Klebsiella và 
Candida albicans
2 16,67
Tăng áp phổi 1 8,33
Nhận xét: Nguyên nhân tử vong chủ yếu do 
tình trạng suy tim quá nặng.
Biến chứng
0
2
4
6
8
10
Suy thận Suy gan Nhiễm trùng Xuất huyết iếu máu 
chi do canule 
Tán huyết 
Biểu đồ 4. Tần suất biến chứng ở bệnh nhân sử dụng phương tiện hỗ trợ tuần hoàn
Nhận xét: Biến chứng gặp nhiều nhất là tình 
trạng nhiễm trùng nặng.
BÀN LUẬN
Phương tiện hỗ trợ tuần hoàn đầu tiên được sử 
dụng tại khoa Hồi Sức - Phẫu Thuật Tim, Bệnh viện 
Chợ Rẫy là bóng dội ngược động mạch chủ với số 
lượng chỉ 2 ca trong năm 2010, nhưng những năm 
sau đó số lượng bóng được đặt đã tăng dần. Điều 
này cho thấy sự cố gắng nổ lực hết mình của đội ngũ 
bác sĩ và nhân viên y tế tại khoa vì bóng dội ngược 
khi mới có là một dụng cụ hồi sức hoàn toàn mới lạ 
đòi hỏi phải có kiến thức và kỹ năng thuần thục để 
sử dụng, ngoài việc chọn lựa thời điểm chỉ định đặt 
bóng thích hợp chúng ta còn phải biết theo dõi hoạt 
động của máy một cách chặt chẽ, tránh để những 
biến chứng không mong muốn xảy ra. Mặc dù việc 
đặt bóng có ca thành công cũng có ca thất bại nhưng 
chúng tôi vẫn không nản chí vẫn quyết tâm rút kinh 
nghiệm để hoàn thiện hơn cho những trường hợp 
cần đặt bóng sau này, dần dần tỉ lệ đặt bóng thành 
công cho bệnh nhân ngày càng tăng, chúng tôi càng 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 111
mạnh dạn hơn trong chỉ định đặt bóng dội ngược 
động mạch chủ, khảo sát sơ bộ trên 42 bệnh nhân 
đặt IABP năm 2016 ghi nhận có 17 bệnh nhân bệnh 
vẫn diễn tiến nặng (chiếm tỉ lệ 40%). Từ đó đòi hỏi 
các bác sĩ cần áp dụng các phương pháp hỗ trợ tuần 
hoàn nâng cao hơn IABP như ECMO. Vì vậy tỉ lệ 
sử dụng ECMO trong hồi sức tim mạch ngày càng 
tăng và đã đạt được những thành quả bước đầu. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi chủ yếu tổng 
kết lại các trường hợp cần phương tiện hỗ trợ hồi 
sức nâng cao từ đó rút ra kinh nghiệm cho những 
lần sau. Trong những năm đầu ứng dụng ECMO, 
số lượng bệnh nhân được sử dụng tuần hoàn ngoài 
cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất không cao vì đây là 
phương tiện hồi sức chuyên sâu, kỹ thuật cao, đòi 
hỏi không những máy móc, dụng cụ mà còn phải 
có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các nhân viên y 
tế từ phẫu thuật viên, bác sĩ hồi sức, gây mê, chạy 
máy đến điều đưỡng để tạo thành một ekip hoàn 
chỉnh[7]. Ngoài ra vấn đề chi phí khá cao là một 
trở ngại khi thực hiện vì không phải bệnh nhân nào 
cũng có khả năng. 
Trong số 18 ca bệnh nhân cần sử dụng hỗ trợ 
tuần hoàn trong gần 3 năm (2015 – 6 tháng đầu 
năm 2016), có đến 13 ca bệnh lý cơ bản là nhồi máu 
cơ tim, tổn thương mạch vành rất nặng ảnh hưởng 
lên chức năng tim làm suy tim nặng khó hồi phục, 
trong đó có 1 ca bệnh cơ bản rất nặng vừa nhồi máu 
cơ tim vừa phình động mạch chủ cho thấy việc sử 
dụng tuần hoàn ngoài cơ thể là hợp lý và rất cần 
thiết cho bệnh nhân. 
Tuần hoàn ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất 
tại khoa Hồi sức – Phẫu thuật Tim, Bệnh viện Chợ 
Rẫy được đặt cho đối tượng bệnh cả trẻ em và người 
lớn, đa số là để hỗ trợ tim sau phẫu thuật tim. Bệnh 
thường nặng và có nhiều tổn thương phối hợp, cụ 
thể một bệnh nhân 14 tuổi suy tim cấp – sốc tim 
trên nền viêm cơ tim tiến triển cần đặt ECMO và 
sau đó đặt dụng cụ hỗ trợ thất, một bệnh nhi 3 tuổi 
được phẫu thuật sửa chữa triệt để tứ chứng Fallot, 
sau mổ tim co bóp kém, cai máy tim phổi nhân tạo 
khó khăn, huyết áp dao động, vận mạch sử dụng liều 
cao, bệnh nhi được đặt ECMO và để hở xương ức, 
một bệnh nhân 56 tuổi bị nhồi máu cơ tim Killip IV 
và phình quai động mạch chủ ngực dạng túi được 
phẫu thuật bắc cầu mạch vành, cắm lại tất cả các 
nhánh nuôi não va đặt Stent graft động mạch chủ 
ngực dưới sự hỗ trợ ECMO, một bệnh nhân viêm 
nội tâm mạc nhiễm trùng, áp xe van động mạch chủ 
và rách van động mạch chủ, bệnh nhân ngưng tim 
trước phẫu thuật và được đặt ECMO phối hợp khi 
phẫu thuật tim, các bệnh nhân còn lại đều bị nhồi 
máu cơ tim cấp Killip IV kèm theo các biến chứng 
nặng như thủng vách liên thất, hở van 2 lá nặng, 
được phẫu thuật bắc cầu mạch vành và giải quyết 
các tình trạng nặng đi kèm sau đó đều cần đặt máy 
ECMO để hỗ trợ. Trong 6 tháng đầu năm 2017 
có 2 trường hợp nhồi máu cơ tim nặng được đặt 
ECMO trước mổ do tình trạng suy tim quá nặng 
không thích hợp phẫu thuật ngay mà cần phải có 
thời gian để cơ tim được nghỉ ngơi và hồi phục, từ 
đó cho thấy chúng ta có thể ứng dụng ECMO trong 
những trường hợp cấp cứu hồi sinh tim phổi cho 
bệnh nhân không hiệu quả - ECPR (Extracorporeal 
Cardiopulmonary resuscitation).
Tất cả các bệnh nhân được đặt tuần hoàn ngoài 
cơ thể tại khoa Hồi sức - Phẫu thuật tim Bệnh viện 
Chợ Rẫy đều loại trung tâm và V-A. Loại dụng cụ 
hỗ trợ thất được dùng cho bệnh nhân là BiLAD 
và LVAD. Thời gian sử dụng toàn hoàn ngoài cơ 
thể trung bình 13 ngày (từ 03 ngày đến 24 ngày) 
là tương đối dài so với các trường hợp viêm cơ tim 
đơn thuần hoặc chỉ hỗ trợ phổi vì những bệnh nhân 
này đa số đều phải trải qua một cuộc phẫu thuật tim 
lớn kéo dài tim bị tổn thương nặng kèm tình trạng 
suy tim trước mổ, khả năng và thời gian hồi phục rất 
khó đoán trước. Thời gian dùng BiLAD là 9 ngày là 
tương đối ngắn so với những trường hợp được đặt 
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017112
dụng cụ hỗ trợ thất đã được báo cáo trên thế giới do 
đây là trường hợp đầu tiên được áp dụng tại khoa 
chúng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng sử 
dụng máy, hơn nữa tình trạng bệnh nặng trước đó 
đã ít nhiều ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan 
đích được cung cấp máu từ tim. 
Tỉ lệ cai máy ECMO thành công từ năm 2015- 
6 tháng đầu năm 2017 chiếm 41,16%. Theo tác giả 
Rastan AJ và cộng sự tổng hợp 517 ca bệnh nhân sử 
dụng ECMO ở bệnh nhân sốc tim sau phẫu thuật 
tim, tỉ lệ cai ECMO thành công là 31-60%[2], tác 
giả Doll N và cộng sự ghi nhận tỉ lệ cai ECMO 
thành công là 60% [1]. Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân 
suy tim nặng được đặt ECMO tại Khoa Hồi sức - 
Phẫu thuật Tim từ năm 2015- 6 tháng đầu năm 
2017 chiếm 70,59%. Theo tác giả Rastan và cộng sự 
tỉ lệ tử vong trong bệnh viện của những bệnh nhân 
đặt ECMO là 59-84%[2]. Như vậy kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu 
trên thế giới. Đa số bệnh nhân có bệnh nền rất nặng, 
hỗ trợ tuần hoàn thường phải sử dụng trong bối 
cảnh cấp cứu, có trường hợp phải sử dụng cùng lúc 
2 hoặc 3 phương tiện hỗ trợ. Tuy nhiên trong số các 
bệnh nhân suy tim nặng, sốc tim với tỉ lệ tử vong gần 
như 100% chúng ta có thể cứu được gần 30% bệnh 
nhân nhờ vào phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng 
cao, điều đó cho thấy việc áp dụng các phương tiện 
hỗ trợ tuần hoàn bước đầu đã cho kết quả khả quan 
và là nền tảng, động lực để chúng tôi tiếp tục phát 
huy việc ứng dụng các phương tiện này trong tương 
lai để nâng cao tỉ lệ cứu sống bệnh nhân. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi mặc dù đã được 
sử dụng phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nhưng nguyên 
nhân tử vong chủ yếu là suy hai thất tiến triển đến 
suy đa cơ quan là 4/12 ca chiếm tỉ lệ 33,33% cho 
thấy tình trạng suy tim và tổn thương tim của bệnh 
nhân rất nặng, không có khả năng hồi phục. Bên 
cạnh đó tình trạng nhiễm trùng và các biến chứng 
do nằm lâu sau phẫu thuật cũng như sau đặt máy hỗ 
trợ tuần hoàn cũng góp phần vào nguyên nhân gây 
tử vong cho bệnh nhân[4],[5]. 
Tất cả bệnh nhân được đặt máy hỗ trợ tuần hoàn 
hoặc máy hỗ trợ thất đều có có biến chứng, nhiều 
nhất là biến chứng nhiễm trùng nặng có thể do tất 
cả đều được đặt ECMO trung tâm trong thời gian 
dài, tổng trạng bệnh nhân kém, phẫu thuật, thủ 
thuật xâm lấn nhiều, thở máy kéo dài nên nguy cơ 
nhiễm trùng cao. Ngoài ra các biến chứng suy gan, 
suy thận, chảy máu, xuất huyết, thiếu máu chi cũng 
thường gặp do giảm lưu lượng tuần hoàn, sử dụng 
nhiều loại thuốc hỗ trợ như vận mạch, kháng sinh, 
kháng đông
Như vậy qua nghiên cứu này chúng ta phần nào 
khái quát được tình hình sử dụng phượng tiện hỗ 
trợ tuần hoàn nâng cao tại Khoa Hồi sức – Phẫu 
thuật tim Bệnh viện Chợ Rẫy, đây là những kỹ thuật 
mới, hiện đại mở ra cơ hội cứu sống cho các bệnh 
nhân với bệnh lý tim mạch nặng nề và phức tạp 
hơn mà trước đây các phương pháp điều trị nội và 
ngoại khoa cổ điển không cứu chữa được. Đây cũng 
là các phương tiện chuyên sâu giúp cũng cố, hỗ trợ 
phát triển hơn nữa lĩnh vực phẫu thuật tim, giúp các 
bác sĩ mạnh dạn hơn đối với những trường hợp mà 
trước đây được cho là quá chỉ định phẫu thuật. 
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu này chúng tôi rút ra những kết 
luận sau:
- Các phương tiện kỹ thuật cao được sử dụng 
tại Khoa Hồi sức – Phẫu thuật Tim gồm: Bóng 
dội ngược động mạch chủ, tuần hoàn ngoài cơ thể, 
dụng cụ hỗ trợ thất.
- Tỉ lệ bệnh nhân được đặt bóng dội ngược động 
mạch chủ tăng dần qua các năm.
- Tỉ lệ bệnh nhân được đặt máy hỗ trợ tuần hoàn 
ngoài cơ thể và dụng cụ hỗ trợ thất tăng dần. 
- Bệnh cơ bản cần đặt dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn 
ngoài cơ thể chủ yếu là nhồi máu cơ tim.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 113
- Thời gian sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể trung 
bình là 13 ngày.
- Tỉ lệ tử vong ở những bệnh nhân được sử dụng 
dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn ngoài cơ thể tương đối cao 
chiếm 70,59 %.
- Nguyên nhân tử vong ở những bệnh nhân được 
sử dụng dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn chủ yếu do suy 2 
thất, suy đa cơ quan.
- Biến chứng gặp nhiều nhất ở những bệnh 
nhân được sử dụng dụng cụ hỗ trợ tuần hoàn là 
nhiễm trùng nặng, suy gan, suy thận, xuất huyết, 
thiếu máu chi.
- Phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao ra đời là 
một bước tiến mới trong lĩnh vực hồi sức tim mạch 
cũng như phẫu thuật tim, đã mang lại một cơ hội 
sống mới cho những bệnh nhân suy tim nặng kháng 
trị với những điều trị thông thường, cũng là bước 
đệm giúp bệnh nhân có thể chờ đợi biện pháp điều 
trị cuối cùng là ghép tim. 
KIẾN NGHỊ
Từ những kết quả của nghiên cứu này, chúng tôi 
có một số kiến nghị sau:
- Tăng cường năng lực cho tuyến cơ sở trong việc 
chẩn đoán và điều trị sớm các trường hợp suy tim 
giai đoạn đầu.
- Thường xuyên tổ chức đào tạo và tập huấn sử 
dụng các phương tiện hỗ trợ tuần hoàn nâng cao 
cho đội ngũ y bác sĩ hồi sức tim mạch.
- Hình thành và phát triển ekip thực hiện tuần 
hoàn ngoài cơ thể, dụng cụ hỗ trợ thất và ghép tim 
bao gồm bác sĩ phẫu thuật viên, hồi sức, gây mê, 
chạy máy, điều dưỡngở các bệnh viện đầu ngành.
- Hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm thực hành các 
biện pháp hỗ trợ tuần hoàn với các chuyên gia trong 
và ngoài nước.
ABSTRACT
APPLYING THE ADVANCED CIRCULATION SUPPORT DEVICES FOR RESUSCITTATION 
IN CARDIAC SURGERY
Objective: Evaluating the first stage outcomes of applying advance circulation support devices at 
Cardiac Surgery Department at Cho Ray Hospital.
Method: Retrospective, case series.
Results: The first time IAPB was used at the Cardiac Surgery Department in 2012, the number of 
patients received IABP is increasing. In 2016, 42 patients were performed IABP, 17 patients (59.5%) were 
successfully weaned from IABP. From 2013 to 2016, 23 patients received ECMO and VAD, especialy in 
2015- the first 6 months of 2017, 18 patients received ECMO, 1 patient was transfered abroad. Among 
17 patients followed up, 7 patients were weaned ECMO successfully (41.16%), 5 patients got better and 
were discharged stably (29.41%) ; in-hospital mortality was 70.59%. The main indication of ECMO was 
cardiogenic shock after cardiac surgeries. The common complications of ECMO were sepsis, renal failure, 
hepatic failure, bleeding, leg ischemia,
Conclusion: The invention of advanced circulation support devices marked an obvious advance in cardiac 
resuscitation and cardiac surgery. That gave patients with refractory cardiac shock new chances to be rescued 
and wait for heart transplantation.
Key words: IABP (Intra- aortic balloon pump), ECMO (Extracorporeal membrane oxygenation).
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017114
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Doll N, Kiaii B, et al, 2004, “Five-Year results of 219 consecutive patients treated with extracorporeal 
membrane oxygenation for refractory postoperative cardiogenic shock”, The Annals of Thoracic Surgery, 
Volume 77, Issue 1, January 2004, Pages 151-157.
2. Rastan AJ, Dege A, et al, 2010, “Early and late outcomes of 517 consecutive adult patients treated 
withextracorporeal membrane oxygenation for refractory postcardiotomy cardiogenic shock”, The Journal 
of Thoracic and Cardiovascular Surgery, Volume 139, Issue 2, February 2010, Pages 302–311.e1.
3. Bermudez CA, Rocha RV, et al, 2011, “Extracorporeal Membrane Oxygenation for Advanced 
Refractory Shock in Acute and Chronic CardiomyopathyOriginal Research Article”, The Annals of Thoracic 
Surgery, Volume 92, Issue 6, December 2011, Pages 2125-2131.
4. Kumar TKS, Zurakowski D, et al, 2010, “Extracorporeal membrane oxygenation in postcardiotomy 
patients: Factors influencing outcomeOriginal Research Article”, The Journal of Thoracic and Cardiovascular 
Surgery, Volume 140, Issue 2, August 2010, Pages 330-336.e2.
5. Meng-Yu Wu, Pyng-Jing Lin, et al, 2010, “Using extracorporeal life support to resuscitate adult 
postcardiotomy cardiogenic shock: Treatment strategies and predictors of short-term and midterm survival”, 
Original Research Article, Resuscitation, Volume 81, Issue 9, September 2010, Pages 1111-1116.
6. Khan MH, Corbett BJ, et al, 2014, “Mechanical circulatory support in acute cardiogenic shock”, 
F1000Prime Rep. 2014; 6: 91.
7. Lawler PR, Silver DA, et al, 2015, “Extracorporeal Membrane Oxygenation in Adults With Cardiogenic 
Shock”, Circulation. 2015;131:676-680.
8. Ambrosy PA et al, 2014, "The Global Health and Economic Burden of Hospitalizations for Heart 
Failure. Lessons Learned From Hospitalized Heart Failure Registries”. J Am Coll Cardiol. 2014;63:1123–
1133.
9. Cowie MR et al, 2014, “Improving care for patients with acute heart failure”. Oxford PharmaGenesis. 
ISBN 978-1-903539-12-5.
10. Díez-Villanueva P, Alfonso F, 2016, “Heart failure in the elderly”, J Geriatr Cardiol. 2016 Feb; 13(2): 
115–117.

File đính kèm:

  • pdfung_dung_cac_phuong_tien_ky_thuat_cao_trong_hoi_suc_phau_thu.pdf