Ứng dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại

Trong những năm gần đây, vấn đề lãi suất của hệ thống ngân hàng là vấn đề mà không chỉ ngân hàng mà cả xã hội quan tâm và trên thực tế các ngân hàng đã phải

gánh chịu những hậu quả gây ảnh hưởng đến sự an toàn trong

kinh doanh của bản thân mỗi ngân hàng cũng như an nguy của

toàn hệ thống. Bài viết chia sẻ những khuyến nghị về việc sử dụng

các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất với mong muốn

giúp cho các ngân hàng có thể thực hiện việc quản trị rủi ro lãi suất

một cách tốt hơn, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi

ngân hàng.

pdf 5 trang phuongnguyen 8520
Bạn đang xem tài liệu "Ứng dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại

Ứng dụng các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
41
1. Đặt vấn đề
Xu hướng tự do hóa, toàn cầu 
hóa kinh tế và quốc tế hóa các luồng 
tài chính đã làm thay đổi căn bản 
hệ thống ngân hàng, việc gia nhập 
WTO cùng tham gia sân chơi thế 
giới của các ngân hàng với vốn đầu 
tư và nhân lực nước ngoài là những 
thách thức lớn cho các ngân hàng 
trong nước. Vì vậy, hoạt động kinh 
doanh trở nên phức tạp hơn và áp 
lực cạnh tranh giữa các ngân hàng 
lớn hơn và cùng với nó, mức độ rủi 
ro cũng tăng lên. Hơn nữa, mức độ 
tự do hóa càng cao thì rủi ro cũng 
càng lớn. Ngân hàng muốn có lợi 
nhuận thì phải chấp nhận rủi ro, có 
nghĩa là phải sống chung cùng với 
những rủi ro phát sinh trong từng 
nghiệp vụ của ngân hàng. 
2. Rủi ro lãi suất là gì?
Rủi ro lãi suất là sự suy giảm lợi 
nhuận hoặc những tổn thất về tài 
sản do sự biến động của lãi suất. Sự 
không cân xứng về kỳ hạn giữa tài 
sản Có và tài sản Nợ làm cho ngân 
hàng phải chịu rủi ro về lãi suất. 
Rủi ro lãi suất gắn liền với cấu 
trúc thời hạn khác nhau giữa tài sản 
Có và tài sản Nợ và sự biến động 
của lãi suất thị trường. Rủi ro lãi 
suất xảy ra trong 2 trường hợp sau 
đây:
Kì hạn huy động vốn ngắn 
hơn kì hạn đầu tư vốn, trong mọi 
trường hợp nếu ngân hàng duy trì 
tài sản Có với kì hạn dài hơn so với 
tài sản Nợ thì ngân hàng luôn đứng 
trước rủi ro về lãi suất trong việc 
tái tài trợ đối với tài sản Nợ. Rủi ro 
sẽ thành hiện thực khi lãi suất huy 
động vốn trong những năm tiếp 
theo cao hơn mức lãi suất đầu tư 
tín dụng dài hạn. 
Kì hạn huy động vốn dài hơn kì 
hạn đầu tư vốn. Thông thường khi 
kì hạn huy động vốn dài hơn kì hạn 
đầu tư vốn, các ngân hàng sẽ thực 
hiện việc tái đầu tư sau khi kỳ hạn 
trước kết thúc, và việc này có thể sẽ 
làm cho ngân hàng gặp phải rủi ro 
về lãi suất tái đầu tư.
Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài 
sản Nợ hoặc tái đầu tư tài sản Có 
thì khi lãi suất thị trường thay đổi 
ngân hàng có thể gặp rủi ro giảm 
giá trị tài sản. 
Tóm lại, nếu ngân hàng duy trì 
cơ cấu tài sản Có và tài sản Nợ với 
những kỳ hạn không cân xứng với 
nhau, thì phải chịu những rủi ro về 
lãi suất trong việc tái tài trợ tài sản 
Có và tài sản Nợ; hoặc rủi ro về lãi 
suất do giá trị của tài sản thay đổi 
khi lãi suất thị trường biến động.
Ứng dụng các công cụ phái sinh 
trong quản trị rủi ro lãi suất 
tại các ngân hàng thương mại
PGS.TS. NGuyễN Thị NhuNG & ThS. TRầN Thị MiNh TuyềN
Trong những năm gần đây, vấn đề lãi suất của hệ thống ngân hàng là vấn đề mà không chỉ ngân hàng mà cả xã hội quan tâm và trên thực tế các ngân hàng đã phải 
gánh chịu những hậu quả gây ảnh hưởng đến sự an toàn trong 
kinh doanh của bản thân mỗi ngân hàng cũng như an nguy của 
toàn hệ thống. Bài viết chia sẻ những khuyến nghị về việc sử dụng 
các công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro lãi suất với mong muốn 
giúp cho các ngân hàng có thể thực hiện việc quản trị rủi ro lãi suất 
một cách tốt hơn, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi 
ngân hàng.
Từ khóa: Lãi suất, hệ thống ngân hàng, công cụ phái sinh, 
quản trị trị rủi ro, khả năng cạnh tranh.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
42
3. Tác động của rủi ro lãi suất 
đến hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng thương mại
Lãi suất thay đổi có thể làm 
tăng chi phí nguồn vốn, giảm thu 
nhập từ tài sản của ngân hàng. Rủi 
ro lãi suất cũng làm giảm giá trị tài 
sản Có và vốn chủ sở hữu của ngân 
hàng. Cụ thể:
Xét trên khía cạnh thu nhập
Theo khía cạnh thu nhập: Bộ 
phận thu nhập trước đây được 
quan tâm nhiều nhất là thu nhập 
lãi thuần (chênh lệch giữa tổng thu 
nhập lãi và tổng chi phí lãi). Sự tập 
trung này phản ánh tầm quan trọng 
của thu nhập lãi thuần trong tổng 
thu nhập của ngân hàng và mối liên 
hệ trực tiếp của nó với những thay 
đổi về lãi suất. Tuy nhiên, do các 
ngân hàng chuyển sang thực hiện 
các hoạt động tạo ra thu nhập dựa 
trên phí và các thu nhập ngoài lãi 
khác, người ta ngày càng tập trung 
vào tổng thu nhập thuần - bao gồm 
cả thu nhập, chi phí lãi và ngoài 
lãi. Thu nhập ngoài lãi phát sinh 
từ nhiều hoạt động, như thanh 
toán nghĩa vụ nợ và các chương 
trình chứng khoán hoá tài sản, có 
thể rất nhạy cảm và có mối quan 
hệ phức tạp với lãi suất thị trường. 
Ví dụ, một số ngân hàng cung cấp 
chức năng thanh toán nghĩa vụ nợ 
và quản lý khoản vay đối với các 
khoản vay cầm cố để lấy phí dựa 
trên doanh số tài sản được quản lý. 
Khi lãi suất giảm, ngân hàng làm 
dịch vụ có thể bị giảm thu nhập 
phí do các khoản cầm cố được trả 
trước. Ngoài ra, thậm chí những 
nguồn thu nhập ngoài lãi truyền 
thống khác như phí thực hiện giao 
dịch ngày càng trở nên nhạy cảm 
với lãi suất. Độ nhạy ngày càng 
tăng này đã làm cho lãnh đạo ngân 
hàng và các cơ quan giám sát nhìn 
nhận rộng hơn về tiềm năng ảnh 
hưởng của những thay đổi lãi suất 
thị trường đối với thu nhập của 
ngân hàng và gán cho các yếu tố 
này những ảnh hưởng rộng hơn khi 
ước tính thu nhập trong những môi 
trường lãi suất khác nhau. 
Xem xét trên khía cạnh giá trị 
kinh tế
Giá trị kinh tế của một tài sản 
là hiện giá của dòng tiền mong đợi 
trong tương lai. Biến động của giá 
trị thị trường có thể tác động lên giá 
trị kinh tế của tài sản Nợ - tài sản 
Có và các khoản ngoại bảng của 
ngân hàng. 
Thay đổi lãi suất thị trường 
có thể ảnh hưởng đến giá trị kinh 
tế của các tài sản Có, tài sản Nợ 
và các trạng thái ngoại bảng của 
ngân hàng. Do vậy, mức độ nhạy 
của giá trị kinh tế của ngân hàng 
đối với những biến động lãi suất 
là một mối quan tâm đặc biệt của 
các cổ đông, lãnh đạo và các cơ 
quan giám sát. Giá trị kinh tế của 
một công cụ là đánh giá giá trị hiện 
tại của các luồng tiền thuần dự 
kiến, được chiết khấu để phản ánh 
lãi suất thị trường. Nói rộng hơn, 
giá trị kinh tế của một ngân hàng 
có thể được coi là giá trị hiện tại 
của các luồng tiền thuần của ngân 
hàng, được định nghĩa là các luồng 
tiền dự kiến đối với tài sản Có trừ 
đi các luồng tiền dự kiến đối với tài 
sản Nợ cộng với luồng tiền thuần 
dự kiến đối với các trạng thái ngoại 
bảng. Theo nghĩa này, khía cạnh 
giá trị kinh tế phản ánh quan điểm 
về độ nhạy cảm của giá trị thuần 
của ngân hàng đối với những thay 
đổi về lãi suất. 
4. Quản trị rủi ro lãi suất bằng 
các hợp đồng phái sinh
Hợp đồng kỳ hạn là sự thỏa 
thuận giữa người mua và người 
bán tại thời điểm t = 0 rằng người 
mua sẽ thanh toán cho người bán 
theo giá kỳ hạn đã được thỏa thuận 
và người bán sẽ giao hàng cho 
người mua tại thời điểm hợp đồng 
đáo hạn. 
Hợp đồng kỳ hạn trái phiếu
Thị giá trái phiếu biến động 
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
43
ngược chiều với lãi suất thị trường, 
nếu trường hợp dự báo lãi suất thị 
trường sẽ tăng trong thời gian tới 
ngân hàng sẽ thực hiện hợp đồng 
bán kỳ hạn các trái phiếu và ngược 
lại nếu trường hợp dự báo lãi suất 
thị trường sẽ giảm trong thời gian 
tới ngân hàng sẽ thực hiện mua kỳ 
hạn các trái phiếu để phòng ngừa 
rủi ro lãi suất. 
Hợp đồng kỳ hạn tiền gửi
Với hợp đồng tiền gửi này ngân 
hàng sẽ đảm bảo được nguồn vốn 
cho vay từ thời điểm t
1
 đến t
2
 với 
mức lãi suất biết trước. Như vậy 
sẽ không phải chịu ảnh hưởng của 
biến động lãi suất trong thời gian 
tới.
Hợp đồng lãi suất kỳ hạn
Với hợp đồng kỳ hạn lãi suất 
dù lãi suất tại thời điểm t
1
 tăng hay 
giảm ngân hàng vẫn có một mức 
thu nhập từ chênh lệch lãi suất cho 
vay và lãi suất huy động được xác 
định trước
Hợp đồng tương lai 
Hợp đồng tương lai là một thỏa 
thuận về việc mua bán một tài sản 
trong tương lai tại một mức giá cố 
định. Cụ thể hợp đồng tương lai là 
sự thỏa thuận giữa người mua và 
người bán tại thời điểm t = 0 rằng 
người mua sẽ thanh toán cho người 
bán theo giá đã được thỏa thuận 
trước tại thời điểm t = 0 cho một 
khối lượng hàng hóa nhất định. 
Việc thực hiện hợp đồng tức giao 
nhận hàng hóa và thanh toán tiền 
được thực hiện tại một thời điểm 
trong tương lai theo thỏa thuận 
trong hợp đồng. Hợp đồng tương 
lai được thỏa thuận thông qua sở 
giao dịch và điều quan trọng hơn là 
các bên có thể chấm dứt hợp đồng 
tại bất cứ thời điểm nào thông qua 
sở giao dịch.
Hợp đồng quyền chọn
Trong giao dịch quyền chọn, 
người mua quyền chọn mua hay 
quyền chọn bán một hàng hóa 
đã thỏa thuận phải trả một khoản 
phí mua quyền chọn. Người mua 
quyền chọn (quyền chọn mua hay 
quyền chọn bán) có quyền chứ 
không phải nghĩa vụ mua/ bán một 
lượng hàng hóa theo một giá thỏa 
thuận trước trong hợp đồng. Ngược 
lại, người bán quyền chọn phải có 
nghĩa vụ chứ không phải quyền 
bán/mua một lượng hàng hóa theo 
một giá thỏa thuận trước trong hợp 
đồng và được thu về một khoản phí 
bán quyền chọn. Phí quyền chọn 
được thanh toán cho người bán tại 
thời điểm ký kết hợp đồng. Như 
vậy, đối với giao dịch quyền chọn, 
người mua quyền chọn là người 
trả phí, người bán quyền chọn là 
người thu phí.
Hợp đồng hoán đổi lãi suất
Hợp đồng hoán đổi (Swaps) 
lãi suất là thỏa thuận giữa người 
mua (theo thông lệ là người thanh 
toán lãi suất cố định) và người bán 
(theo thông lệ người thanh toán lãi 
suất thả nổi). Vào ngày giá trị giao 
dịch, người mua thanh toán lãi suất 
cố định cho người bán và người 
bán thanh toán lãi suất thả nổi cho 
người mua. 
5. Mức độ áp dụng các công cụ 
phái sinh ở VN để phòng ngừa 
và hạn chế rủi ro lãi suất
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh 
vực chưa có sự xuất hiện của các 
nhà bảo hiểm bởi tính biến động 
khôn lường của nó. Các chủ thể 
tham gia không còn cách nào khác 
ngoài việc tự bảo hiểm cho mình 
bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 
một phần rủi ro cho thị trường bằng 
các công cụ tài chính phái sinh. 
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng 
quát, mức độ áp dụng các công cụ 
phái sinh ở VN còn rất hạn chế. 
Nhiều ý kiến cho rằng xuất phát 
điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho 
phép chúng ta áp dụng các kỹ thuật 
tài chính hiện đại. Nói cách khác, 
thói quen và tập quán kinh doanh là 
những cản trở lớn đối với quá trình 
phổ biến các công cụ tài chính phái 
sinh ở VN.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với 
tư cách là công cụ tài chính phái 
sinh đầu tiên ở VN theo quyết định 
số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 
25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn 
được thực hiện trong hợp đồng mua 
bán USD và VND giữa NHTM với 
doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc 
với các ngân hàng thương mại 
khác được phép của ngân hàng nhà 
nước. Tuy nhiên, hợp đồng kỳ hạn 
ít được sử dụng, một phần là do thị 
trường liên ngân hàng ở VN chưa 
phát triển, một phần do những 
hạn chế vốn có của nó trong việc 
phòng chống rủi ro tỉ giá và những 
hạn chế của NHNN. Vì thế, các 
giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 
5-7% khối lượng giao dịch của thị 
trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Giao dịch hoán đổi cũng 
xuất hiện khá sớm theo quyết 
định số 430/QĐ-NHNN13 ngày 
24/12/1997 và sau này là Quyết 
định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 
17/7/2001 của Thống đốc NHNN. 
Tuy nhiên đây chỉ là những giao 
dịch hoán đổi thuận chiều giữa 
NHNN và NHTM. Nó chỉ được sử 
dụng trong trường hợp các NHTM 
dư thừa ngoại tệ và khan hiếm 
VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất 
xuất hiện ở VN và được các ngân 
hàng sử dụng do nhu cầu nội tại 
của các NHTM nhằm theo kịp 
chuẩn mực hoạt động ngân hàng 
quốc tế. NHNN cho phép các 
NHTM thực hiện một số nghiệp vụ 
phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro 
lãi suất và rủi ro tỷ giá. Theo Quyết 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
44
định số 1133/QĐ- NHNN ngày 
30/09/2003 về quy chế thực hiện 
giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép 
mở rộng danh mục các NHTM và 
các TCTD, các doanh nghiệp được 
sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. 
Hoán đổi lãi suất được thực hiện 
đối với cả VND và ngoại tệ giữa 
các ngân hàng với doanh nghiệp 
vay vốn tại ngân hàng; giữa ngân 
hàng với những doanh nghiệp vay 
vốn tại các tổ chức tín dụng khác, 
kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các 
ngân hàng trong nước với nhau và 
giữa các NHTM trong nước với 
các TCTD nước ngoài. Trên cơ 
sở nới lỏng quản lý của NHNN, 
nhiều NHTM đã triển khai cung 
cấp hợp đồng hoán đổi lãi suất cho 
các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác 
là các TCTD nước ngoài để ký kết 
hợp tác. 
Từ khi NHNN cho phép thực 
hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất 
trên thị trường VN (từ tháng 
01/2003), đã có một số ngân hàng 
như Ngân hàng TMCP Á Châu, 
Citibank thực hiện hoán đổi lãi suất 
trong phạm vi đồng USD từ ngày 
1/3/2005 tới 2/2006. Ngân hàng 
TMCP Ngoại thương thực hiện 
giao dịch hoán đổi lãi suất kèm 
theo điều kiện quyền chọn với các 
đối tác là TCTD hoạt động tại VN 
và các pháp nhân khác hoạt động ở 
trong nước và nước ngoài, phù hợp 
với các quy định của pháp luật. Tuy 
nhiên, giao dịch hoán đổi lãi suất 
giữa 2 đồng tiền USD và VND 
(hoán đổi lãi suất chéo) đã được 
thực hiện, từ trước khi có quy định 
chính thức của NHNN.
 Ở mức cao hơn, các công cụ lai 
tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như 
hoán đổi lãi suất cộng dồn, hoán 
đổi lãi suất kèm theo điều kiện 
quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt 
đầu thực hiện trong tương lai 
cũng đã xuất hiện và triển khai trên 
thị trường ngoại hối. 
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất 
và vàng dường như là những công 
cụ phái sinh được thị trường hoan 
nghênh và đón nhận nhiều nhất 
do những ưu điểm vốn có của nó 
trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá và 
giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên 
tục. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển 
VN là ngân hàng đầu tiên được 
phép thực hiện giao dịch quyền 
chọn lãi suất. Các giao dịch quyền 
chọn lãi suất được phép thực hiện 
đối với những khoản cho vay và đi 
vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng 
USD hoặc bằng EUR và chỉ được 
thực hiện đối với các doanh nghiệp 
hoạt động tại VN, các NHTM hoạt 
động ở VN được NHNN cho phép 
và các ngân hàng ở nước ngoài. 
Sau BIDV là hàng loạt các NHTM 
khác, bao gồm cả NHTM cổ phần 
cũng được cho phép thực hiện 
nghiệp vụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất 
hiện của các công cụ phái sinh ở 
VN, dễ nhận thấy rằng nó chưa 
được thị trường đón nhận như 
là công cụ không thể thiếu trong 
phòng ngừa rủi ro. 
6. Làm gì để mở rộng việc ứng 
dụng các công cụ phái sinh vào 
quản lý rủi ro lãi suất?
Hình thành thị trường chứng 
khoán phái sinh (TTCKPS) và phát 
triển đồng bộ các loại thị trường. 
TTCKPS là một bộ phận của 
hệ thống thị trường trong nền kinh 
tế. Trên một khía cạnh nào đó, 
TTCKPS là một bộ phận của cả thị 
trường tài chính và thị trường hàng 
hoá. TTCKPS có mối quan hệ chặt 
chẽ với hệ thống thị trường của nền 
kinh tế, đặc biệt là quan hệ chặt chẽ 
với thị trường hàng hoá, TTCK và 
thị trường tiền tệ, tín dụng trong 
hệ thống thị trường tài chính. Thị 
trường giao dịch hàng hoá và thị 
trường tài chính là cơ sở cho sự 
hình thành và phát triển TTCKPS. 
Bởi vì các CKPS quan trọng, có 
sức hấp dẫn nhất trên TTCKPS 
đều bắt nguồn từ cơ sở là các loại 
hàng hoá, các loại chứng khoán 
Nhưng ngược lại, TTCKPS ra đời 
và phát triển cũng có tác động tích 
cực nhất định đối với sự phát triển 
của nền kinh tế, của hệ thống thị 
trường trong nền kinh tế, nhất là thị 
trường giao dịch hàng hoá và thị 
trường tài chính., TTCKPS được 
hình thành và phát triển nhằm chia 
sẻ, phòng ngừa rủi ro cho các thị 
trường hàng hoá và thị trường tài 
chính Như vậy, việc hình thành 
và phát triển TTCKPS là cần thiết, 
song phải đảm bảo mối quan hệ 
giữa TTCKPS với hệ thống thị 
trường trong nền kinh tế. Hay nói 
một cách chính xác hơn phải là 
đảm bảo sự phát triển đồng bộ của 
hệ thống thị trường trong nền kinh 
tế, tạo điều kiện phát huy tác dụng 
tích cực của từng thị trường đối với 
toàn bộ hệ thống và nền kinh tế. 
Các chính sách cũng cần tạo 
điều kiện để các doanh nghiệp 
tham gia vào thị trường này. 
Trên thực tế khung pháp lý điều 
chỉnh hoạt động giao dịch chứng 
khoán phái sinh chưa đầy đủ, 
quyền lợi và trách nhiệm của các 
chủ thể tham gia chưa được đảm 
bảo, do đó chưa tạo được sự quan 
tâm của các định chế tài chính cũng 
như các nhà đầu tư khi tham gia 
trên thị trường chứng khoán, trong 
vận dụng các biện pháp để hạn chế 
rủi ro và đầu tư kiếm lợi. Cụ thể 
như quy định về việc tính thuế như 
quy định về mức thuế đánh trên 
lãi thu được từ việc thực hiện hợp 
đồng hoán đổi của VN, trong khi ở 
nhiều nước khi các doanh nghiệp 
sử dụng các sản phẩm phái sinh, 
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
45
họ không phải chịu thuế. Cần xem 
lại quy định này vì vốn dĩ công cụ 
phái sinh mang bản chất phòng 
ngừa rủi ro để tối đa hoá lợi nhuận 
chứ không phải để kiếm lợi. 
Xem xét và điều chỉnh các 
chuẩn mực kế toán: hệ thống 
chuẩn mực kế toán VN còn thiếu 
các chuẩn mực tương đồng với các 
chuẩn mực kế toán quốc tế về công 
cụ tài chính. Việc thiếu vắng các 
tiêu chuẩn kế toán chất lượng cao 
để ghi nhận, đánh giá giá trị công 
cụ tài chính nói chung và công cụ 
tài chính phái sinh nói riêng sẽ ảnh 
hưởng nghiêm trọng đến việc xác 
định kết quả tài chính, đến quản trị 
rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Về phương tiện, thiết bị
Ngoài những phương tiện, thiết 
bị hiện có của Reuters, Metastock,... 
các ngân hàng thương mại cần trang 
bị thêm phần mềm xử lý, quản lý rủi 
ro và tính phí đối với các nghiệp vụ 
phái sinh. Ngân hàng cần mở rộng 
quan hệ hợp tác với các ngân hàng 
nước ngoài trên thị trường quốc tế, 
để tranh thủ sự hỗ trợ về kiến thức, 
về hệ thống phân tích quản lý rủi ro 
đối với các công cụ phái sinh.
Các ngân hàng cần thiết lập và 
hoàn thiện quy trình quản lý rủi ro 
lãi suất.
Quy trình quản lý rủi ro lãi suất 
là một nội dung quan trọng trong nội 
dung quản lý rủi ro lãi suất của bất 
kỳ ngân hàng nào, đó là việc ngân 
hàng nhận diện rủi ro, đo lường 
rủi ro, thiết lập hệ thống kiểm soát 
do đó hoàn thiện quy trình quản lý 
rủi ro cho phù hợp với thực tại của 
chính ngân hàng mình là một giải 
pháp cấp thiết giúp ngân hàng quản 
lý rủi ro lãi suất hiệu quả.
Về nguồn nhân lực 
Ngân hàng cần lựa chọn và đào 
tạo các cán bộ ngân hàng có kiến 
thức chuyên sâu về quản lý rủi ro 
lãi suất: Phải thực sự am hiểu về 
quản lý tài sản – nguồn vốn và có 
kiến thức vững vàng về tài chính 
thì các cán bộ ngân hàng mới có 
thể tính toán và đánh giá được 
tổn thất của rủi ro lãi suất đến thu 
nhập ròng cũng như giá trị tài sản 
của ngân hàng. Trình độ hiểu biết 
về các nghiệp vụ phái sinh như 
hợp đồng kỳ hạn, tương lai, quyền 
chọn, hoán đổi ; các kỹ thuật 
giao dịch, kiến thức về thị trường 
tài chính cũng cần được trang bị 
và nâng cao dần cho đội ngũ nhân 
viên ngân hàng để họ có thể đề xuất 
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Xây dựng hệ thống thông tin, kế 
toán thống kê vững mạnh, chuyên 
nghiệp 
Để đo lường chính xác rủi ro 
lãi suất cần phải có số liệu thống 
kê đầy đủ và chi tiết về danh mục 
tài sản Nợ, tài sản Có. Trong từng 
khoản mục, số liệu về thời gian còn 
lại, lãi suất đầu vào/đầu ra, giá trị 
của các luồng tiền thanh toán/thu 
vào ứng với từng kỳ hạn là hết 
sức cần thiết đối với công tác lượng 
hóa rủi ro. Do đó, ngân hàng phải 
có kế hoạch tổ chức tốt công tác 
kế toán – thống kê thống nhất và 
thường xuyên trong toàn hệ thống 
của mình.
7. Kết luận
Lãi suất không chỉ ảnh hưởng 
đến lợi nhuận, đến thu nhập của 
bản thân mỗi NHTM mà còn tác 
động đến hoạt động, đến sự an 
toàn của cả hệ thống NHTM, tác 
động đến nền kinh tế nói chung, 
vì vậy cần có biện pháp để quản lý 
tốt nhất, nhằm hạn chế những rủi 
ro có thể xảy ra mỗi khi lãi suất 
biến động, trong đó việc sử dụng 
các công cụ phái sinh trong quản 
trị rủi ro lãi suất là giải pháp cần 
thiết. Tuy nhiên, để các góp ý trên 
trở thành hiện thực thì ngoài sự nỗ 
lực, cố gắng của các NHTM vẫn 
không thể thiếu sự hỗ trợ tích cực 
từ phía chính phủ và NHNN trong 
định hướng, trong việc ban hành 
các chính sách, chế độ và cả trong 
điều hànhl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo của NHNN; một số NHTM.
Một số trang Web: vneconomy.vn; 
vietnamnet.vn; taichinh.vnexpress.
net
TCNH, TCCNNH, TC thị trường TCTT
Trần Thị Minh Tuyền, “Rủi ro lãi suất trong 
hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân 
hàng ngân hàng thương mại VN giai 
đoạn từ cuối năm 2007 đến đầu năm 
2011” (2012)

File đính kèm:

  • pdfung_dung_cac_cong_cu_phai_sinh_trong_quan_tri_rui_ro_lai_sua.pdf