Tỷ lệ vận chuyển không an toàn, tử vong trước 24 giờ nhập viện ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
Vận chuyển không an toàn và tỷ lệ tử vong là vấn đề cần được quan tâm trong vận chuyển cấp cứu đặc biệt đối với các trường hợp chuyển tuyến. Bệnh nhi chuyển tuyến thường là bệnh nặng. Các Bệnh viện tuyến tỉnh không đủ khả năng điều trị, bên cạnh đó cần có những trang thiết bị, kỹ thuật đặc thù.
Nhằm tìm ra giảm pháp giảm tỷ lệ vận chuyển không an toàn, giảm tỷ lệ tử vong ở các trường hợp vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ Bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013.
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ vận chuyển không an toàn, tử vong trước 24 giờ nhập viện ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ vận chuyển không an toàn, tử vong trước 24 giờ nhập viện ở các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2013
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn212 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TỶ LỆ VẬN CHUYỂN KHÔNG AN TOÀN, TỬ VONG TRƯỚC 24 GIỜ NHẬP VIỆN Ở CÁC TRƯỜNG HỢP CHUYỂN TUYẾN CẤP CỨU TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2013 Lê Bá Tuấn1, Lê Thanh Hải1, Phạm Ngọc Toàn1, Đỗ Mạnh Hùng1 TÓM TẮT NGHIÊN CỨU Vận chuyển không an toàn và tỷ lệ tử vong là vấn đề cần được quan tâm trong vận chuyển cấp cứu đặc biệt đối với các trường hợp chuyển tuyến. Bệnh nhi chuyển tuyến thường là bệnh nặng. Các Bệnh viện tuyến tỉnh không đủ khả năng điều trị, bên cạnh đó cần có những trang thiết bị, kỹ thuật đặc thù. Nhằm tìm ra giảm pháp giảm tỷ lệ vận chuyển không an toàn, giảm tỷ lệ tử vong ở các trường hợp vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ Bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy: - Tỷ lệ vận chuyển không an toàn là 34,6%, tử vong 24 giờ đầu nhập viện 10,2%. - Nguy cơ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở trẻ sơ sinh cao gấp 573,17 lần trẻ trên 1 tháng tuổi (p<0,001). Nguy cơ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở trẻ sơ sinh non yếu tử vong 24 giờ đầu cao gấp 10,67 lần trẻ sơ sinh thường (p<0,05). - Nguy cơ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở trẻ vận chuyển không an toàn cao gấp 12,19 lần trẻ vận chuyển an toàn (p<0,001). Từ khóa: Vận chuyển không an toàn; tử vong 24h; nguy cơ tử vong.v ABSTRACT PERCENTAGE OF UNSAFE PATIENT TRANSPORT AND MORTALITY RATE WITHIN 24 HOURS OF ADMISSION IN EMERGENCY TRANSPORT CASES AT VIETNAM NATIONAL CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013 It is important to consider unsafe transport and mortality rate in emergency transport, especially in cases of referral transport. Referred patients are those who have severe condition which cannot be treated at provincial hospitals. In order to find out the solution to unsafe patient transport and reduce mortality rate in emergency transport, we carry out a cross-sectional study on 410 patients referred from provincial hospitals to Vietnam National Children’s Hospital in 2013. The result shows that: - The rate of unsafe patient transport is 34,6%, mortality rate within 24 hourse of admission is 10,2%. - Motarlity risk within 24 hours of admission in neonates is 573,17 times higher than that in infants above 1 month old (p<0,001). Motarlity risk within 24 hours of admission in immature neonates is 10,67times higher than that in normal children (p<0,05). - Motarlity risk within 24 hours of admission in unsafe patient transport is 12,19 times higher than that in safe transport (p<0,001). Keywords: Unsafe transport, motarlity within 24 hours, motarlity risk. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Khilnani P. và cộng sự [2008], vận chuyển bệnh nhân nhi nặng một cách an toàn đang là vấn đề toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Ấn Độ và Nam Phi. Một nước lớn như Ấn Độ, vấn đề vận chuyển này còn rất phức tạp và còn trong giai đoạn sớm của sự phát triển [8]. Duke T., 2003 cho rằng vận chuyển bệnh nhi nặng là một vấn đề toàn cầu bị lãng quên [7]. Đối với các trường hợp vận chuyển chuyển tuyến bệnh nhi thường là những trường hợp bệnh rất nặng, nguy cơ tử vong cao. Thông thường các bệnh viện tuyến tỉnh không đủ khả năng điều trị và phải chuyển lên các bệnh viện tuyến trung ương. Quá trình vận chuyển bệnh nhi đòi hỏi có những trang thiết bị, kỹ thuật riêng và khác biệt so với các bệnh nhân là người lớn tuổi. Theo Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2], tỷ lệ vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu không an toàn ở bệnh nhi 1. Bệnh viện Nhi Trung ương Ngày nhận bài: 10/02/2017 Ngày phản biện: 14/02/2017 Ngày duyệt đăng: 17/02/2017 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 213 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE tại bệnh Nhi đồng I là 27,8%, tỷ lệ tử vong trước 24 giờ là 3,3%. Bệnh viện Nhi Trung ương là bệnh viện tuyến đầu ngành về Nhi khoa của cả nước. Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ vận chuyển không an toàn và tỷ lệ tử vong trước 24 giờ nhập viện là cần thiết, qua đó đề xuất các biện pháp can thiệp. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân nặng từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương đến bệnh viện nhi Trung ương theo qui định của Bộ Y tế. 2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu: - Thời gian tiến hành nghiên cứu: Từ tháng 4/2013 đến 11/2013 - Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương. 3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích, nghiên cứu định lượng. 4. Cỡ mẫu nghiên cứu: Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức: )1()1( *)1( 2 )2/1( 2 2 )2/1( ppZNd NppZ n −+− − = − − α α N = 9.500: Kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013, do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5 đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp cứu từ Bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương. p = 27,8%=0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện thuộc tuyến trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2]. Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z) d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045 n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu, với các giá trị trên, thay số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứ là n=367 bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến hành nghiên cứu. Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 bệnh nhi vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các Bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện trung ương khác đến Bệnh viện Nhi Trung ương. 5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm EPIDAT, nhập liệu bằng phần mềm SPSS. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Biểu đồ 1.Tỷ lệ an toàn của vận chuyển cấp cứu An toàn, 65,4% Không an toàn, 34,6% An toàn là không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra khi vận chuyển. Kết quả nghiên cứu có 142 trường hợp vận chuyển không an toàn chiếm tỷ lệ 34,6%, số vận chuyển an toàn là 268 bệnh nhi chiếm 65,4%. Biểu đồ 2. Phân bố tử vong trong 24 giờ đầu Không, 89,8% Có, 10,2% Tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện có 42 trường hợp chiếm tỷ lệ 10,2%, số không tử vong là 368 trường hợp chiếm 89,8%. Bảng 1. Phân bố tử vong của sơ sinh trong 24 giờ đầu Yếu tố Tử vong Không Tổng p OR (95%CI)SL TL SL TL Phân loại trẻ Sơ sinh 38 86,4 6 13,6 44 <0,001 573,17 >1 tháng 4 1,1 362 98,9 366 [154,87;2121,18] Sơ sinh non yếu Có 32 94,1 2 5,9 34 0,018 10,67 Không 6 60,0 4 40,0 10 [1,58-71,91] (Sử dụng kiểm định Fisher's exact 2 phía vì có giá trị bảng nhỏ hơn 5) V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn214 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Bảng 2. Tử vong 24 giờ đầu theo tính an toàn trong vận chuyển cấp cứu Vận chuyển Tử vong Không Tổng p OR (95%CI)SL TL SL TL Không an toàn 35 24,6 107 75,4 142 <0,001 573,17 An toàn 7 2,6 261 97,4 268 [154,87;2121,18] TỔNG 42 10,2 368 89,8 410 Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ tử vong sơ sinh trong 24 giờ đầu là 86,4%, trong khi đó ở trẻ từ 1 tháng tuổi trở lên tỷ lệ tử vong là 1,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001); OR=573,17 [95%CI 154,87;2121,18]; Sơ sinh non yếu tử vong 24 giờ đầu chiếm đến 94,1%, trong khi trẻ sơ sinh thường tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu là 60%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), OR=10,67 [95%CI: 1,58-71,91]. Tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu ở nhóm trẻ được vận chuyển không an toàn là 24,6%, tử vong 24 giờ đầu nhóm vận chuyển an toàn là 2,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001), OR=12,19 [ 95%CI 5,25- 28,31] IV. BÀN LUẬN Tính an toàn là kết quả của quá trình vận chuyển chuyển tuyến bệnh nhi bao gồm tất cả các khâu từ can thiệp từ trước khi vận chuyển, xử trí khi có sự cố trong khi vận chuyển và tiếp nhận bệnh nhi. An toàn được xác định là không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra khi vận chuyển. Kết quả nghiên cứu có 142 trường hợp vận chuyển không an toàn chiếm tỷ lệ 34,6%, số vận chuyển an toàn là 268 bệnh nhi chiếm 65,4%. So sánh với kết quả nghiên cứu của Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] tại Bệnh viện Nhi đồng I đối với các trường hợp chuyển tuyến cấp cứu trên 701 bệnh nhi từ tháng 3.2001 đến tháng 2.2004 cho thấy có 506 trường hợp chiếm 72,2% chuyển viện an toàn (không phải cấp cứu khẩn cấp khi nhập viện hoặc không có biến cố xảy ra lúc chuyển viện), có 195 trường hợp chiếm 27,8% chuyển viện không an toàn. Theo Lê Thanh Hải và cộng sự [1] đánh giá 2 đợt, đợt I tháng 11/2007-3/2008, đợt 2 từ tháng 8/2009- 1/2010 đã đưa ra nhận định là hầu hết các trường hợp vận chuyển từ tuyến tỉnh đến khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương là không an toàn: không liên hệ trước khi chuyển, cán bộ y tế vận chuyển còn thiếu về số lượng, kiến thức thực hành cấp cứu nhi khoa thiếu, trang thiết bị cấp cứu trên xe cứu thương chưa đầy đủ, còn để bệnh nhân tử vong trên đường vận chuyển và đến khoa cấp cứu trong tình trạng các dấu hiệu sống không ổn định. Thực tế, tính an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhân lực vận chuyển, trang thiết bị và tình trạng sức khỏe của bệnh nhi. Trong khi đó, hầu hết các bệnh nhi khi chuyển tuyến là những bệnh nhi mà các bệnh viện tuyến dưới không có đủ trang thiết bị, kỹ thuật điều trị hoặc người thân của bệnh nhi không tin tưởng. Do vậy, sự an toàn trong chuyển tuyến cấp cứu không có nghĩa hoàn toàn là do sự yếu kém về trang thiết bị hay nhân lực, tuy vậy trang thiết bị và nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến tính an toàn khi vận chuyển. Trong công tác cấp cứu nhi, giảm tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện là vấn đề đang được quan tâm và sự tìm kiếm giải pháp hiệu quả vẫn là bài toán nan giải. Nghiên cứu của chúng tôi cũng mong muốn góp phần đánh giá thực trạng vấn đề và tìm ra giải pháp trong việc giảm tử vong trong cấp cứu Nhi khoa. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tử vong trong 24 giờ đầu nhập viện có 42 trường hợp chiếm tỷ lệ 10,2%, số không tử vong là 368 trường hợp chiếm 89,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều khi so sánh với tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [2] cũng với đối tượng bệnh nhi chuyển tuyến, kết quả nghiên cứu có 23 bệnh nhân chiếm 3,3% chết trong vòng 24 giờ, trong số đó có 11 bệnh nhân tử vong trong 6 giờ đầu. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn khi so sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Thị Nga và cộng sự tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên [5] đối với các trường hợp bệnh nhi nặng trong 24 giờ đầu, tỷ lệ tử vong là 21%. Như vậy, cùng là tuyến trung ương, tuy nhiên tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tỷ lệ của Bệnh viện Nhi Đồng I và thấp hơn ở Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên [2][5]. Phân tích đặc điểm đối tượng tử vong trong 24 giờ là cần thiết, qua đó xác định được các nhóm có nguy cơ cao trong tử vong 24 giờ nhập viện, từ đó có thể đưa ra các giải pháp can thiệp hữu hiệu trên các nhóm đối tượng nguy cơ cao là điều cần thiết. Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ tử vong sơ sinh trong 24 giờ đầu là 86,4%, trong khi đó ở trẻ từ 1 tháng tuổi trở lên tỷ lệ tử vong là 1,1%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001), nguy cơ tử vong 24 giờ đầu ở nhóm trẻ sơ sinh cao gấp 573,17 lần so với trẻ trên 1 tháng tuổi (OR=573,17 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 215 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 95%CI 154,87;2121,18). Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nhiều khi so sánh với nghiên cứu của tác giả Lê Thị Nga và cộng sự [5] tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, trong đó tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu trẻ sơ sinh là 66%. Tác giả Phan Thị Thanh Huyền và Nguyễn Thành Đạt [6] nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi đồng II cho thấy các trường hợp tim ngừng thở trước nhập viện, đối tượng là trẻ sơ sinh chiếm tỷ lệ cao nhất với 36,7%. Theo tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [1] có khoảng 2/3 (2 lần đánh giá với tỷ lệ lần lượt là 65% và 70%) số bệnh nhân chuyển viện ở lứa tuổi sơ sinh, điều đó chứng tỏ rằng cấp cứu sơ sinh tuyến dưới còn yếu và thiếu, nhiều bệnh viện chưa có khoa sơ sinh hoặc có chỉ là hình thức, nhiều bệnh viện tỉnh có tổ chức phòng cấp cứu sơ sinh riêng nhưng chưa đầy đủ, nó cũng giải thích nguyên nhân quá tải bệnh nhân sơ sinh ở các tuyến trên. Mặt khác, trong nghiên cứu của chúng tôi khi phân tích sơ sinh non yếu tử vong 24 giờ đầu chiếm đến 94,1%, trong khi trẻ sơ sinh thường tỷ lệ tử vong24 giờ đầu là 60%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05), OR=10,67 [95%CI 1,58-71,91]. Thông thường, sức khỏe trẻ sơ sinh phụ thuộc vào các điều kiện chăm sóc khi mang thai của các bà mẹ và các điều kiện y tế khi sinh con, việc chăm sóc sau sinh. Điều đó cho thấy công tác chăm sóc sinh sản và chăm sóc trong và sau sinh là vấn đề cần được quan tâm. Trong đó, trước tiên cần quan tâm dự phòng qua việc chăm sóc sức khỏe khi các bà mẹ mang thai, tiếp đó đảm bảo các điều kiện y tế trong quá trình sinh nở, cũng như sau sinh, và gia đình chăm sóc trẻ sau sinh tốt. Trong nghiên cứ của chúng tôi, kết quả phân tích tử vong 24 giờ đầu ở nhóm trẻ được vận chuyển không an toàn là 24,6%, tử vong 24 giờ đầu nhóm vận chuyển an toàn là 2,6%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Nguy cơ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở nhóm trẻ vận chuyển không an toàn cao gấp 12,19 lần so với nhóm trẻ vận chuyển an toàn (OR=12,19 95%CI 5,25- 28,31). Nguy cơ tử vong ở nhóm vận chuyển không an toàn trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn khi so sánh với kết quả nghiên cứu của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự tại Bệnh viện Nhi Đồng I [2], trong đó tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở nhóm trẻ được vận chuyển không an toàn là 11,3%, tỷ lệ tử vong 24 giờ đầu nhập viện ở nhóm trẻ được vận chuyển an toàn là 0,2%, p<0,0001 OR=64,2. Từ đó cho thấy nâng cao được chất lượng vận chuyển cấp cứu, nâng cao được tỷ lệ vận chuyển an toàn sẽ làm giảm được tỷ lệ tử vong trong 24 giờ, giảm các biến chứng và giúp trẻ mau hồi phục. V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết quả nghiên cứu trên 410 trường hợp bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu từ các Bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy tỷ lệ vận chuyển không an toàn là 34,6%, tử vong 24 giờ đầu nhập viện 10,2%. Trẻ tử vong chủ yếu là trẻ sơ sinh đặc biệt là trẻ sơ sinh non yếu, các trường hợp tử vong chủ yếu là các trường hợp vận chuyển không an toàn. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy cần có các biện pháp nâng cao chất lượng trong dịch vụ vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi nhằm nâng cao tỷ lệ vận chuyển an toàn, trong đó cần đầu tư các trang thiết bị kỹ thuật đặc thù cho trẻ sơ sinh, trẻ sinh non. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Y tế (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu Nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong trong 24h đầu ở tuyến tỉnh, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ - Chủ nhiệm đề tài Lê Thanh Hải. 2. Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tạp chí Y học thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121. 3. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-19. 4. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35 5. Lê Thị Nga và CS (2009), Đánh giá kết quả cấp cứu bệnh nhân nặng trong 24 giờ nhập viện tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, 51(3): 3-7. 6. Phan Thị Thanh Hiền và Nguyễn Thành Đạt (2007), Tình hình ngưng tim ngưng thở trước nhập viện tại khoa Cấp cứu lưu Bệnh viện Nhi đồng 2 từ năm 2004 - 2007, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, Tập 11, Phụ bản số 4, tr.74-78. 7. Duke, T., (2003) Transport of seriously ill children: a neglected global issue. Intensive care Med, 2003. 39: p. 1414-1416. 8. Praveen Khilnani and R.Chhabra (2008), Transport of critically ill children: How to utilize resourses in the developing world, Indian J Pediatr, 75(6), pp.591-598.
File đính kèm:
ty_le_van_chuyen_khong_an_toan_tu_vong_truoc_24_gio_nhap_vie.pdf

