Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo - Trực tràng ở phụ nữ mang thai 35 - 37 tuần và một số yếu tố liên quan

Đại cương

 Kể từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho đến nay, Streptococcus nhóm B (GBS) vẫn được xem là tác nhân hàng đầu gây bệnh lý nhiễm trùng sơ sinh (NTSS) sớm. Sự lây truyền dọc từ mẹ sang con có thể xảy ra khi thai phụ có nhiễm GBS âm đạo - Trực tràng vào thời điểm chuyển dạ hoặc ối vỡ, sự lây nhiễm này là yếu tố nguy cơ quan trọng của NTSS sớm, tần suất bệnh lý NTSS sớm do GBS khoảng 1,5 trường hợp trên 1000 trẻ sinh sống và tỷ lệ tử vong sơ sinh (SS) của bệnh lý nhiễm trùng này lên tới 50%.8 Bắt đầu từ giữa những năm 1980, nhiều thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu quan sát chứng minh rằng kháng sinh (KS) tiêm tĩnh mạch trong chuyển dạ ở phụ nữ mang thai có nhiễm GBS sẽ ngăn được nguy cơ truyền GBS cho trẻ sơ sinh (SS) và do đó có thể ngăn ngừa bệnh NTSS sớm

pdf 5 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo - Trực tràng ở phụ nữ mang thai 35 - 37 tuần và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo - Trực tràng ở phụ nữ mang thai 35 - 37 tuần và một số yếu tố liên quan

Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo - Trực tràng ở phụ nữ mang thai 35 - 37 tuần và một số yếu tố liên quan
9TỔNG QUAN Y VĂN 
Tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo - 
trực tràng ở phụ nữ mang thai 35 - 37 tuần và 
một số yếu tố liên quan 
Hồ Ngọc Sơn,* Vũ Thị Nhung** 
Đại cương 
Kể từ thập niên 70 của thế kỷ trước cho 
đến nay, Streptococcus nhóm B (GBS) vẫn 
được xem là tác nhân hàng đầu gây bệnh 
lý nhiễm trùng sơ sinh (NTSS) sớm. Sự 
lây truyền dọc từ mẹ sang con có thể xảy 
ra khi thai phụ có nhiễm GBS âm đạo - 
trực tràng vào thời điểm chuyển dạ hoặc ối 
vỡ, sự lây nhiễm này là yếu tố nguy cơ 
quan trọng của NTSS sớm, tần suất bệnh 
lý NTSS sớm do GBS khoảng 1,5 trường 
hợp trên 1000 trẻ sinh sống và tỷ lệ tử 
vong sơ sinh (SS) của bệnh lý nhiễm trùng 
này lên tới 50%.8 Bắt đầu từ giữa những 
năm 1980, nhiều thử nghiệm lâm sàng và 
nghiên cứu quan sát chứng minh rằng 
kháng sinh (KS) tiêm tĩnh mạch trong 
chuyển dạ ở phụ nữ mang thai có nhiễm 
GBS sẽ ngăn được nguy cơ truyền GBS 
cho trẻ sơ sinh (SS) và do đó có thể ngăn 
ngừa bệnh NTSS sớm . 
 Năm 1996, Trung tâm Kiểm soát và 
Phòng bệnh Hoa Kỳ (CDC), Hội Sản phụ 
khoa Hoa Kỳ (ACOG), Viện Hàn lâm Nhi 
khoa Hoa Kỳ (AAP) ban hành khuyến cáo 
về chiến lược dự phòng nhiễm GBS dựa 
vào các yếu tố nguy cơ ở các thai phụ. Số 
liệu từ những nghiên cứu quy mô lớn về 
tính hiệu quả của chiến lược dự phòng 
nhiễm GBS đã cho thấy sự giảm ngoạn 
mục của tần suất bệnh và tỷ lệ tử vong của 
bệnh lý NTSS sớm do GBS, giảm tỉ lệ 
truyền dọc từ mẹ qua con, giảm 21% tỷ lệ 
bệnh lý nhiễm trùng GBS ở thai phụ, giảm 
70% bệnh lý NTSS sớm.2 
__________________________________ 
*BV.Đa Khoa Khu Vực Nam Bình Thuận, Email: 
[email protected], DĐ: 0918082009 
** Hội Phụ sản TP HCM. Email: 
[email protected]. DĐ: 0903383005 
Chiến lược sử dụng KS dự phòng dựa vào 
kết quả của chương trình tầm soát GBS âm 
đạo - trực tràng ở thai phụ khi thai kỳ đạt 
35 – 37 tuần đã được áp dụng từ năm 
1996. Sau một thời gian áp dụng song 
song 2 chiến lược, những thử nghiệm có 
quy mô lớn đã được tiến hành và kết luận: 
chiến lược dự phòng NTSS do GBS dựa 
vào cấy khuẩn tầm soát cho hiệu quả cao 
hơn dựa vào các yếu tố nguy cơ. Đó là cơ 
sở để CDC đưa ra phiên bản thứ 2 về 
khuyến cáo sử dụng kháng sinh dự phòng 
năm 2002 nhằm tối ưu hóa tiêu chuẩn thai 
phụ nhận KS dự phòng. Tỷ lệ tử vong vì 
NTSS sớm do GBS ở Mỹ và các nước 
phương Tây giảm xuống còn 4% - 6%.3 
 Vào năm 2010, CDC cập nhật về 
khuyến cáo tầm soát, sử dụng KS dự 
phòng và được Tổ chức y tế thế giới 
(WHO) phổ biến như một chiến lược tầm 
soát mang tính toàn cầu.4 
Tại Việt Nam cũng đã có những nghiên 
cứu tầm soát tỷ lệ nhiễm GBS trong thai kỳ 
trên đối tượng vào chuyển dạ, ối vỡ non, 
sinh non nhưng cho thấy tính ứng dụng 
chưa cao. 
Các thay đổi của chiến lược phòng 
chống GBS của CDC 
Năm 1996 CDC đã ban hành khuyến cáo 
về chiến lược điều trị dự phòng nhiễm 
GBS dựa vào các yếu tố nguy cơ ở các thai 
phụ2 bao gồm: 
 Sinh non ≤ 37 tuần 
 Vỡ ối ≥ 18 giờ 
 Nhiễm trùng ối 
 Thai phụ sốt ≥ 38o C 
 Lần sinh trước trẻ bị NTSS sớm do GBS 
10
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017 
Từ năm 2002, hướng dẫn của CDC khuyến 
cáo nên sử dụng phương pháp cấy để tối 
ưu hóa việc xác định các thai phụ nên nhận 
được KS dự phòng trong chuyển dạ để 
phòng ngừa tích cực và chỉ những thai phụ 
nào không có kết quả cấy trước đó (không 
rõ tình trạng nhiễm GBS) mới áp dụng 
phương pháp phòng ngừa dựa vào yếu tố 
nguy cơ.3 
Năm 2010 CDC đã cập nhật lại hướng dẫn 
phòng chống NTSS sớm do GBS, có 1 số 
điểm quan trọng.4 
 Khuyến nghị sàng lọc GBS trước sinh 
cho tất cả các thai kỳ 35- 37 tuần để tối 
ưu hóa số thai phụ nhận được KS dự 
phòng khi chuyển dạ. 
 Thai phụ chưa biết nhiễm GBS tại thời 
điểm chuyển dạ sẽ được dự phòng dựa 
vào yếu tố nguy cơ. 
 Cập nhật phác đồ dự phòng dành cho 
thai phụ dị ứng với penicillin. 
 Hướng dẫn chi tiết về cách lấy mẫu 
XN và mở rộng các phương pháp XN 
xác định GBS, kể cả hướng dẫn về 
kháng sinh đồ. 
 Khuyến nghị không dùng KS dự phòng 
cho thai phụ nhiễm GBS khi mổ sinh 
mà chưa bắt đầu chuyển dạ, ối còn 
nguyên vẹn. 
 Cập nhật quản lý dự phòng ở thai phụ 
đe dọa sinh non. 
 Cập nhật xử trí phòng ngừa thứ cấp 
cho NTSS sớm do GBS. 
Đặc điểm vi sinh vật học 
GBS, hay còn gọi là Streptococcus 
agalactiae, là những vi khuẩn hình cầu 
hoặc hình bầu dục, đường kính trung bình 
0,6 – 0,8µm, bắt màu gram (+). Vi khuẩn 
xếp thành chuỗi vì phân chia trong mặt 
phẳng thẳng góc với trục của chuỗi. GBS 
có men hemolysin làm tan hoàn toàn hồng 
cầu, trên môi trường thạch máu, khúm vi 
khuẩn được bao quanh bởi một vòng tròn 
nhỏ trong suốt, có thể làm tan máu dưới 3 
hình thức α, β, γ tuỳ thuộc từng nhóm 
Streptococcus. 
 GBS bị cô lập có thể sống sót ở môi 
trường trong vài ngày ở nhiệt độ phòng. 
Tuy nhiên, sự phục hồi của các chủng 
giảm trong 1 - 4 ngày, đặc biệt ở nhiệt độ 
cao. Mẫu nên được lưu giữ ở 4°C trước 
khi cấy và xử lý trong vòng 24 giờ của 
mẫu thu thập.5 
 Các bệnh phẩm lấy từ âm đạo - trực 
tràng có chứa nhiều loại vi khuẩn khác 
nhau nên các KS trong môi trường cấy 
(Gentamicin và Axit Nalidixic hoặc 
Colistin) giúp loại trừ những loại vi khuẩn 
không phải là GBS. Chất dinh dưỡng trong 
môi trường cấy giúp GBS phát triển mạnh, 
từ đó làm tăng khả năng phát hiện của 
phương pháp cấy lên 50% so với cách cấy 
trực tiếp bệnh phẩm vào môi trường thạch 
máu8. Vì vậy, môi trường cấy như Tood 
Hewitt phù hợp cho mục tiêu tầm soát 
GBS. Lấy bệnh phẩm từ cả hai vị trí âm 
đạo – trực tràng cho kết quả phát hiện 
GBS cao hơn so với trường hợp chỉ lấy 
mẫu ở âm đạo, ở CTC hoặc quanh hậu 
môn 
Hình 1: Khúm Streptococcus agalactiae thạch máu 
Hình 2: Hình thể của vi khuẩn liên cầu dưới kính 
hiển vi x1000 
Nguồn : Microbiology inpicture.com 
11
TỔNG QUAN Y VĂN
Dịch tễ học 
 GBS chủ yếu sống ở đường tiêu hóa, âm 
đạo thường là nơi bị lây nhiễm. Có khoảng 
10% - 30% thai phụ bị nhiễm GBS trong 
âm đạo hoặc trực tràng. Nhiễm GBS trong 
thời kỳ mang thai có thể thoáng qua, từng 
đợt, hay kéo dài. Bị nhiễm GBS trong thai 
kỳ trước sẽ tăng nguy cơ nhiễm ở lần 
mang thai tiếp theo. Tỷ lệ nhiễm bệnh 
không triệu chứng ở phụ nữ mang thai 
thay đổi tùy thuộc vào dân số nghiên cứu, 
địa lý, kỹ thuật lấy bệnh phẩm, kỹ thuật 
nuôi cấy, đặc biệt trên nhiều môi trường 
trung gian hay chọn lọc. Tỷ lệ nhiễm GBS 
âm đạo - trực tràng cao nhất ở người da 
đen khoảng 30 – 40%.4 
Tầm soát nhiễm GBS trong thai kỳ 
Vì tình trạng nhiễm GBS có thể thay đổi 
trong quá trình mang thai. Do đó, thời gian 
tầm soát để xác định tình trạng nhiễm là 
rất quan trọng. Tình trạng nhiễm GBS có 
thể thoáng qua. Nhiễm sớm trong thai kỳ 
không phải là yếu tố tiên đoán của bệnh lý 
NTSS sớm do GBS. Trong khi đó, nhiễm 
GBS trong ba tháng cuối đã được sử dụng 
như là một tiên đoán cho nguy cơ lây 
nhiễm trong chuyển dạ. Giá trị dự báo âm 
của cấy GBS thực hiện ≤ 5 tuần trước khi 
sinh là 95% - 98%. Các giá trị tiên đoán 
lâm sàng giảm khi cấy trước khi sinh được 
thực hiện nhiều hơn 5 tuần vì sự sụt giảm 
giá trị tiên đoán âm. Các mẫu cấy mất thời 
gian từ 24 – 48 giờ để có kết quả nên 
không phù hợp cho việc khởi đầu điều trị 
KS dự phòng cho thai phụ trước sinh nếu 
tầm soát sau 37 tuần hay vào lúc chuyển 
dạ. Việc tiếp cận tầm soát các thai phụ 
nhiễm GBS ở âm đạo - trực tràng tốt nhất 
ở thời điểm 35 – 37 tuần của thai kỳ.6 
Mẫu XN lấy ở phần thấp âm đạo và trực 
tràng (thông qua cơ thắt hậu môn) làm tăng 
tỷ lệ đáng kể so với việc lấy mẫu ở âm đạo 
mà không lấy ở trực tràng. Một vài nghiên 
cứu đã kiểm tra kết quả nuôi cấy mẫu lấy 
quanh hậu môn hoặc âm đạo để phát hiện 
nhiễm GBS, các dữ liệu cho thấy mẫu cấy 
âm đạo - trực tràng cho tỷ lệ cao nhất.4 
Một số công trình nghiên cứu trong 
và ngoài nước về nhiễm GBS trong 
thai kỳ 
Nghiên cứu ngoài nước 
Năm 1981, Cregan J.A và cộng sự đã thực 
hiện một nghiên cứu hồi cứu về nhiễm 
GBS trên 6.706 thai phụ ở Hoa Kỳ và đã 
ghi nhận có sự gia tăng tần suất vỡ ối non 
và sinh non trước 32 tuần trong nhóm cấy 
GBS dương tính. Sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê với P < 0,05. Số liệu này cho 
thấy có mối liên quan giữa nhiễm GBS và 
sinh non.6 
 Nghiên cứu của Meyn L.A gồm 1.248 
phụ nữ trẻ cho thấy hoạt động tình dục là 
một yếu tố nguy cơ quan trọng liên quan 
tới nhiễm GBS.13 
 Tor - Udom S (2006), nghiên cứu tại 
BV Thammasat Thái Lan tiến hành để tìm 
mô hình kháng kháng sinh ở phụ nữ mang 
thai nhiễm GBS, 406 phụ nữ mang thai đã 
được kiểm tra GBS. Tỷ lệ nhiễm GBS là 
16%. Tất cả các thai phụ nhiễm GBS có 
kết quả kháng sinh đồ đều nhạy cảm với 
Ampicillin, Penicillin, Vancomycin. Tỷ lệ 
nhạy với Clindamycin (3%) và 
Erythromycin (1,5%).17 
 Nghiên cứu của Namavar B và cộng sự 
thực hiện năm 2008 trên 1.197 thai phụ có 
tuổi thai từ 24 – 37 tuần nhằm phát hiện 
tần suất nhiễm GBS âm đạo - trực tràng 
của các thai phụ, đồng thời so sánh những 
biến chứng của mẹ và trẻ SS giữa nhóm 
nhiễm GBS và nhóm không nhiễm GBS. 
Kết quả cho thấy có 36,3% thai phụ 
chuyển dạ sinh non trong nhóm nhiễm 
GBS so với 14,3% trong nhóm không 
nhiễm GBS, sự khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p = 0,001). Tần suất ối vỡ non và ối vỡ 
kéo dài > 18 giờ trong nhóm nhiễm GBS 
là 16,3% và 6,3% so với nhóm không 
nhiễm GBS là 6% và 0,5%, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với p = 0,001. Nghiên 
cứu này đã đưa ra mối liên quan giữa tình 
trạng nhiễm GBS với chuyển dạ sinh non 
và ối vỡ non.14 
 Nghiên cứu của Kwatra G (2014), cho 
12
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 17, Số 1, Tháng 1 – 2017
thấy phụ nữ mang thai ở Nam Phi có một 
tỷ lệ nhiễm cao GBS trực tràng - âm đạo 
có tuổi thai từ 20 tuần trở đi, và tỷ lệ 
nhiễm GBS cao nhất ở tam cá nguyệt 
cuối.10 
Nghiên cứu trong nước 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Khanh 
và cộng sự thực hiện tại Viện bảo vệ bà mẹ 
trẻ em từ năm 1998 - 2000, trên 602 thai 
phụ sống tại Hà Nội được cấy bệnh phẩm 
ở âm đạo, kết quả có 4,5% đối tượng 
nghiên cứu (ĐTNC) nhiễm GBS đường 
âm đạo.15 
 Theo nghiên cứu cắt ngang của Đỗ 
Khoa Nam (2006) trên 200 thai phụ được 
theo dõi chuyển dạ sinh và sinh tại phòng 
sinh BV Từ Dũ, tuổi thai từ 29 - 40 tuần 
(với nhóm thai kỳ trên 37 tuần chiếm đa 
số), tỷ lệ nhiễm GBS đường âm đạo - trực 
tràng là 17%, tỷ lệ truyền dọc từ mẹ sang 
con là 50%. Nghiên cứu cho thấy có mối 
liên quan giữa tỷ lệ nhiễm GBS âm đạo - 
trực tràng với nơi ở của thai phụ. Các dòng 
GBS kháng với nhiều loại KS nhưng vẫn 
còn rất nhạy với Augmentin, Cefazolin và 
Vancomycin.7 
 Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vĩnh 
Thành năm 2007 với cỡ mẫu 376 thai phụ 
đến khám thai tại bệnh viện Từ Dũ, được 
cấy khuẩn âm đạo - trực tràng ở tuổi thai 
35- 37 tuần, kết quả tỷ lệ nhiễm GBS là 
18,1%, tỷ lệ này có liên quan đến tuổi thai 
phụ (P= 0,015). Có 5,9% trẻ sơ sinh bị lây 
nhiễm GBS đường âm đạo - trực tràng của 
thai phụ bị nhiễm GBS sau khi đã được 
điều trị KS dự phòng theo phác đồ khi vào 
chuyển dạ, tỷ lệ nhiễm GBS ở trẻ sơ sinh 
phụ thuộc vào phương pháp sinh.16 
 Nghiên cứu của Bùi Thị Thu Hương 
(2010) xác định tỷ lệ nhiễm GBS âm đạo - 
trực tràng trên thai kỳ sinh non và một số 
yếu tố liên quan cho thấy tỷ lệ nhiễm GBS 
âm đạo - trực tràng trên thai kỳ non tháng 
từ 28 – 36 tuần 6 ngày là 17,5%, có liên 
quan giữa tỷ lệ nhiễm GBS âm đạo - trực 
tràng với khu vực cư trú của thai phụ, các 
đối tượng ở nội thành có tỷ lệ nhiễm GBS 
cao hơn. Trong số 41 trường hợp nhiễm 
GBS có 31 trường hợp bị vỡ ối sớm, trong 
số này có 3 thai phụ bị sốt lúc nhập viện và 
thời gian vỡ ối đều trên 12 giờ.1 
 Nghiên cứu của Hồ Ngọc Sơn trên 230 
thai phụ có tuổi thai từ 35 – 37 tuần tại BV 
đa khoa Khu vực nam Bình Thuận từ tháng 
9/2015 đến tháng 3/2016 cho thấy tỷ lệ 
nhiễm GBS âm đạo - trực tràng ở các thai 
phụ là 17,8%, trong đó nhiễm liên quan 
với vị trí âm đạo là 6,1% và liên quan với 
vị trí trực tràng là 16,9%. Phân tích đa biến 
cho thấy tỷ lệ nhiễm GBS liên quan có ý 
nghĩa thống kê với biểu hiện lâm sàng 
viêm âm đạo của thai phụ (OR = 42,7, 
KTC 95%: 5,6-332,4 - p = 0,001) GBS 
nhạy cảm cao với các kháng sinh: 
Augmentine, Vancomycine. Nhạy cảm trung 
bình với Penicillin, Ampicillin. GBS 
kháng cao với kháng sinh Erythromycin, 
Clindamycin 
Kết luận 
 Kháng sinh dự phòng dựa vào cấy tầm 
soát GBS dịch âm đạo - trực tràng cho 
thấy mang lại hiệu quả tích cực. Trong 
điều kiện chưa tầm soát được bằng cấy 
dịch âm đạo - trực tràng, nên dùng kháng 
sinh dự phòng dựa vào yếu tố nguy cơ 
nhằm giảm tỷ lệ nhiễm trùng sơ sinh sớm. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bùi Thị Thu Hương (2010), “Tỷ lệ nhiễm 
Streptococcus nhóm B âm đạo-trực tràng trên 
thai kỳ sinh non và một số yếu tố liên quan”, 
Luận văn Tốt nghiệp Thạc sĩ Y học, Đại học Y 
Dược TP.HCM. 
2. CDC (1996). Prevention of perinatal group B 
streptococcal disease: a public health 
perspective, MMWR, Vol 45. 
3. CDC (2002), Prevention of perinatal group B 
streptococcal disease: revised guidelines from 
CDC, MMWR, Vol 51: 1-22. 
4. CDC (2010), Sexually transmitted diseases 
treatment guidelines, MMWR Vol 59: 18-36. 
5. Colicchia L.C, Lauderdale D.S, Du H et al 
(2015), Recurrence of group B Streptococcus 
colonization in successive pregnancies, J 
Perinatol, Vol 35: 173. 
6. Cregan J.A, Chao S, James L.S (1981), 
Premature rupture of membrane, preterm 
delively and group B Streptococcal colonization 
of mother, Am J Obestet Gynecol, Vol 141: 
184- 186. 
13
TỔNG QUAN Y VĂN
7. Đỗ Khoa Nam, Nguyễn Duy Tài (2007), Tỷ lệ 
nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo- trực 
tràng của các thai phụ và một số yếu tố liên 
quan, Tạp chí Y học TP.HCM, Tập 11, Phụ bản 
số 1, Tr: 209-213. 
8. Fairlie T, Zell E.R, Schrag S (2013), 
Effectiveness of intrapartum antibiotic 
prophylaxis for prevention of early-onset group 
B streptococcal disease, Obstet Gynecol, Vol 
121:570. 
9. Kovavisarach E, Ying W.S, Kanjanahareutai S 
(2007), Risk factors related to group B 
streptococcal colonization in pregnant women 
in labor, J Med Assoc Thai, Vol 90(7): 1287-
1379. 
10. Kwatra G, Adrian P.V, Shiri T, Buchmann E.J, 
Cutland C.L, Madhi S.A (2014), Serotype-
specific acquisition and loss of group B 
Streptococcus recto-vaginal colonization in late 
pregnancy, PLoS One, Vol 9 (6), p. e98778, 
PubMed PMID: 24979575, Pubmed Central 
PMCID: 4076185 
11. Kwatra G, Madhi S.A, Cutland C.L, Buchmann 
E.J, Adrian P.V (2013), Evaluation of Trans-
Vag broth, colistin-nalidixic agar, and 
CHROMagar StrepB for detection of group B 
Streptococcus in vaginal and rectal swabs from 
pregnant women in South Africa, J Clin 
Microbiol, Vol 51 (8): 2515–2519. 
12. McCracken G.H (1973), Group B streptococci: 
The new challenge in neonatal infections, J 
Pediatr, Vol 82: 703- 709. 
13. Meyn L.A, Moore D.M, Hillier S.L, Krohn M.A 
(2002), Association of sexual activity with 
colonization and vaginal acquisition of group B 
Streptococcus in nonpregnant women, Am J 
Epidemiol, Vol 155(10): 949-1006. 
14. Namavar B et al (2008), The premalence and 
adverse Effects of group B Streptococcal 
Colonization during Pregnancy, Iranian 
Medicin, Vol 11(6): 654- 657. 
15. Nguyễn Thị Ngọc Khanh (2001), “Nhiễm khuẩn 
đường sinh dục ở phụ nữ có thai tại Hà Nội”, 
Tạp Chí Y học thực hành, Số 42, Tr.67- 70. 
16. Nguyễn Thị Vĩnh Thành, Ngô Thị Kim Phụng 
(2009), “Tỷ lệ thai phụ nhiễm liên cầu khuẩn 
nhóm B tại bệnh viện Từ Dũ”, Tạp chí Y học 
TP.HCM, Tr: 82-86. 
17. Tor-Udom S, Tor-Udom P, Hiriote W (2006), 
The prevalence of streptococcus agalactiae 
(group B) colonization in pregnant women at 
Thammasat Hospital, J Med Assoc Thai, Vol 
89(4): 411-415. 

File đính kèm:

  • pdfty_le_nhiem_streptococcus_nhom_b_am_dao_truc_trang_o_phu_nu.pdf