Tỷ lệ nghiện facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai

Giới thiệu: Tại Việt Nam, có 57% dân số đang sử dụng Facebook, là một trong mười quốc gia có số người

sử dụng Facebook nhiều nhất (2018). Sử dụng Facebook quá mức có thể gây tác động bất lợi đến sức khỏe.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nghiện Facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành

phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai năm 2019.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với phương pháp lấy mẫu cụm phân tầng

năm 2019. Khảo sát 864 học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh bằng bộ câu hỏi tự điền để thu

thập dữ kiện. Thang đo Thai – BFAS được sử dụng để đánh giá nghiện Facebook ở học sinh trung học phổ thông

với điểm cắt đoạn là 12 điểm. Mô hình hồi qui đa biến được dùng để phân tích mối liên quan giữa nghiện

Facebook và các yếu tố liên quan.

Kết quả: Trong số 763 học sinh tham gia nghiên cứu, có 22,2% học sinh trung học phổ thông bị nghiện

Facebook. Sau khi phân tích, nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa nghiện Facebook và thời gian trung

bình /lần học sinh sử dụng Facebook ≥2 giờ (PR=2,01; KTC95% 1,35–3,01), số lượng bạn bè trên Facebook

>500 (PR=2,03; KTC95% 1,37–3,01) và sự quan tâm của mẹ đối với con cái (PR=0,63; KTC95% 0,47–0,85)

với p <>

Kết luận: Tình trạng nghiện Facebook trở nên khá phổ biến ở học sinh THPT. Cần thiết có những chương

trình can thiệp tại học đường và gia đình nhằm hạn chế việc sử dụng Facebook ở học sinh đồng thời, đặc biệt là

vai trò của người mẹ trong việc quan tâm chăm sóc đến con nhiều hơn có thể là biện pháp dự phòng hữu hiệu.

pdf 8 trang phuongnguyen 300
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ nghiện facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ nghiện facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai

Tỷ lệ nghiện facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 90
TỶ LỆ NGHIỆN FACEBOOK VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở 
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
TẠI THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI 
Trần Huỳnh Ngọc Ý*, Trương Thị Thùy Dung**, Trịnh Thị Hoàng Oanh* 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: Tại Việt Nam, có 57% dân số đang sử dụng Facebook, là một trong mười quốc gia có số người 
sử dụng Facebook nhiều nhất (2018). Sử dụng Facebook quá mức có thể gây tác động bất lợi đến sức khỏe. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nghiện Facebook và các yếu tố liên quan ở học sinh trung học phổ thông tại thành 
phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai năm 2019. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với phương pháp lấy mẫu cụm phân tầng 
năm 2019. Khảo sát 864 học sinh trung học phổ thông tại thành phố Long Khánh bằng bộ câu hỏi tự điền để thu 
thập dữ kiện. Thang đo Thai – BFAS được sử dụng để đánh giá nghiện Facebook ở học sinh trung học phổ thông 
với điểm cắt đoạn là 12 điểm. Mô hình hồi qui đa biến được dùng để phân tích mối liên quan giữa nghiện 
Facebook và các yếu tố liên quan. 
Kết quả: Trong số 763 học sinh tham gia nghiên cứu, có 22,2% học sinh trung học phổ thông bị nghiện 
Facebook. Sau khi phân tích, nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa nghiện Facebook và thời gian trung 
bình /lần học sinh sử dụng Facebook ≥2 giờ (PR=2,01; KTC95% 1,35–3,01), số lượng bạn bè trên Facebook 
>500 (PR=2,03; KTC95% 1,37–3,01) và sự quan tâm của mẹ đối với con cái (PR=0,63; KTC95% 0,47–0,85) 
với p <0,001. 
Kết luận: Tình trạng nghiện Facebook trở nên khá phổ biến ở học sinh THPT. Cần thiết có những chương 
trình can thiệp tại học đường và gia đình nhằm hạn chế việc sử dụng Facebook ở học sinh đồng thời, đặc biệt là 
vai trò của người mẹ trong việc quan tâm chăm sóc đến con nhiều hơn có thể là biện pháp dự phòng hữu hiệu. 
Từ khóa: nghiện, nghiện Facebook, học sinh trung học phổ thông 
ABSTRACT 
PREVALENCE OF FACEBOOK ADDICTION AND RELATED FACTORS AMONG HIGH SCHOOL 
STUDENTS AT LONG KHANH CITY, DONG NAI PROVINCE 
Tran Huynh Ngoc Y, Truong Thi Thuy Dung, Trinh Thi Hoang Oanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 90 - 97 
Backgrounds: In Vietnam, 57% of the population is using Facebook, which is one of the 10 countries with 
the highest number of Facebook users (2018). Excessive use of Facebook can have adverse health effects. 
Objectives: Determine the prevalence of Facebook addiction and related factors in high school students in 
Long Khanh city, Dong Nai province in 2019. 
Methods: Cross-sectional study with stratified cluster sampling method in 2019. Survey of 864 high school 
students in Long Khanh City using a self-administrated questionnaire to collect data. The Thai Scale - BFAS was 
used to evaluate Facebook addiction in high school students with a cut-off point of 12. The multivariate regression 
model was used to analyze the relationship between Facebook addiction and related factors. 
Results: Of the 763 students participating in the study, 22.2% of high school students were addicted to 
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: CN. Trần Huỳnh Ngọc Ý ĐT: 0963151943 Email:[email protected] 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 91
Facebook. After analysis, the study found a relationship between Facebook addiction and the average time/student 
using Facebook ≥2 hours (PR=2.01; KTC95% 1.35 - 3.01), the number of friends on Facebook >500 (PR=2.03; 
95% CI 1.37 - 3.01) and maternal attention to children (PR=0.63; CI 95% 0.47 - 0.85) with p <0.001. 
Conclusions: Facebook addiction become quite popular in high school students. It is necessary to have 
interventions at school and at home to limit the use of Facebook in students at the same time, especially the role of 
the mother in caring more about the children, which can be a preventive measure effective. 
Keywords: addiction, Facebook addiction, high school students 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Facebook là trang mạng xã hội phổ biến nhất 
hiện nay. Theo thống kê của Công ty Facebook 
(2019), hiện có 2,41 tỷ người đang sử dụng 
Facebook(1), chiếm 69,3% số người sử dụng các 
trang mạng xã hội, trung bình 1 năm Facebook 
tăng khoảng 200 triệu người sử dụng trên toàn 
thế giới(1,2). Việt Nam có hơn 57% dân số đang sử 
dụng Facebook, là 1 trong 10 nước có số người 
sử dụng Facebook nhiều nhất (2018)(3). 
Trên thế giới, có khoảng 38,5% đến 47% 
người bị nghiện Facebook(4,5,6,7) và 21,9-38,5% 
người nghiện Facebook bị trầm cảm(4,8). Ngoài ra, 
có đến 71,5% người sử dụng Facebook phàn nàn 
về sự thay đổi tâm trạng của mình, 52,6% người 
cáu gắt vì bị làm phiền khi đang sử dụng 
Facebook(8). Đã có nghiên cứu chứng minh rằng 
nếu thời gian sử dụng tăng lên 1 giờ thì nguy cơ 
nghiện Facebook tăng 1,12 lần(9,10). 
Tuy nhiên, các nghiên cứu hầu hết chỉ tập 
trung đánh giá tỷ lệ sử dụng Facebook và tiến 
hành nghiên cứu trên đối tượng sinh viên và 
người trưởng thành, mà chưa xem xét tỷ lệ 
nghiện Facebook ở đối tượng học sinh trung học 
phổ thông (THPT), một đối tượng có tỷ lệ sử 
dụng Facebook khá lớn(6,11,12). Thành phố Long 
Khánh là nơi có nền kinh tế đang phát triển, dân 
số trẻ, tỷ lệ học sinh THPT tương đối cao(13,14,15). 
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục 
đích xác định tỷ lệ nghiện Facebook ở học sinh 
THPT và các yếu tố liên quan. Chúng tôi hy 
vọng có thể góp thêm y văn về các yếu tố liên 
quan đến nghiện Facebook của học sinh THPT 
tại Việt Nam nói chung và thành phố Long 
Khánh nói riêng. Đồng thời, giúp phụ huynh có 
giải pháp hợp lý để giúp những học sinh đang 
sử dụng Facebook cải thiện mức độ sử dụng 
Facebook của mình và sử dụng Facebook hiệu 
quả hơn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chúng tôi tiến hành thực hiện trên 763 học 
sinh đang sử dụng Facebook tại 7 trường 
THPT trên địa bàn thành phố Long Khánh, 
tỉnh Đồng Nai trong thời gian nghiên cứu từ 
tháng 4 –5/2019. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Phương pháp chọn mẫu 
Nghiên cứu sử dụng công thức tính cỡ mẫu 
ước lượng 1 tỷ lệ với tỷ lệ nghiện Facebook ở học 
sinh THPT là 41,8%(10); sai số cho phép d=0,05; 
xác suất sai lầm loại 1 =0,05 và hệ số thiết kế 
nghiên cứu là 2. Cỡ mẫu tính được là 750 học 
sinh. Dự trù mất mẫu là 15% nên cỡ mẫu cuối 
cùng là 864 học sinh. 
Sử dụng phương pháp chọn mẫu cụm phân 
tầng (tầng là khối lớp, đơn vị cụm là lớp), cụm 
được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ 
thống. Thông qua 3 bước: 
Bước 1 
Tổng hợp số lớp và phân tầng theo khối lớp. 
Bước 2 
Chọn cụm theo phương pháp chọn cụm 
ngẫu nhiên hệ thống. 
Khoảng cách lấy mẫu (k) = Tổng số lớp/Số 
lớp cần lấy mẫu = 166/22= 7,55. 
Khối lớp 10 được chọn ngẫu nhiên với con số 
ngẫu nhiên đầu tiên là số 3 cụm tiếp theo là 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 92
x+(n-1)k = 3+7= 10 và các cụm tiếp theo được 
chọn theo cách tương tự. 
Tương tự cho khối lớp 11 và lớp 12 (Bảng 1). 
Bước 3 
Chọn đối tượng là tất cả học sinh trong lớp 
hiện đang sử dụng Facebook để tiến hành 
khảo sát. 
Bảng 1: Phân bố mẫu cho từng khối lớp 
Khối lớp Tổng số lớp Tổng số học sinh 
Số học sinh cần 
lấy mẫu 
Số lớp cần lấy 
mẫu 
Số lớp chọn ngẫu 
nhiên 
Khoảng cách 
mẫu 
Khối 10 59 2357 (36,1%) 312 8 3 7 
Khối 11 53 2063 (31,6%) 273 7 7 7 
Khối 12 54 2108 (32,3%) 279 7 4 7 
Tổng cộng 166 6528 864 22 - - 
Thu thập số liệu 
Sau khi được cung cấp thông tin và đồng ý 
tham gia nghiên cứu thì học sinh sẽ xem bộ câu 
hỏi và nghiên cứu giải đáp thắc mắc vào 10 phút 
sinh hoạt đầu giờ, sau đó học sinh trả lời bộ câu 
hỏi tự điền. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi tự điền gồm 49 câu và được chia 
làm 3 phần cụ thể: 
Phần 1 
Đặc điểm nền của học sinh như khối lớp, 
buổi học, thành tích học tập, sống chung với gia 
đình, thói quen sinh hoạt và thói quen sử dụng 
Facebook. 
Phần 2 
Thang đo đánh giá sự quan tâm của ba mẹ 
đối với con cái (12 câu). Dựa trên thang đo Liên 
kết của bố mẹ (PBI – Parental Bonding 
Instrument) của Gordon Parker(16). Nghiên cứu 
đoàn hệ đánh giá độ tin cậy, tính ổn định của 
thang đo trong suốt 20 năm trên đối tượng thanh 
niên kết quả thang đo có tính tương đối ổn 
định(17,18). Câu hỏi được cho điểm theo thang đo 
Likert, gồm 4 mức độ: Rất đúng, gần đúng, hơi 
sai, rất sai. 
- Câu 1, 4, 5, 6, 7, 10 (gồm các câu hỏi thuộc 
của bố và mẹ) được tính điểm như sau: rất đúng 
(3), gần đúng (2), hơi sai (1), rất sai (0). 
- Các Câu 2, 3, 8, 9, 11, 12 (gồm các câu hỏi 
thuộc của bố và mẹ) được tính điểm rất đúng (0), 
gần đúng (1), hơi sai (2), rất sai (3). 
- Sự quan tâm của ba là có (Nếu PBI sự quan 
tâm của ba ≥24 điểm) và không (Nếu PBI sự 
quan tâm của ba <24 điểm). 
- Đối với sự quan tâm của mẹ là có (Nếu PBI 
sự quan tâm của mẹ ≥27 điểm) và không (Nếu 
PBI sự quan tâm của mẹ <27 điểm). 
Phần 3 
Thang đo đánh giá nghiện Facebook (6 
câu). Dựa trên công cụ đánh giá nghiện 
Facebook của Bergen theo tiếng Thái Lan 
(Thai-BFAS – Thai Lan-Bergen Facebook 
Addiction Scale) được chuẩn hóa từ thang đo 
BFAS (Cronbach’s Alpha =0,81)(19). 
Câu hỏi được cho điểm theo thang đo 
Likert, gồm 5 mức độ: (0) rất hiếm khi, (1) 
hiếm khi, (2) thỉnh thoảng, (3) thường xuyên, 
(4) rất thường xuyên. 
Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng điểm 
cắt Thai – BFAS ≥12 điểm. Học sinh nghiện 
Facebook là Có (Nếu Thai – BFAS ≥12 điểm) và 
Không (Nếu Thai – BFAS <12 điểm). Điểm cắt 
này đã được khuyến nghị và tiến hành nghiên 
cứu trên đối tượng học sinh trung học phổ thông 
tại Thái Lan và được đánh giá độ tin cậy(20). 
Xử lý số liệu 
Nghiên cứu thu được 889 phiếu khảo sát 
trong đó có 126 (14,2%) không thỏa tiêu chí và bị 
loại ra khỏi nghiên cứu, bao gồm 92 phiếu của 
học sinh không trả lời đầy đủ phần đánh giá 
nghiện Facebook (6 câu) và 34 phiếu của học 
sinh không sử dụng Facebook. 
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử 
lý, phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 14.2. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 93
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương để xác 
định mối liên quan giữa nghiện Facebook với 
đặc điểm cá nhân, thói quen sử dụng Facebook 
và sự quan tâm của ba mẹ đối với con cái. Độ 
lớn mối liên quan được tính bằng tỷ số tỷ lệ hiện 
mắc (PR – Prevalence ratio) với khoảng tin cậy 
95% (KTC 95%). Tiêu chí để báo cáo mối liên 
quan: p <0,05 là ngưỡng có ý nghĩa thống kê và 
khoảng tin cậy 95% không chứa 1 thể hiện mối 
liên quan chặt chẽ giữa các biến khảo sát. 
Mô hình hồi qui Poisson được sử dụng để 
phân tích đa biến. Chọn đưa những biến số 
tiềm năng (có p <0,2) vào mô hình đa biến. Sau 
đó, loại bỏ từ từ các biến số không ý nghĩa 
theo trình tự những biến số có p >0,05 từ lớn 
đến nhỏ. Mô hình đa biến cuối cùng gồm các 
biến số có p <0,05. 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 110/ĐHYD-HĐĐĐ 
ngày 26/3/2019. 
KẾT QUẢ 
Trong số 763 học sinh có sử dụng Facebook 
tại 7 trường THPT, đa số học sinh là nữ (59,1%). 
Học sinh lớp 10 chiếm tỷ lệ cao nhất (36,7%), học 
sinh đa số có học lực khá (50,7%) và học vào 
buổi sáng (47,8%). 
Học sinh hầu hết sống cùng ba mẹ (83,6%). 
Ba làm nông dân chiếm tỷ lệ cao nhất (32,2%), 
tỷ lệ thấp nhất là ba làm nhân viên nhà nước 
(5,6%). Mẹ chủ yếu buôn bán (26,0%), chiếm 
thấp nhất là mẹ làm công nhân (2,0%). Học 
sinh chủ yếu sử dụng Facebook bằng điện 
thoại (93,6%), sử dụng Facebook thường xuyên 
(68,7%) và có thói quen sử dụng Facebook 
trước khi đi ngủ (75,3%). Học sinh sử dụng 
nhiều nhất vào buổi tối (42,2%). Thời gian sử 
dụng phân phối không bình thường có trung 
vị là 60 phút và khoảng tứ phân vị lần lượt là 
30 phút và 120 phút. 
Bảng 2 cho thấy học sinh nhận được sự quan 
tâm của cả ba và mẹ chiếm 38,5%. Học sinh nhận 
được sự quan tâm của ba nhiều hơn của mẹ, 
chiếm tỷ lệ lần lượt là 58,3% và 47,4%. 
Bảng 2: Sự quan tâm của ba mẹ đối với con cái (n=763) 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Sự quan tâm của ba đối với con cái 
(n=682) (Có) 
445 58,3 
Sự quan tâm của mẹ đối với con cái 
(n=723) (Có) 
362 47,4 
Sự quan tâm của cả ba và mẹ đối 
với con cái (Có) 
294 38,5 
Với điểm cắt là 12 điểm, nghiên cứu tìm thấy 
có 22,2% học sinh bị nghiện Facebook. Bảng 3 
cho thấy điểm Thang đo nghiện Facebook có 
trung vị là 8 với khoảng tứ phân vị lần lượt là 5 
điểm và 11 điểm. 
Bảng 3: Tỷ lệ nghiện Facebook (n=763) 
Đặc điểm Tần số % KTC 95% 
Nghiện Facebook (có) 169 22,2 19,2 – 25,3 
Điểm của thang đo BFAS* 8 (5 – 11) 
(*) Biến số định lượng phân phối không bình thường: trung 
vị (khoảng tứ phân vị) 
Bảng 4: Mối liên quan đơn biến giữa nghiện Facebook và đặc điểm nền của học sinh 
Đặc điểm 
Nghiện Facebook 
Giá trị p PR (KTC 95%) 
Có (%) (n=169) Không (%) (n=594) 
Giới: Nữ 
 Nam 
97 (21,9) 
72 (22,5) 
346 (78,1) 
248 (77,5) 
0,843 
1,03 (0,79 – 1,34) 
Khối lớp: Lớp 10 
 Lớp 11 
 Lớp 12 
50 (17,9) 
54 (22,0) 
65 (27,3) 
230 (82,1) 
191 (78,0) 
173 (72,7) 
0,01 
1 (*) 
1,23 (0,87 – 1,74) 
1,53 (1,10 – 2,12) 
Học lực HK1: 
Giỏi 
Khá 
Trung bình - Yếu 
15 (17,1) 
78 (20,4) 
76 (26,7) 
73 (82,9) 
305 (79,6) 
209 (73,3) 
0,484 
0,079 
1 
1,19 (0,72 – 1,97) 
1,56 (0,95 2,58) 
Thời gian học: Buổi sáng 
 Buổi chiều 
 Cả hai buổi 
84 (23,0) 
28 (19,3) 
57 (22,5) 
281 (77,0) 
117 (80,7) 
196 (77,5) 
0,368 
0,888 
1 
0,84 (0,57 – 1,23) 
0,98 (0,73 – 1,31) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 94
Đặc điểm 
Nghiện Facebook 
Giá trị p PR (KTC 95%) 
Có (%) (n=169) Không (%) (n=594) 
Hiện tại đang sống chung với: 
Cả hai 
Ba/ mẹ 
Không sống chung với ba mẹ 
138 (21,6) 
25 (25,5) 
6 (22,2) 
500 (78,4) 
73 (74,5) 
21 (77,8) 
0,381 
0,942 
1 
1,18 (0,82 – 1,71) 
1,03 (0,50 – 2,11) 
(*) Mối liên hệ có tính khuynh hướng 
Bảng 4 thể hiện mối liên quan giữa nghiện 
Facebook và các đặc điểm nền của học sinh, 
được phân tích bằng kiểm định đơn biến. Kết 
quả cho thấy không tìm được mối liên quan đơn 
biến giữa nghiện Facebook và các đặc điểm nền 
của học sinh THPT như giới tính, học lực, thời 
gian học và người mà học sinh hiện tại đang 
sống cùng. Tuy nhiên, tác giả tìm thấy mối liên 
quan giữa nghiện Facebook với học sinh khối 12. 
Bảng 5 thể hiện mối liên quan giữa nghiện 
Facebook và thói quen sử dụng Facebook của 
học sinh, được phân tích bằng kiểm định đơn 
biến. Kết quả cho thấy có mối liên quan giữa 
nghiện Facebook với số bạn trên Facebook của 
học sinh, thời gian sử dụng Facebook trong 
ngày, thói quen sử dụng Facebook trước khi đi 
ngủ và sử dụng Facebook với mục đích giải trí. 
Tuy nhiên, nghiện Facebook không có mối liên 
quan với thiết bị dùng để sử dụng Facebook và 
các mục đích sử dụng Facebook khác. 
Kết quả của Bảng 6 thể hiện mối liên quan 
giữa nghiện Facebook với sự quan tâm của ba 
mẹ đối với con cái. Học sinh nhận được sự quan 
tâm của ba mẹ thì sẽ hạn chế được việc nghiện 
Facebook. 
Bảng 5: Mối liên quan đơn biến giữa nghiện Facebook và thói quen sử dụng Facebook 
Đặc điểm 
Nghiện Facebook 
Giá trị p PR (KTC 95%) 
Có (%) (n=169) Không (%) (n=594) 
Thiết bị thường dùng: Thiết bị khác 
 Điện thoại 
5 (10,2) 
164 (23,0) 
44 (89,8) 
550 (77,0) 
0,037 
1 
2,25 (0,97 – 5,22) 
Số bạn trên Facebook: <500 bạn 
 <1000 bạn 
 <2000 bạn 
 ≥2000 bạn 
43 (14,1) 
34 (22,1) 
43 (28,3) 
49 (32,0) 
260 (85,9) 
120 (77,9) 
109 (71,7) 
104 (68,0) 
<0,001 
1 (*) 
1,31 (1,17 – 1,46) 
1,72 (1,37 – 2,13) 
2,25 (1,60 – 3,11) 
Thời gian trung bình 1 lần sử dụng Facebook (giờ/ lần) 
<1 giờ 
1 – 2 giờ 
≥ 2 giờ 
30 (12,7) 
57 (20,3) 
60 (29,7) 
206 (87,3) 
224 (79,7) 
142 (70,3) 
<0,001 
1 (*) 
1,51 (1,26– 1,83) 
2,28 (1,59 – 3,35) 
Thời gian thường xuyên sử dụng Facebook 
Buổi sáng: Không 
 Có 
98 (18,9) 
69 (29,9) 
422 (81,1) 
162 (70,1) 
<0,001 
1 
1,58 (1,21 – 2,07) 
Buổi trưa: Không 
 Có 
59 (17,6) 
108 (26,0) 
277 (82,4) 
307 (74,0) 
0,006 
1 
1,48 (1,12 – 1,97) 
Buổi chiều: Không 
 Có 
82 (18,1) 
84 (28,3) 
371 (81,9) 
213 (71,7) 
0,001 
1 
1,56 (1,20 – 2,04) 
Buổi tối: Không 
 Có 
9 (14,3) 
158 (23,0) 
54 (85,7) 
530 (77,0) 
0,113 
1 
1,61 (0,86 – 2,99) 
Sử dụng Facebook trước khi ngủ: 
Không 
Có 
19 (10,2) 146 
(25,6) 
168 (89.8) 
425 (14,4) 
<0,001 
1 
2,52 (1,61 – 3,94) 
Mục đích sử dụng Facebook 
Học tập : Không 
 Có 
113 (22,9) 
56 (21,1) 
381 (77,1) 
210 (78,9) 
0,565 
1 
0,92 (0,69 – 1,22) 
Tìm kiếm và cập nhật thông tin: Không 
 Có 
51 (19,0) 
118 (24,0) 
218 (81,0) 
374 (76,0) 
0,111 
1 
1,27 (0,94 – 1,70) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 95
Đặc điểm 
Nghiện Facebook 
Giá trị p PR (KTC 95%) 
Có (%) (n=169) Không (%) (n=594) 
Nói chuyện, tán gẫu: Không 
 Có 
45 (19,4) 
124 (23,4) 
187 (80,6) 
405 (76,6) 
0,217 
1 
1,21 (0,89 – 1,64) 
Giải trí (Lướt web, xem video, nghe nhạc,..): Không 
 Có 
28 (15,8) 
141 (24,1) 
149 (84,2) 
443 (75,9) 
0,02 
1 
1,53 (1,06 – 2,21) 
Chơi game: Không 
 Có 
133 (21,0) 
36 (28,1) 
500 (79,0) 
92 (71,9) 
0,07 
1 
1,34 (0,98 – 1,84) 
(*) Mối liên hệ có tính khuynh hướng 
Bảng 6: Mối liên quan đơn biến giữa nghiện Facebook và sự quan tâm của ba mẹ đối với con cái 
Đặc điểm 
Nghiện Facebook 
Giá trị p PR (KTC 95%) 
Có (%) (n=169) Không (%) (n=594) 
Sự quan tâm của ba đối với con cái (n=682): 
Không 
Có 
84 (26,4) 
85 (17,3) 
234 (73,6) 
360 (82,7) 
0,016 
1 
0,72 (0,55 – 0,94) 
Sự quan tâm của mẹ đối với con cái (n=723): 
Không 
Có 
103 (25,7) 
66 (16,8) 
298 (74,3) 
296 (83,2) 
0,013 
1 
0,71 (0,54 – 0,93) 
Bảng 7 thể hiện kết quả phân tích đa biến của 
các yếu tố liên quan là những biến số tiềm năng 
(p <0,2). Bao gồm: khối lớp, thiết bị thường 
dùng, tần số sử dụng Facebook, thời gian trung 
bình 1 lần sử dụng Facebook, các buổi trong 
ngày (sáng, trưa, chiều, tối), mục đích sử dụng 
Facebook (gồm tìm kiếm, truy cập thông tin/giải 
trí/chơi game), thói quen sử dụng Facebook 
trước khi ngủ, sự quan tâm của ba, mẹ. 
Bảng 7: Mối liên quan giữa nghiện Facebook và các 
yếu tố liên quan bằng mô hình đa biến 
Các biến đưa vào mô hình hồi quy 
đa biến 
Mô hình cuối cùng 
PR (KTC95%) 
Số bạn trên Facebook 
< 500 bạn 
< 1000 bạn 
< 2000 bạn 
≥ 2000 bạn 
1 
1,56 (1,001 – 2,42)** 
1,77 (1,18 – 2,67)** 
2,03 (1,37 – 3,01)* 
Thời gian trung bình 1 lần sử dụng 
Facebook (giờ/ lần): 
< 1 giờ 
1- 2 giờ 
≥ 2 giờ 
1 
1,49 (0,99 -2,23) 
2,01 (1,35 – 3,01)* 
Sự quan tâm của mẹ đối với con cái 
(n=723) 
0,63 (0,47 – 0,85)* 
(*): p <0,001 (**): p <0,05 
Sau quá trình phân tích mô hình hồi quy đa 
biến, kết quả cho thấy các biến thực sự có mối 
liên quan đến nghiện Facebook (p <0,05), gồm: 
số bạn trên Facebook, thời gian mỗi lần sử dụng 
Facebook và sự quan tâm của mẹ đối với con cái. 
BÀN LUẬN 
Mặc dù nhiều nhà nghiên cứu đã cho thấy 
nghiện Facebook rất phổ biến hiện nay và có tác 
động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần và đời sống 
xã hội ở đối tượng học sinh, sinh viên và người 
trưởng thành. Nhưng vẫn còn rất ít nghiên cứu 
tại Việt Nam. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng 
thang đo Thai – BFAS của Thái Lan, thang đo đã 
được chuẩn hóa và nghiên cứu trên đối tượng 
học sinh THPT và cho thấy tỷ lệ nghiện 
Facebook là 22,2%. Kết quả này thấp hơn một số 
nghiên cứu tại Thái Lan (41,8%)(5), Jordan 
(38,5%)(4), Bangladesh (39,7%)(7), Malaysia 
(47,0%)(6), sự khác biệt này có thể do tần số sử 
dụng Facebook ở các nước khác nhau như tại 
Thái Lan có đến 71% dân số sử dụng Facebook, 
tương tự tại Jordan (60,9%)(4) và Maylaysia 
(75%)(6). Ngoài ra, sự khác biệt này có thể do thời 
điểm nghiên cứu khác nhau và phương pháp 
nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu tại Malaysia 
và Bangladesh với phương pháp lấy mẫu thuận 
tiện nên không có tính đại diện cho dân số và 
đặc biệt theo đánh giá sơ bộ về mạng xã hội tại 
Malaysia thì hơn 73% người dùng tự nhận thấy 
mạng xã hội có thể gây ra nghiện, đánh giá cho 
thấy tại thời điểm thực hiện nghiên cứu thì 
mạng xã hội đang là vấn đề đáng chú ý tại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 96
Malaysia. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cũng cao hơn so với nghiên cứu tại 
Đức (8,6%)(21), Thỗ Nhĩ Kỳ (7,6%)(22) và Philippin 
(4,2%)(23), sự khác biệt này có thể do Facebook 
không phải là trang mạng xã hội chính tại các 
nước này, mạng xã hội chính được sử dụng 
nhiều là Instagram và Whatsapp(3,24) và thời 
điểm nghiên cứu khác nhau. Năm 2012 là năm 
Facebook đạt đỉnh điểm về số lượng người sử 
dụng trên toàn thế giới (1 tỷ người)(25), do đó một 
số tác giả đã thực hiện nghiên cứu đánh giá 
nghiện Facebook, tuy nhiên tại thời điểm đó 
lượng tương tác và số lượng người sử dụng trên 
Facebook không nhiều và chưa phổ biến như 
hiện nay. 
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện một số 
yếu tố thực sự có liên quan đến nghiện Faceook 
và tương đồng với các nghiên cứu trước đây sau 
khi phân tích hồi quy đa biến. Học sinh có số 
bạn bè trên Facebook càng nhiều thì càng có khả 
năng nghiện Facebook cao vì càng nhiều bạn bè 
thì nhu cầu tương tác càng cao, luôn mong 
muốn được quan tâm chú ý nhiều hơn hết nên 
sẽ thường xuyên cập nhật Facebook. Tương 
đồng với nghiên cứu của tác giả Biolcati và cộng 
sự cho thấy sự cô đơn trong các mối quan hệ gia 
đình hoặc bạn bè là nguyên nhân dẫn đến việc 
sử dụng Facebook của học sinh và việc sử dụng 
Facebook nhiều hơn sẽ làm cho học sinh cảm 
thấy bớt cô đơn hơn(26). Nghiên cứu cũng tìm 
thấy học sinh sử dụng Facebook càng nhiều càng 
có nguy cơ nghiện Facebook. Kết quả này phù 
hợp với nghiên cứu của tác giả Huỳnh Văn Sơn 
thực hiện tại TP. HCM(27) và tác giả Trần Thị 
Minh Đức cùng cộng sự thực hiện tại 6 thành 
phố lớn tại Việt Nam(28) và nghiên cứu thực hiện 
tại Thái Lan, Joran, Bangladesh, Malaysia, sinh 
viên sử dụng Facebook >5 giờ đồng hồ có khả 
năng gây nghiện(4,5,6,7,10). Điều này có thể giải 
thích do học sinh đang sử dụng một công cụ với 
quá nhiều tính năng như Facebook – vừa có thể 
trao đổi thông tin, cập nhật tin tức, nói chuyện 
với mọi người, như vậy khi đang sử dụng thì 
người dùng không thể bỏ được, vô tình càng sử 
dụng thì áp lực do Facebook mang lại càng tăng 
cao. Đặc biệt, nghiên cứu chúng tôi tìm thấy mối 
liên quan giữa sự quan tâm của mẹ đến nghiện 
Facebook của học sinh, học sinh nhận được sự 
quan tâm của mẹ nhiều hơn sẽ giảm khả năng 
nghiện Facebook. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả 
Wang K và cộng sự, tác giả Anindita và cộng sự 
đã thực hiện và cho kết quả tương tự(29,30). Điều 
này có thể được giải thích là do mẹ chính là 
người quan tâm, chăm sóc con cái nhiều nhất, 
nên sự quan tâm của mẹ có sức ảnh hưởng rất 
lớn đến con cái và ngược lại. 
Ngoài ra, nghiên cứu cũng có một số hạn 
chế. Công cụ đánh giá nghiện Facebook sử 
dụng trong nghiên cứu này đã được chuẩn hóa 
và ứng dụng tại nhiều nơi trên thế giới. Tuy 
nhiên, tại Việt Nam công cụ này vẫn chưa 
được đánh giá tính tin cậy và giá trị. Nghiên 
cứu đã đưa ra tỷ lệ dự trù mất mẫu nhưng vẫn 
chưa dự trù được chính xác tỷ lệ này. Do đó 
dẫn đến số lượng mẫu thu được chỉ vừa đạt 
đủ cỡ mẫu dự tính ban đầu. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ nghiện Facebook ở học sinh THPT tại 
địa bàn thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai 
là 22,2%. Kết quả này cho thấy nghiện Facebook 
cũng là vấn đề đáng quan tâm ở độ tuổi học sinh 
THPT và đặc biệt là những đối tượng học sinh 
có đặc điểm góp phần gia tăng nghiện Facebook 
mà nghiên cứu của chúng tôi đã phát hiện được. 
Qua kết quả nghiên cứu, học sinh nên hạn chế 
sử dụng Facebook vào ban ngày và những giờ 
trước khi ngủ, chỉ nên sử dụng dưới 2 giờ/ngày 
và đặc biệt mẹ nên quan tâm đến con cái vì đây 
có thể là biện pháp dự phòng hiệu quả để hạn 
chế việc sử dụng Facebook quá mức ở học sinh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Facebook INC (2018). The Facebook company info. URL: 
https://newsroom.fb.com/company-info. 
2. We are Social (2019). Social media users pass 3.5 billion. URL: 
https://wearesocial.com/us/blog/2019/07/global-social-media-
users-pass-3-5-billion. 
3. We are social (2018) Digital in 2018 in southeast asia - part 1 
northwest. URL: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 97
https://www.slideshare.net/wearesocial/digital-in-2018-in-
southeast-asia-part-1-northwest-86866386. 
4. Alzougool B (2018). The impact of motives for Facebook use on 
Facebook addiction among ordinary users in Jordan. Int J Soc 
Psychiatry, 64(6): 528-535. 
5. Hanprathet N, Manwong M, Khumsri J, Yingyeun R, 
Phanasathit M (2015). Facebook Addiction and Its Relationship 
with Mental Health among Thai High School Students. J Med 
Assoc Thai, 98(S3):81-90. 
6. Jafarkarimi H, Alex T.H.S, Saadatdoost R, Jee M. H (2016) 
Facebook Addiction among Malaysian Students. International 
Journal of Information and Education Technology, 6 (6): 465-69. 
7. Mamun MAA, Griffiths MD (2019). The association between 
Facebook addiction and depression: A pilot survey study 
among Bangladeshi students. Psychiatry Res, 271:628-633. 
8. Farooqi H, Patel H, Aslam HM, Ansari IQ, Khan M, Iqbal N, et 
al (2013). Effect of Facebook on the life of Medical University 
students. Int Arch Med, 6(1):40-48. 
9. Nguyễn Thị Thu Thảo (2016). Ảnh hưởng của mạng xã hội trực 
tuyến đối với kết quả học tập của học sinh trung học phổ thông 
tại huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai năm 2016. Khóa luận tốt 
nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
10. Khumsri J, Yingyeun R, Mereerat, Manwong, Hanprathet N, 
Phanasathit M (2015). Prevalence of Facebook Addiction and 
Related Factors Among Thai High School Students. J Med Assoc 
Thai, 98(S3):S51-60. 
11. Frison E, Eggermont S (2016). Gender and Facebook motives as 
predictors of specific types of Facebook use: A latent growth 
curve analysis in adolescence. J Adolesc, 52:182-90. 
12. Marino C, Mazzieri E, Caselli G, Vieno A, Spada MM (2018). 
Motives to use Facebook and problematic Facebook use in 
adolescents. J Behav Addict, 7(2):276-283. 
13. Cổng thông tin điện tử Thị xã Long khánh (2019). Tổng đặc 
điểm văn hóa - xã hội Thành phố Long Khánh. URL: 
CatID=4. 
14. Thông tin điện tử thành phố Long Khánh (2019). Định hướng 
Quy hoạch tổng thể KTXH trên điạ bàn Thị xã Long Khánh. 
URL: 
CatID=42. 
15. UBND tỉnh Đồng Nai (2018). Tóm tắt Đề án Long Khánh 2018. 
URL: 
https://www.dongnai.gov.vn/Shared%20Documents/Tom%20ta
t%20de%20an%20Long%20Khanh-2018.pdf. 
16. Parker G (1989). The Parental Bonding Instrument: 
psychometric properties reviewed. Psychiatr Dev, 7(4):317-35. 
17. Murphy E, Brewin C. R, Silka L (1997). The assessment of 
parenting using the parental bonding instrument: two or three 
factors? Psychol Med, 27(2):333-41. 
18. Wilhelm K, Niven H, Parker G, Hadzi-Pavlovic D (2005). The 
stability of the Parental Bonding Instrument over a 20-year 
period. Psychol Med, 35(3):387-93. 
19. Andreassen CS, Torsheim T, Brunborg GS, Pallesen S (2012). 
Development of a Facebook Addiction Scale. Psychol Rep, 
110(2):501-17. 
20. Phanasathit M, Manwong M, Hanprathet N, Khumsri J, 
Yingyeun R (2015) Validation of the Thai version of Bergen 
Facebook addiction scale (Thai-BFAS). J Med Assoc Thai, 
98(S2):108-17. 
21. Brailovskaia J, Schillack H, Margraf J (2018). Facebook 
Addiction Disorder in Germany. Cyberpsychol Behav Soc Netw, 
21(7):450-456. 
22. Koc M, Gulyagci S (2013). Facebook addiction among Turkish 
college students: the role of psychological health, demographic, 
and usage characteristics. Cyberpsychol Behav Soc Netw, 16(4):279-
84. 
23. Marcial DE (2013). Are you a facebook addict? Measuring 
facebook addiction in the Philippine University. International 
Proceedings of Economics Development and Research 66:1-4. 
24. We are Social (2018). Digital in 2018 in Western Europe. URL: 
https://www.slideshare.net/wearesocial/digital-in-2018-in-
northern-europe-part-1-west-86864045. 
25. Facebok.com (2018). Số liệu thống kê. URL: 
https://newsroom.fb.com/company-info/, Accessed on 
10/12/2018. 
26. Biolcati R, Mancini G, Pupi V, Mugheddu V (2018). Facebook 
Addiction: Onset Predictors. J Clin Med, 7(6):1-12. 
27. Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Huỳnh Ngọc Trâm (2014). Thực trạng 
việc sử dụng Facebook của thanh thiếu niên 15-18 tuổi tại thành 
phố Hồ Chí Minh. Khoa học Xã hội ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, 63:46-
53. 
28. Trần Thị Minh Đức, Bùi Thị Hồng Thái (2014). Sử dụng mạng 
xã hội trong sinh viên Việt Nam. Khoa học xã hội Việt Nam, 
8(81):51-60. 
29. Chakraborty A (2016) Facebook Addiction: An Emerging 
Problem. The American Journal of Psychiatry, 11(12):7-9. 
30. Wang K, Frison E, Eggermont S, Vandenbosch L (2018) Active 
public Facebook use and adolescents' feelings of loneliness: 
Evidence for a curvilinear relationship. J Adolesc, 67:35-44. 
Ngày nhận bài báo: 22/11/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020

File đính kèm:

  • pdfty_le_nghien_facebook_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_hoc_sinh_tru.pdf