Tỷ lệ khám thai đủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang

Đặt vấn đề: Khám thai là một trong những yếu tố giúp theo dõi tình trạng sức khỏe của mẹ và bé. Khám

thai không đầy đủ làm tăng nguy cơ sinh non và sinh nhẹ cân.

Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ khám thai đủ và các yếu liên quan đến lần mang thai gần nhất ở phụ

nữ huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 331 phụ nữ có

con dưới 1 tuổi, tại 5 xã thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang từ tháng 11/2018 đến tháng 6/2019. Mỗi phụ nữ

được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm yếu tố bản thân (tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn,

thu nhập), tiền sử sản khoa và đặc điểm nền của người chồng. Mô hình hồi qui logistic đa biến sử dụng để xác

định các yếu tố liên quan đến việc khám thai đủ với mức ý nghĩa p bằng 0,05.

pdf 8 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ khám thai đủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ khám thai đủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang

Tỷ lệ khám thai đủ và các yếu tố liên quan ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản tại huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 59
TỶ LỆ KHÁM THAI ĐỦ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở PHỤ NỮ TRONG ĐỘ TUỔI SINH SẢN TẠI HUYỆN CHÂU THÀNH 
TỈNH KIÊN GIANG 
Danh Tuyết Nhi1, Trương Thị Thùy Dung2, Trần Thị Tuyết Nga2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Khám thai là một trong những yếu tố giúp theo dõi tình trạng sức khỏe của mẹ và bé. Khám 
thai không đầy đủ làm tăng nguy cơ sinh non và sinh nhẹ cân. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ khám thai đủ và các yếu liên quan đến lần mang thai gần nhất ở phụ 
nữ huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. 
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 331 phụ nữ có 
con dưới 1 tuổi, tại 5 xã thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang từ tháng 11/2018 đến tháng 6/2019. Mỗi phụ nữ 
được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ câu hỏi soạn sẵn gồm yếu tố bản thân (tuổi, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn, 
thu nhập), tiền sử sản khoa và đặc điểm nền của người chồng. Mô hình hồi qui logistic đa biến sử dụng để xác 
định các yếu tố liên quan đến việc khám thai đủ với mức ý nghĩa p bằng 0,05. 
Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ khám thai đủ trong nghiên cứu này là 77,3%. Trong đó, có 84,9% phụ nữ khám thai 
tối thiểu 4 lần trong thai kì và 87,3% khám thai lần đầu tiên ở quý I. Những phụ nữ mang thai 1 lần, có 1 con 
sinh đủ tháng thì tỷ lệ khám thai đủ cao hơn những phụ nữ mang thai hơn 2 con, có trên 2 con sinh đủ tháng (p 
<0,05). Trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên, sinh nhiều hơn 2 con đủ tháng và nghề nghiệp chồng đi 
ghe có mối liên quan thực sự với khám thai đủ (p <0,05). 
Kết luận: Tỷ lệ khám thai đủ cao hơn so với mặt bằng chung cả nước, và sinh nhiều hơn 2 con đủ tháng có 
thể có tác động đến việc khám thai đủ ở lần sinh kế tiếp ở phụ nữ huyện Châu Thành, Kiên Giang. 
Từ khóa: khám thai, phụ nữ có con dưới 1 tuổi, lần sinh gần nhất 
ABSTRACT 
ANTENATAL CARE PREVALENCE AND RELATED FACTORS AMONG REPRODUCTIVE WOMEN 
IN CHAU THANH, KIEN GIANG PROVINCE 
Danh Tuyet Nhi, Truong Thi Thuy Dung, Tran Thi Tuyet Nga 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 59 - 66 
Background: Antenatal care (ANC) is a significant process to improve maternal and newborn health. 
Moreover, inadequate antenatal care raises the risk of preterm and low birth weight. 
Objective: To determine ANC prevalence and factors related to the latest pregnancy among reproductive 
women in Chau Thanh, Kien Giang province. 
Methods: A cross-sectional study among 331 reproductive women with children under 12-month was done 
in 5 random communes in Chau Thanh, Kien Giang, from November 2018 to June 2019. Face-to-face interview 
was done using a structured questionnaire, including personal information (age, ethnicity, occupation, education, 
income), obstetric history, and husband information. Factors related to adequate ANC visit in the latest 
pregnancy were analyzed using multiple logistic with a significant level was 0.05. 
1Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: CN. Phạm Thị Thu Phương ĐT: 0981861858 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 60
Results: Prevalence of adequate ANC was 77.3% (ANC4) was 84.9%, and the first visit within the 1st 
trimester was 87.3%). Adequate ANC prevalence in pregnant women with one full-term child was higher than 
those pregnant woman with more than two children and with more than two full-term (p <0.05). Mothers with 
upper secondary school and higher education, having more than two full-term children, and husband’s occupation 
on traveling boat was significantly associated with adequate antenatal care (p <0.05). 
Conclusions: Adequate ANC prevalence was higher in the study than that of the national level. Women 
who had more than two full-term children may have an impact on antenatal care at the next birth in Chau 
Thanh, Kien Giang province. 
Keywords: antental care (ANC), prenatal care, under 12-month-old children, the latest pregnancy 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Khám thai đủ là những thai phụ đã đi khám 
thai ít nhất 4 lần trong thai kỳ và khám lần đầu 
trong 3 tháng đầu của thai kỳ(1). Khám thai đủ là 
một trong những yếu tố bảo vệ và giúp theo dõi 
tình trạng sức khỏe của mẹ và bé. Khám thai 
không đầy đủ làm tăng nguy cơ sinh non và sinh 
nhẹ cân. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thống 
kê năm 2014 tỷ lệ sinh non ở Châu Á chiếm 
78,9% trên toàn Thế Giới(2). Đặc biệt trong 3 
tháng đầu thai kỳ, nếu thai phụ mắc bệnh giang 
mai được sàng lọc bệnh sẽ làm giảm 70% - 100% 
trẻ bị nhiễm bệnh và 1/3 trẻ sinh non(2). Ngoài ra 
nó còn gây ra một số hậu quả nghiêm trọng cho 
mẹ và bé như tử vong mẹ, tử vong trẻ sơ sinh, 
nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng sơ sinh(3). Vì 
vậy khám thai định kỳ đóng vai trò rất quan 
trọng giúp bác sĩ và thai phụ phát hiện được các 
nguy cơ tiềm ẩn trong quá trình mang thai. 
Khám thai đủ là một trong những yếu tố 
quan trọng trong việc giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử 
vong ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản(4,5). Theo 
ước tính của WHO năm 2015 có 303.000 phụ nữ 
chết vì biến chứng khi mang thai và sinh nở. 
Hầu hết các trường hợp tử vong này có thể tránh 
được nếu có sự phát hiện sớm và can thiệp kịp 
thời của nhân viên y tế. 
Năm 2015 tại Việt Nam, hầu hết các phụ nữ 
trong thời kỳ mang thai đều được tiếp cận với 
dịch vụ chăm sóc trước khi sinh, 95,8% được 
khám thai sản ít nhất 1 lần và 73,7% được khám 
thai sản ít nhất 4 lần vào năm 2014(6). Tuy nhiên 
vẫn còn nhiều khác biệt đáng kể về tình trạng 
sức khỏe, tử vong mẹ và tử vong trẻ em giữa các 
vùng miền, nhóm dân tộc. Tử vong mẹ thường 
cao hơn tại các vùng sâu, vùng xa và các khu vực 
dân tộc thiểu số (DTTS)(6,7). 
Châu Thành là một huyện ngoại ô của tỉnh 
Kiên Giang với sự phân bố đa dạng về dân tộc. 
Trong đó, người Kinh chiếm tỷ lệ 61,86%, Khmer 
chiếm tỷ lệ 30,66%, Hoa chiếm tỷ lệ 7,08% , dân 
tộc khác chiếm tỷ lệ 0,39% so với dân số toàn 
huyện, Châu Thành là huyện có số đồng bào dân 
tộc thiểu số cao nhất tỉnh(8). Vì vậy, việc tìm hiểu 
về tỷ lệ khám thai của phụ nữ trong độ tuổi sinh 
sản tại đây là cần thiết. Điều này giúp nhận ra 
những vấn đề về y tế còn thiếu trong điều kiện 
chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS). Từ đó 
đưa ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao 
chất lượng dịch vụ CSSKSS ở địa phương. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu thực hiện trên cỡ mẫu là 331 
phụ nữ có con dưới 1 tuổi từ tháng 11/2018 – 
6/2019 tại các trạm Y tế huyện Châu Thành, tỉnh 
Kiên Giang. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Cỡ mẫu 
Được tính dựa theo công thức ước lượng 
một tỷ lệ trong dân số, với tỷ lệ thai phụ ở nông 
thôn khám thai từ 4 lần trở lên là 68,5% theo 
điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ 
năm 2014 tại Việt Nam(9). Chúng tôi sử dụng 
phương pháp ngẫu nhiên đơn để chọn ra 5 trạm 
y tế trong tổng số 10 trạm y tế thuộc huyện Châu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 61
Thành, sau đó sử dụng phương pháp ngẫu 
nhiên phân tầng dựa trên khung mẫu trẻ < 1 tuổi 
được đưa đi tiêm chủng tại các trạm y tế trong 
thời gian thu thập dữ kiện. Chọn đối tượng 
nghiên cứu bằng cách lấy mẫu thuận tiện trên 
những bà mẹ có con < 1 tuổi đến TCMR tại trạm 
y tế. Tiêu chí loại ra: bà mẹ không nhớ/ không trả 
lời những thông tin về số lần khám thai của lần 
sinh gần nhất. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Tìm hiểu thông tin về lịch tiêm chủng, số 
lượng trẻ đến tiêm vào ngày tiêm chủng. Dữ liệu 
được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp 
với bộ câu hỏi có sẵn. Chọn những phụ nữ trong 
độ tuổi sinh sản có con < 1 tuổi đến TCMR cho 
trẻ tại TYT, đối tượng được giải thích về mục 
tiêu nghiên cứu, cách tiến hành đảm bảo y đức 
trước khi đồng ý ký vào văn bản xác nhận tham 
gia nghiên cứu. Phỏng vấn đối tượng đồng ý 
tham gia nghiên cứu dựa vào bộ câu hỏi có sẵn. 
Tra cứu thông tin đối tượng dựa vào sổ TCMR 
và danh sách của TYT. Sau khi phỏng vấn thu 
thập dữ liệu, liên hệ (trực tiếp hoặc điện thoại) 
tới đối tượng để xác nhận lại độ chính xác của 
thông tin về số lần khám thai của phụ nữ bằng 
sổ khám thai. 
Công cụ thu thập dữ liệu 
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn 
có cấu trúc gồm 31 câu hỏi. Bao gồm các thông 
tin như giới, tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, 
nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân, thu nhập 
hàng tháng. Tiền sử sản khoa: tổng số lần 
mang thai, số con hiện tại, số con sinh đủ 
tháng, số con sinh thiếu tháng, tiền căn sẩy 
thai. Thông tin lần sinh đứa bé này: trọng 
lượng sơ sinh, tuổi thai, mong muốn lúc mang 
thai bé. Thông tin về gia đình (chồng của đối 
tượng): tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề 
nghiệp, thu nhập. Thông tin về tiếp cận chăm 
sóc tiền sản. Biến số chính của nghiên cứu là 
khám thai đủ với tiêu chí đánh giá là thai phụ 
cần đi khám thai ít nhất là 4 lần trong thai kỳ 
và khám lần đầu trong 3 tháng đầu của thai 
kỳ(1). 
Xử lý và phân tích số liệu 
Xác định mối liên quan giữa các biến số về 
đặc điểm bản thân và gia đình với việc khám 
thai đủ bằng kiểm định chi bình phương và 
mô hình tuyến tính tổng quát (General linear 
models) với mức ý nghĩa là 0,05. Tỷ lệ hiện 
mắc PR và khoảng tin cậy 95% dùng để lượng 
hóa độ lớn mối liên quan. Ngoài ra, mô hình 
logistic được sử dụng để phân tích đa biến 
bằng cách chọn đưa những biến số biến số 
tiềm năng (p <0,2) gồm dân tộc, trình độ học 
vấn, số lần mang thai, số con, số con sinh đủ 
tháng, mong muốn mang thai, dân tộc chồng, 
trình độ học vấn chồng, nghề nghiệp chồng, và 
biến sinh học gồm nhóm tuổi, tiền căn sẩy thai 
vào mô hình đa biến. Sau đó, loại bỏ từ từ các 
biến không ý nghĩa theo trình tự những biến 
có p>0,05 từ lớn đến nhỏ(10). 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 109/ĐHYD-HĐĐĐ, 
ngày 20/3/2019. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm của lần mang thai gần nhất và tiền 
sử sản khoa ở phụ nữ có con dưới 1 tuổi tại huyện 
Châu Thành, Kiên Giang năm 2019 
Nội dung 
Tần số 
(n) 
Tỷ lệ 
(%) 
Đặc điểm lần mang thai gần nhất (n=331) 
Khám thai ít nhất 4 lần (có) 281 84,9 
Khám thai lần đầu trong 3 tháng đầu thai 
kỳ (có) 
289 87,3 
Khám thai đủ (có) 256 77,3 
Tiền sử sản khoa 
Sẩy thai (có) 65 19,7 
Trong tổng số 331 phụ nữ có con dưới 1 tuổi 
trong nghiên cứu, tỷ lệ phụ nữ khám thai đủ là 
77,3% (256 phụ nữ). Trong đó tỷ lệ phụ nữ khám 
thai ít nhất 4 lần trong lần mang thai gần nhất 
chiếm tỷ lệ 84,9% (281 phụ nữ). Tỷ lệ khám thai 
lần đầu trong 3 tháng đầu thai kỳ là 87,3% với 
289 phụ nữ. Có 65 bà mẹ trong nghiên cứu có 
tiền căn sẩy thai, chiếm tỷ lệ 19,7%. Kết quả 
nghiên cứu cho thấy một nửa phụ nữ được hỏi 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 62
đã từng: mang thai 1 lần (khoảng tứ vị 0 – 1), đã 
từng có 1 con (khoảng tứ vị 0 – 1), có 1 con sinh 
đủ tháng (khoảng tứ vị 0 – 1). Cân nặng lúc sinh 
trung bình của đứa trẻ gần nhất (tính đến thời 
điểm nghiên cứu) của phụ nữ trong nghiên cứu 
là 3145,5 ± 373,1 gram, với tuổi thai trung bình 
lúc sinh là 39,13 ± 1,52 (Bảng 1). 
Kết quả Bảng 2 cho thấy tuổi trung bình của 
phụ nữ tham gia nghiên cứu là 27,2 tuổi với độ 
lệch chuẩn 5,69 tuổi. Đa số bà mẹ trong nghiên 
cứu có trình độ học vấn từ cấp 2 trở xuống 
chiếm 73,8%, trong đó tỷ lệ mù chữ là 5,1% 
(17/331). Phụ nữ người kinh chiếm tỷ lệ cao nhất 
với 56,2% (186/331). Nghề nghiệp của các đối 
tượng nghiên cứu chủ yếu là nội trợ chiếm 
68,6% (227/331), và thu nhập hàng tháng 
≤700.000 chiếm tỷ lệ cao nhất với 66,5% 
(220/331). 
Bảng 2: Mối liên quan giữa khám thai đủ với yếu tố bản thân và tiền sử sản khoa của phụ nữ tại huyện Châu 
Thành, Kiên Giang năm 2019 (n=331) 
Thông tin chung 
Chung n (%) 
(N=331) 
Khám thai 
Giá trị p Đủ n (%) 
(N=256, 77,3%) 
Không đủ n (%) 
(N=75, 22,7%) 
Nhóm tuổi 
< 25 
25 – 34 
> 35 
114 (34,4) 
179 (54,1) 
38 (11,5) 
86 (75,4) 
142 (79,3) 
28 (73,7) 
28 (24,6) 
37 (20,7) 
10 (26,3) 
0,628 
Tuổi 27,2 ± 5,69
a
Dân tộc 
Kinh 
Hoa 
Kh’mer 
186 (56,2) 
16 (4,8) 
129 (39,0) 
153 (79,6) 
12 (75,0) 
91 (69,8) 
33 (20,4) 
4 (25,0) 
38 (30,2) 
0,049 
Trình độ học vấn 
Mù chữ 
Tiểu học 
THCS 
Từ THPT trở lên 
17 (5,1) 
75 (22,7) 
149 (45,0) 
90 (27,2) 
8 (47,1) 
54 (72,0) 
110 (73,8) 
57 (93,4) 
9 (52,9) 
21 (28,0) 
39 (26,2) 
4 (6,6) 
<0,001 
Nghề nghiệp 
Nội trợ 
Công nhân viên chức 
Kinh doanh mua bán 
Làm thuê/ làm nông 
Công nhân 
227 (68,6) 
12 (3,6) 
35 (10,6) 
27 (8,2) 
30 (9,0) 
172 (75,8) 
12 (100) 
29 (82,9) 
22 (81,5) 
21 (70,0) 
55 (24,2) 
0 (0) 
6 (17,1) 
5 (18,5) 
9 (30,0) 
0,229 
Thu nhập (đồng/tháng) 
≤700.000 
>700.000 đến ≤1.000.000 
> 1.000.000 
220 (66,5) 
5 (1,5) 
106 (32,0) 
168 (76,4) 
4 (80,0) 
84 (79,3) 
52 (23,6) 
1 (20,0) 
22 (20,7) 
0,836 
Số lần mang thai 
< 2 239 (72,2) 194 (81,2) 45(18,8) 
0,007 
≥ 2 92 (27,8) 62 (67,4) 30 (32,6) 
Số con 
< 2 265 (80,1) 216 (81,5) 49 (18,5) 
<0,001 
≥ 2 66 (19,9) 40 (60,6) 26 (39,4) 
Số con sinh đủ tháng 
< 2 273 (82,5) 223 (81,7) 50 (18,3) 
< 0,001 
≥ 2 58 (17,5) 33 (56,9) 25 (43,1) 
Số con sinh thiếu tháng* 
< 2 328 (99,1) 254 (77,4) 74 (22,6) 
0,539 
≥ 2 3 (0,9) 2 (66,7) 1 (33,3) 
Sẩy thai 
Không 266 (80,4) 204 (76,7) 62 (23,3) 
0,568 
Có 65 (19,6) 52 (80,0) 13 (20,0) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 63
Thông tin chung 
Chung n (%) 
(N=331) 
Khám thai 
Giá trị p Đủ n (%) 
(N=256, 77,3%) 
Không đủ n (%) 
(N=75, 22,7%) 
Mong muốn mang thai 
Muốn có con 22 (67,7) 179 (79,9) 45 (20,1) 
0,114 Chờ một thời gian nữa 60 (18,1) 46 (76,7) 14 (23,3) 
Hoàn toàn không muốn có con 47 (14,2) 31 (63,9) 16 (34,1) 
Phép kiểm chi bình phương a: Trung bình ± độ lệch chuẩn 
Kết quả Bảng 2 cho thấy có mối liên quan 
giữa khám thai đủ với trình độ học vấn, dân tộc, 
số lần mang thai, số con và số con sinh đủ tháng 
(p <0,05). Cụ thể, phụ nữ có trình độ học vấn cao 
có nhiều khả năng khám thai đủ cao hơn phụ nữ 
có trình độ học vấn thấp (p <0,001). Những phụ 
nữ mang thai 1 lần, có 1 con sinh đủ tháng có tỷ 
lệ khám thai đủ cao hơn những phụ nữ mang 
thai hơn 2 con, có trên 2 con đủ tháng (p <0,05). 
Phụ nữ là người kinh có tỷ lệ khám thai đủ cao 
hơn phụ nữ là người dân tộc Hoa và Kh’mer (p 
<0,05). Tuy nhiên, khám thai đủ không có mối 
liên quan với nhóm tuổi, nghề nghiệp, thu nhập 
của phụ nữ, số con sinh thiếu tháng, sẩy thai và 
mong muốn có con (p >0,05). 
Kết quả từ Bảng 3 cho thấy chồng của đối 
tượng nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi 25-35 tuổi 
với 64,5% (213/331), đa số là dân tộc kinh với 
60,7% (201/331) và học vấn từ trung học cơ sở trở 
lên chiếm phần lớn (77,7%). Làm thuê, làm nông 
(34,1), công nhân (20,9%) và đi ghe (15,4%) là 
những nghề nghiệp chính được báo cáo. Hầu hết 
chồng của đối tượng nghiên cứu đều có thu 
nhập lớn hơn 1,000,000 đồng với 97,3% 
(322/331). Kết quả Bảng 3 thể hiện mối liên quan 
giữa khám thai đủ với dân tộc chồng, trình độ 
học vấn chồng và nghề nghiệp chồng (p <0,05). 
Trong khi đó, nhóm tuổi và thu nhập bình quân 
của chồng không có mối liên quan với khám thai 
đủ (p >0,05). 
Bảng 3: Mối liên quan khám thai đủ với các đặc điểm của chồng của phụ nữ tại huyện Châu Thành, Kiên Giang 
năm 2019 (n=331) 
Đặc điểm 
Chung 
(N=331) 
N (%) 
Khám thai 
p Đúng (N=117, 35,4%) 
N (%) 
Không(N=214, 64,6%) 
N (%) 
Nhóm tuổi 
< 25 49 (14,9) 35 (71,4) 14 (28,6) 
0,525 25 - 34 213 (64,5) 168 (78,9) 45 (21,1) 
> 34 69 (20,6) 52 (76,5) 16 (23,5) 
Tuổi 30,37 ± 5,96 a 
Dân tộc 
Kinh 201 (60,7) 157 (78,1) 44 (21,9) 
0,028 Hoa 24 (7,3) 22 (91,7) 2 (8,3) 
Kh’mer 106 (32,0) 77 (72,6) 29 (27,4) 
Trình độ học vấn 
Mù chữ 7 (2,1) 1 (14,3) 6 (85,7) 
0,003 
Tiểu học 67 (20,2) 44 (65,7) 23 (34,3) 
THCS 16 (48,9) 125 (77,2) 37 (22,8) 
THPT 72 (21,8) 63 (87,5) 9 (12,5) 
Trên THPT 23 (7,0) 23 (100) 0 
Nghề nghiệp chồng 
Làm thuê/ làm nông 113 (34,1) 90 (79,7) 23 (20,3) 
0,004 
Công nhân viên chức 12 (3,6) 11 (91,7) 1 (8,3) 
Kinh doanh mua bán 36 (10,9) 33 (91,7) 3 (8,3) 
Công nhân 69 (20,9) 57 (82,6) 12 (17,4) 
Thất nghiệp 3 (0,9) 2 (66,7) 1 (33,3) 
Đi ghe 51 (15,4) 29 (56,9) 22 (43,1) 
Thợ hồ 28 (8,5) 19 (67,9) 9 (32,1) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 64
Đặc điểm 
Chung 
(N=331) 
N (%) 
Khám thai 
p Đúng (N=117, 35,4%) 
N (%) 
Không(N=214, 64,6%) 
N (%) 
Khác 19 (5,7) 15 (78,9) 4 (21,1) 
Thu nhập đồng/tháng 
≤700.000 3 (0,9) 2 (66,7) 1 (33,3) 
0,373 >700.000 - ≤1.000.000 6 (1,8) 6 (100) 0 
>1.000.000 322 (97,3) 248 (77,0) 74 (23,0) 
Phép kiểm chi bình phương a: Trung bình ± độ lệch chuẩn 
Bảng 4 thể hiện kết quả phân tích đơn biến 
và đa biến của các yếu tố liên quan từ Bảng 1, 2 
và 3 ở trên, chọn những biến có giá trị p <0,2 đưa 
vào phân tích. Kết quả nghiên cứu sau cùng cho 
thấy, trình độ học vấn từ trung học phổ thông 
trở lên, sinh nhiều hơn 2 con đủ tháng và nghề 
nghiệp chồng đi ghe có mối liên quan thực sự 
với khám thai đủ (p <0,05). 
Bảng 4: Các yếu tố liên quan tỷ lệ khám thai đúng 
bằng mô hình hồi quy logistic đơn biến và đa biến 
 Đơn biến Đa biến 
Đặc điểm OR (KTC 95%) p aOR (KTC 95%) p 
Trình độ học vấn 
Mù chữ 1 1 
Tiểu học 
2,89 
(0,98 – 8,50) 
0,053 
2,44 
(0,77 – 7,73) 0,128 
THCS 
3,17 
(1,14 – 8,80) 
0,027 
1,91 
(0,65 – 5,67) 0,239 
Từ THPT trở lên 
15,75 
(4,46 – 55,64) 
<0,001 
8,90 
(2,32 –34,23) 
0,001 
Số con sinh đủ tháng 
< 2 1 1 
≥ 2 
0,30 
(0,16 – 0,54) 
<0,001 
0,30 
(0,15 – 0,59) 
<0,001 
Nghề nghiệp chồng 
Làm thuê/ làm 
nông 
1 
Công nhân viên 
chức 
2,81 
(0,34 – 22,9) 
0,334 
Kinh doanh mua 
bán 
2,81 
(0,79 – 9,99) 
0,110 
Công nhân 
1,21 
(0,56 – 2,63) 
0,623 
Thất nghiệp 
0,51 
(0,04 – 5,89) 
0,590 
Đi ghe 
0,34 
(0,16 – 0,69) 
0,003 
0,42 
(0,19 – 0,89) 
0,025 
Thợ hồ 
0,54 
(0,216 – 1,35) 
0,187 
Khác 
0,96 
(0,29 – 3,16) 
0,944 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi khảo sát tỷ lệ 
khám thai đủ (khám thai ít nhất 4 lần trong toàn 
thai kỳ và khám lần đầu trong 3 tháng đầu của 
thai kỳ) ở phụ nữ khu vực nông thôn tại huyện 
Châu Thành, tỉnh Kiên Giang và cho thấy tỷ lệ 
khám thai đủ là 77,3%. Kết quả này cao hơn so 
với nghiên cứu điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ 
em và phụ nữ (MICS) năm 2014, trong đó báo 
cáo tỷ lệ khám thai đủ là 68,5%(9). Sự khác biệt 
này có thể là do nghiên cứu của chúng tôi thực 
hiện năm 2019 dựa vào quy định hướng dẫn 
chăm sóc sức khỏe sinh sản năm 2016 của bộ y 
tế, trong khi đó nghiên cứu của MICS thực hiện 
năm 2012 chưa thực hiện theo hướng dẫn chăm 
sóc sức khỏe sinh sản nên tỷ lệ khám thai trong 
nghiên cứu của tác giả có sự khác biệt so với 
nghiên cứu trước. Kết quả này là bằng chứng 
cho thấy rằng tỷ lệ khám thai đủ đã được cải 
thiện đáng kể ở khu vực chuyện Châu Thành, 
nơi có sự phân bố đa dạng về dân tộc. 
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ phụ 
nữ khám thai trong 3 tháng đầu thai kỳ chiếm 
87,3%. Tỷ lệ khám thai trong 3 tháng đầu của 
nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu của MICS 
năm 2014. MICS báo cáo tỷ lệ này tại nông thôn 
nói chung chỉ có 5,5%, và đồng bằng sông Cửu 
Long nói chung tỷ lệ 0,6%, MICS cho biết thêm 
chỉ có 50% phụ nữ trong nghiên cứu của MICS 
khám thai lần đầu lúc thai 5 tháng tuổi(9). Sự 
khác nhau trong nghiên cứu của chúng tôi với 
nghiên cứu của MICS có thể là do sự khác biệt về 
cỡ mẫu nghiên cứu. Nghiên cứu MICS thực hiện 
lấy mẫu phân tầng theo vùng và trên diện rộng 
của đồng bằng sông Cửu Long ở cả 13 tỉnh 
thành với cỡ mẫu lớn (1925 phụ nữ). Trong khi 
đó, nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại một 
vùng ngoại ô của tỉnh Kiên Giang, do đó kết quả 
có thể trội hơn kết quả của nghiên cứu MICS. 
Mối liên quan với tỷ lệ khám thai đủ 
Nghiên cứu chúng tôi cũng tìm thấy một số 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 65
yếu tố liên quan giữa tỷ lệ khám thai đủ và trình 
độ học vấn, số con sinh đủ tháng, nghề nghiệp 
chồng đi ghe. Trong đó, phụ nữ có trình độ học 
vấn cao có nhiều khả năng khám thai đủ cao 
hơn phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nghiên 
cứu tại Cambodia năm 2018 khi báo cáo phụ nữ 
có trình độ học vấn cao hơn 1 bậc thì tỷ lệ khám 
thai đủ bằng 5,50 so với phụ nữ mù chữ(11). Điều 
này là phù hợp vì phụ nữ có trình độ học vấn 
cao nhận thức được tầm quan trọng của việc 
khám thai định kỳ. Do đó, những phụ nữ này 
quan tâm và chăm sóc thai kì tốt hơn. Nghiên 
cứu cũng cho thấy những phụ nữ có chồng làm 
nghề đi ghe có tỷ lệ khám thai đủ giảm 58% so 
với chồng của những phụ nữ làm nghề khác 
(Bảng 4). Kết quả này có thể là do đặc tính công 
việc, đi ghe là một việc làm trên các tàu biển, kéo 
dài liên tục 4 – 5 tháng mới về nhà. Do đó, hầu 
hết những phụ nữ này khi mang thai không có 
chồng bên cạnh, dẫn đến tỷ lệ khám thai đủ của 
những người phụ nữ có chồng đi ghe thấp hơn 
những phụ nữ có chồng làm những nghành 
nghề trên đất liền. Như vậy những phụ nữ ít 
được chồng hỗ trợ trong quá trình mang thai có 
mối liên quan với tỷ lệ khám thai. Kết quả này 
tương tự với nghiên cứu tại Tazania năm 
2012(12,13,14). Ngoài ra, nghiên cứu còn tìm thấy 
những phụ nữ sinh 2 con trở lên đủ tháng có tỷ 
lệ khám thai đủ giảm 70% so với những bà mẹ 
có 1 con sinh đủ tháng (Bảng 4). Có thể lý giải 
những phu nữ có trên 2 con sinh đủ tháng có 
tâm lý chủ quan vì những lần sinh trước ổn, 
khiến họ thờ ơ và phớt lờ, ít lo lắng và chăm sóc 
về thai kỳ như những lần thai trước, đồng thời 
họ tin tưởng vào kinh nghiệm của chính bản 
thân mình trong việc chăm sóc thai kỳ(15). Mặc dù 
trong nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy 
mối liên quan giữa khám thai đủ và yếu tố dân 
tộc trong mô hình đa biến (mà chỉ thấy liên quan 
trong đơn biến). Nhưng một số nghiên cứu khác 
thực hiện tại 8 tỉnh duyên hải Nam Bộ của Việt 
Nam năm 2014 lại có mối liên quan giữa tỷ lệ 
khám thai với dân tộc trong mô hình hồi quy đa 
biến(16). Điều này có thể lý giải là do nghiên cứu 
chúng tôi thực hiện cỡ mẫu chưa đủ lớn như 
những nghiên cứu trước (907 phụ nữ). Vì thế 
những nghiên cứu tiếp theo cần tăng cỡ mẫu 
khảo sát trên đối tượng những phụ nữ người 
dân tộc thiểu số đặc biệt dân tộc Kh’mer để làm 
rõ hơn mối liên quan này. 
Nghiên cứu tìm thấy có mối liên quan giữa 
tỷ lệ khám thai đủ với số lần mang thai và số con 
mang thai (p <0,001) trong đơn biến, tuy nhiên 
không tìm thấy mối liên quan này trong đa biến 
khi đánh giá cùng các yếu tố khác. Kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu tại Kenya cho thấy 
những phụ nữ có từ 4 con trở lên có tỷ lệ khám 
thai đủ giảm so với những phụ nữ có 1 con(17). 
Điều này có thể do phụ nữ từng mang thai nhiều 
lần có kinh nghiệm chăm sóc thai kỳ trong 
những lần sinh trước và họ tự tin vào kinh 
nghiệm của chính bản thân mình. Lí do này 
khiến những phụ nữ mang thai nhiều hơn hai 
con ít lo lắng về thai kỳ như những lần mang 
thai trước đó(15). Đối với trình độ học vấn chồng, 
nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa trình độ 
học vấn chồng với tỷ lệ khám thai đủ trong đơn 
biến (p <0,05). Kết quả này tương đồng với 
nghiên cứu tại Ethiopia năm 2017 (OR=0,44; KTC 
95%: 0,23 – 0,85)(18). Kết quả tương tự cũng được 
tìm thấy tại Nepal khi nghiên cứu mối liên quan 
giữa tỷ lệ khám thai đủ với trình độ học vấn 
chồng, tỷ lệ khám thai đủ khi chồng có trình độ 
học vấn tiểu học gấp 1,26 lần so với chồng mù 
chữ (PR=2,26; KTC 95%: 1,67 – 3,04)(12). Kết quả 
này có thể được lí giải rằng khi người chồng có 
trình độ học vấn cao sẽ dễ dàng và chủ động tiếp 
cận với những thông tin khám thai hơn. Đồng 
thời, họ biết cách chọn lọc những thông tin đáng 
tin cậy để tư vấn cho vợ và có khuynh hướng 
khuyên vợ đi khám thai đủ theo lịch hẹn. Tuy 
nhiên, khi xét mối liên quan này cùng các yếu tố 
khác trong nghiên cứu, không tìm thấy mối liên 
quan giữa trình độ học vấn chồng và tỷ lê khám 
thai đủ. Điều này có thể do cỡ mẫu của chúng tôi 
chưa đủ lớn để tìm thấy mối liên quan này. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 66
Điểm mạnh và hạn chế 
Một trong những điểm mạnh của nghiên 
cứu này là chúng tôi đã đánh giá độ tin cậy 
của bộ câu hỏi trước khi tiến hành thu thập dữ 
liệu. Đồng thời, mô hình hồi quy đa biến cũng 
được sử dụng để tìm và loại bỏ các yếu gây 
nhiễu, giúp xác định các yếu tố tiềm năng thực 
sự ảnh hưởng đến tỷ lệ khám thai đúng của 
phụ nữ huyện Châu Thành. Tuy nhiên, nghiên 
cứu của chúng tôi cũng có một vài hạn chế. 
Thứ nhất là sai lệch hồi tưởng có thể xảy ra do 
phụ nữ phải trả lời những nội dung liên quan 
đến quá trình mang thai trước đây. Thứ hai, 
do hạn chế về nguồn lực và thời gian, chúng 
tôi chỉ thực hiện khảo sát trên 331 phụ nữ và 
việc xác định lại độ chính xác của thông tin về 
số lần khám thai của phụ nữ thông qua việc 
xem 50 sổ khám thai và 30 cuộc gọi điện thoại 
của phụ nữ. Thứ ba, việc chọn đối tượng để 
phỏng vấn là phụ nữ đưa con đến tiêm chủng 
tại trạm y tế, nên nghiên cứu này có thể bỏ qua 
các đối tượng là phụ nữ không tiếp cận dịch 
vụ tiêm chủng mở rộng ở địa phương. 
KẾT LUẬN 
Tỷ lệ khám thai đủ ở phụ nữ khu vực nông 
thôn tại huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang là 
77,3% (256/331) cao hơn so dân số chung cả 
nước. Kết quả này cho thấy sự cải thiện đáng kể 
trong chăm sóc sức khỏe sinh sản của địa 
phương. Ngoài ra, để gia tăng tỷ lệ khám thai đủ 
cần chú ý quan tâm hơn đến những phụ nữ có 
trình độ học vấn thấp (từ THPT trở xuống), sinh 
nhiều hơn 2 con đủ tháng và những phụ nữ có 
chồng làm nghề đi ghe. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y Tế (2016). Hướng dẫn quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh 
sản. Bộ Y Tế , pp.33-43. 
2. WHO (2018). New global estimates on preterm birth 
published. URL: 
https://www.who.int/reproductivehealth/global-estimates-
preterm-birth/en/. 
3. Haftu A, Hagos H, Mehari MA, Brhane G (2018). Pregnant 
women adherence level to antenatal care visit and its effect on 
perinatal outcome among mothers in Tigray Public Health 
institutions, 2017: cohort study. BMC Research Notes, 11(1):872-872. 
4. WHO (2015). 10 facts on maternal health. URL: 
https://www.who.int/features/factfiles/maternal_health/en/. 
5. WHO (2016). Pregnant women must be able to access the right 
care at the right time, says WHO. URL: 
https://www.who.int/en/news-room/detail/07-11-2016-
pregnant-women-must-be-able-to-access-the-right-care-at-the-
right-time-says-who. 
6. Tổng cục thống kê (2012). Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh 
sản phụ nữ Việt Nam. URL: 
7. Bộ kế hoạch và đầu tư (2015). Kết quả 15 năm thực hiện các 
mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam. Bộ kế hoạch 
và đầu tư, pp.77-85. 
8. Cổng thông tin điện tử huyện Châu Thành (2016). Đặc điểm 
tình hình chung của huyện Châu Thành. URL: 
https://chauthanh.kiengiang.gov.vn/trang/TinTuc/81/498/dac-
diem-tinh-hinh-chung-cua-huyen-Chau-Thanh.html. 
9. Tổng cục thống kê (2014). Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ 
em và phụ nữ 2014. Tổng cục thống kê, pp.135- 161. 
10. Hosmer DW, Lemeshow S, Sturdivant RX (2013). Applied 
logistic regression, pp.90-93. Wiley, Hoboken, NJ. 
11. Yasuoka J, Nanishi K, Kikuchi K, Suzuki S, Ly P, Thavrin B, et 
al (2018). Barriers for pregnant women living in rural, 
agricultural villages to accessing antenatal care in Cambodia: A 
community-based cross-sectional study combined with a 
geographic information system. PLoS One, 13(3):e0194103. 
12. Joshi C, Torvaldsen S, Hodgson R, Hayen A (2014). Factors 
associated with the use and quality of antenatal care in Nepal: 
a population-based study using the demographic and health 
survey data. BMC Pregnancy and Childbirth, 14(1):94-105. 
13. Fatmi Z, Avan BI (2002). Demographic, socio-economic and 
environmental determinants of utilisation of antenatal care in a 
rural setting of Sindh, Pakistan. J Pak Med Assoc, 52(4):138-42. 
14. Gross K, Alba S, Glass TR, et al (2012). Timing of antenatal care 
for adolescent and adult pregnant women in south-eastern 
Tanzania. BMC Pregnancy Childbirth, 12:16-28. 
15. Spangler SA, Bloom SS (2010). Use of biomedical obstetric care 
in rural Tanzania: the role of social and material inequalities. 
Social Science and Medicine, 71(4):760-768. 
16. Bui TTH, Pham VT, Duong MD (2015). Factors associated with 
four or more antenatal care services among pregnant women: a 
cross-sectional survey in eight South Central Coast provinces 
of Vietnam. International Journal of Women’s Health, 7(1):699-706. 
17. Ochako R, Gichuhi W (2016). Pregnancy wantedness, 
frequency and timing of antenatal care visit among women of 
childbearing age in Kenya. Reproductive Health, 13(1):51-58. 
18. Tesfaye G, Loxton D, Chojenta C, Semahegn A, Smith R (2017). 
Delayed initiation of antenatal care and associated factors in 
Ethiopia: a systematic review and meta-analysis. Reproductive 
Health, 14(1):150-166. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdfty_le_kham_thai_du_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_phu_nu_trong_do.pdf