Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường típ 2 tại Việt Nam

Đặt vấn đề: Hạ đường huyết là một trong

các biến chứng nghiêm trọng của đái tháo

đường típ 2 nhưng lại ít được quan tâm đến

trong thực hành lâm sàng. Mục tiêu nghiên

cứu: Nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác

định tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và

không kèm thử đường huyết trong cơn cùng

với các yếu tố liên quan ở người bệnh đái

tháo đường típ 2 ngoại trú. Phương pháp

nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với cỡ

mẫu 669 người được tiến hành tại bệnh viện

Nhân Dân 115, TP. Hồ Chí Minh năm 2017.

Chương trình được công bố trên các tờ rơi và

các poster trong bệnh viện. Tiêu chuẩn chọn

vào là đái tháo đường típ 2, từ 18 tuổi trở lên

và thời gian mắc đái tháo đường tối thiểu 1

năm. Hạ đường huyết được định nghĩa là

người bệnh có ít nhất 4 trong 7 triệu chứng

sau đói bụng, đổ mồ hôi, run rẩy, nhức đầu,

chóng mặt, nhìn mờ và lú lẫn xảy ra trong

vòng 6 tháng trước đó.

pdf 5 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường típ 2 tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường típ 2 tại Việt Nam

Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và các yếu tố liên quan ở người bệnh đái tháo đường típ 2 tại Việt Nam
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
54 
TỶ LỆ HẠ ĐƯỜNG HUYẾT TỰ GHI NHẬN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 TẠI VIỆT NAM 
Võ Tuấn Khoa1, Chu Thị Thanh Phương1, Lê Duy Hưng1, Nguyễn Thy Khuê2, 
Aya Goto3, Chihaya Koriyama4 và Hirohide Yokokawa5 
1. Bệnh viện Nhân Dân 115, TPHCM; 2. Hội Y học TPHCM 
3. Đại học Y khoa Fukushima, Nhật Bản 
4. Đại học Kagoshima, Nhật Bản 
5. Đại học Juntendo, Nhật Bản 
DOI: 10.47122/vjde.2020.41.8 
ABSTRACT 
Frequency and predictors of self reported 
hypoglycemia among type 2 diabetes 
outpatients in Vietnam 
Background: Hypoglycemia is one of the 
most serious complications among type 2 
diabetes patients, but have been addressed 
less in clinical practice. Purpose: Our study 
aims are to determine frequency and 
predictors of unconfirmed and self reported 
hypoglycemia in type 2 diabetes outpatients. 
Methods: A cross sectional survey with 669 
subjects was conducted at People’s Hospital 
115, HCM city in 2017. This program was 
announced through leaflets and hospital 
postings. We included type 2 diabetes 
patients, 18 years or older and diabetes 
duration of at least 1 year.Hypoglycemia was 
defined as an experience of at least four 
typical symptoms such as hunger, sweating, 
tremor, headache, dizziness, blurred vision 
and confusion over the past 6 months. 
Identification of hypoglycemia did not 
include self blood glucose findings. Results: 
The prevalence of self reported hypoglycemia 
was 58% of diabetic outpatients and was 
associated with insulin use [adjusted odds 
ratio (aOR=6.46), 95% confidence interval 
(95%CI 3,88;10,7)], history of hypoglycemia 
hospitalization over the past 12 months 
(aOR=5,54, 95% CI 1,79;17,2), sulfonylureas 
use (aOR=1,93, 95% CI 1,17;3,17). 
Discussion: Self reported hypoglycemia is 
frequent among Vietnamese diabetic patients. 
Past admission of hypoglycemia and use of 
agents (insulin, sulfonylureas) are significant 
predictors of hypoglycemia. Conclusion: 
Prevalent self reported hypoglycemia in 
Vietnamese type 2 diabetes patients could be 
prevented by increasing awareness for 
patients and physicians with regard to more 
careful treatment for those with history of 
hypoglycemia hospitalization and under 
insulin secretagogues. 
Key word: diabetes, hypoglycemia, self-
reported 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Hạ đường huyết là một trong 
các biến chứng nghiêm trọng của đái tháo 
đường típ 2 nhưng lại ít được quan tâm đến 
trong thực hành lâm sàng. Mục tiêu nghiên 
cứu: Nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác 
định tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận và 
không kèm thử đường huyết trong cơn cùng 
với các yếu tố liên quan ở người bệnh đái 
tháo đường típ 2 ngoại trú. Phương pháp 
nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang với cỡ 
mẫu 669 người được tiến hành tại bệnh viện 
Nhân Dân 115, TP. Hồ Chí Minh năm 2017. 
Chương trình được công bố trên các tờ rơi và 
các poster trong bệnh viện. Tiêu chuẩn chọn 
vào là đái tháo đường típ 2, từ 18 tuổi trở lên 
và thời gian mắc đái tháo đường tối thiểu 1 
năm. Hạ đường huyết được định nghĩa là 
người bệnh có ít nhất 4 trong 7 triệu chứng 
sau đói bụng, đổ mồ hôi, run rẩy, nhức đầu, 
chóng mặt, nhìn mờ và lú lẫn xảy ra trong 
vòng 6 tháng trước đó. Việc xác định hạ 
đường huyết không bao gồm việc tự thử 
đường huyết bằng máy thử cá nhân. Kết quả: 
Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận là 58% 
trong số người bệnh đái tháo đường ngoại trú 
và có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với 
dùng insulin [OR hiệu chỉnh=6,46), 95% 
KTC 3,88;10,7)], tiền sử nhập viện vì hạ 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
55 
đường huyết trong vòng 12 tháng qua (OR 
hiệu chỉnh=5,54, 95% KTC 1,79;17,2), dùng 
sulfonylureas (OR hiệu chỉnh=1,93, 95% 
KTC 1,17;3,17). Bàn luận: Hạ đường huyết 
tự ghi nhận rất hay gặp ở người bệnh đái tháo 
đường Việt Nam. Tiền sử nhập viện vì hạ 
đường huyết và việc dùng các thuốc (insulin, 
sulfonylureas) là các yếu tố tiên lượng hạ 
đường huyết. Kết luận: Tỷ lệ phổ biến của hạ 
đường huyết tự ghi nhận ở người bệnh đái 
tháo đường típ 2 có thể được ngăn ngừa bằng 
việc gia tăng nhận thức của thày thuốc lẫn 
người bệnh về việc thận trọng điều trị cho 
những người có tiền sử hạ đường huyết trước 
đó và dùng nhóm thuốc kích thích tiết insulin. 
Từ khóa: đái tháo đường, hạ đường huyết, 
tự ghi nhận 
Chịu trách nhiệm chính:Võ Tuấn Khoa 
Ngày nhận bài: 10/8/2020 
Ngày phản biện khoa học: 11/9/2020 
Ngày duyệt bài: 12/10/2020 
Email: [email protected] 
Điện thoại: 0937763774 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hạ đường huyết là một tình huống cấp 
tính xảy ra khi đường huyết giảm dưới một 
ngưỡng nhất định. Ở người bệnh đái tháo 
đường, hạ đường huyết có tác động đáng kể 
lên chất lượng cuộc sống, công việc làm, 
mối tương tác xã hội và khả năng lái xe [11], 
[13], [15]. Ngoài các tác động trực tiếp, hạ 
đường huyết còn gây ra các tác động gián 
tiếp quan trọng trên hệ quả sức khỏe dài hạn 
từtuân thủ điều trị kém đến tình trạng tăng 
đường huyết cố ý do lo sợ và tránh cơn hạ 
đường huyết [14]. 
Cho đến nay, tỷ lệ hạ đường huyết được 
báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng và 
nghiên cứu quan sát hầu hết dựa vào kết quả 
đo đường huyết [1], [16], và/hoặc ghi chép 
cơn hạ đường huyết trong hồ sơ bệnh án [6], 
[7]. Trong thực tế lâm sàng, không phải tất cả 
người bệnh đái tháo đường có thể tự thử 
đường huyết thường xuyên và trao đổi với 
bác sĩ về các triệu chứng nghi ngờ hạ đường 
huyết của mình mà không có thử đường huyết 
làm bằng chứng. Do vậy, việc tự ghi nhận hạ 
đường huyết có thể phản ánh đầy đủ hơn 
những cơn hạ đường huyết của người bệnh 
trong đời sống hàng ngày và có thể cung cấp 
nhiều thông tin cho bác sĩ điều trị. 
Nghiên cứu được chúng tôi tiến hành 
nhằm hai mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ hạ 
đường huyết tự ghi nhận và (2) Các yếu tố 
liên quan với hạ đường huyết ở người bệnh 
đái tháo đường típ 2. 
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả và 
phân tích các đối tượng tham gia chương trình 
giáo dục sức khỏe tại Khoa Nội tiết, Bệnh 
viện Nhân Dân 115 trong năm 2017 thỏa tiêu 
chí: đái tháo đường típ 2, tuổi từ 18 trở lên, 
thời gian mắc bệnh tối thiểu 12 tháng (tính 
đến thời điểm vào nghiên cứu). Tiêu chuẩn 
loại trừ bao gồm ít nhất một tiêu chí như (1) 
mắc bệnh nội khoa nặng; (2) suy giảm nhận 
thức trầm trọng. 
Để xác định tình trạng hạ đường huyết, các 
đối tượng tham gia được yêu cầu đọc một 
bảng liệt kê bao gồm 7 triệu chứng như đói 
bụng, vã mồ hôi, run tay chân, chóng mặt, 
nhức đầu, nhìn mờ, kém tập trung và ghi nhận 
sự hiện diện các triệu chứng trong vòng 6 
tháng qua. Hạ đường huyết được xác định khi 
người bệnh ghi nhận có ít nhất 4/7 triệu 
chứng trên [3]. 
Dữ liệu thu thập được nhập bằng phần 
mềm Excel 2010 và được tóm lược dưới dạng 
tỷ lệ đối với biến định tính và trung bình (độ 
lệch chuẩn) với biến liên tục. Mối liên hệ giữa 
tình trạng hạ đường huyết và các yếu tố liên 
quan bằng chỉ số odds ratio (OR). Để khử 
đồng thời các yếu tố gây nhiễu, mô hình hồi 
qui logistic đa biến được áp dụng để xác định 
mức đóng góp tương đối của các yếu tố đối 
với tình trạng hạ đường huyết. Khác biệt được 
xem có ý nghĩa thống kê khi giá trị p nhỏ hơn 
0,05. Dùng phần mềm Stata phiên bản 12.0 để 
thực hiện các phép kiểm thống kê. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tổng cộng có 701 người được mời tham 
gia, trong đó có 21 trường hợp từ chối và 11 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
56 
ca không hoàn tất nghiên cứu, do vậy chúng 
tôi đưa vào phân tích 669 đối tượng tham gia 
(chiếm tỷ lệ 95,4%). 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nữ/nam là 2/1 
với độ tuổi trung bình 63 năm. Phần lớn 
(81%) là người đã về hưu với hơn 60% có 
trình độ trung học trở lên. Về các yếu tố liên 
quan lối sống, tỷ lệ hút thuốc lá, uống rượu 
bia và ít vận động lần lượt là 8,4%; 17,4% và 
35%. Thời gian trung vị bị đái tháo đường là 
7 năm với 42% có sử dụng insulin và 4% có 
tiền sử nhập viện vì hạ đường huyết trong 
vòng 1 năm qua. 
Dựa vào bộ câu hỏi tự đánh giá, cảm giác 
đói bụng thường gặp nhất (60%) trong khi đó 
triệu chứng kém tập trung ít gặp nhất (11%). 
Tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận trong 
nghiên cứu chúng tôi là 57,7%. 
Bảng 3.1. Các triệu chứng hạ đường huyết (n=669) 
Hạ ĐH tự ghi nhận Tần suất (%) 
Các triệu chứng 
Đói bụng 
Vã mồ hôi 
Run tay chân 
Chóng mặt 
Nhức đầu 
Nhìn mờ 
Kém tập trung 
407 (59,9) 
384 (56,6) 
361 (53,2) 
363 (53,5) 
247 (36,4) 
166 (24,4) 
74 (10,9) 
Tỷ lệ hạ ĐH tự ghi nhận 392 (57,7) 
Kết quả phân tích hồi qui logistic đơn biến cho thấy các yếu tố như tuổi, phái tính, tiền sử 
bệnh mạch vành, tiền sử đột quị, tiền sử loét chân và tiền sử loét chân/đoạn chi không có liên hệ 
với tình trạng hạ đường huyết. Tuy nhiên, tỷ lệ hạ đường huyết tăng dần theo tuổi bệnh và mức 
HbA1c. Bên cạnh đó, việc sử dụng insulin, tiền sử nhập viện vì hạ đường huyết trong năm qua 
và tiền sử bệnh võng mạc làm tăng nguy cơ hạ đường huyết ngoại trừ việc dùng sulfonylureas 
làm giảm nguy cơ hạ đường huyết. 
Áp dụng mô hình phân tích hồi qui logistic đa biến, các yếu tố dùng sulfonyluras (OR hiệu 
chỉnh = 1,93; 95%KTC 1,17-3,17; p=0,010); dùng insulin (OR hiệu chỉnh=6,46; 95%KTC 3,88-
10,7; p=0,000) và tiền sử nhập viện vì hạ ĐH trong năm qua (OR hiệu chỉnh=5,54; 95%KTC 
1,79-17,2; p=0,003) là các yếu tố độc lập kết hợp với hạ đường huyết tự ghi nhận. 
Bảng 3.2. Phân tích hồi qui logistic đơn biến 
Yếu tố OR thô (95% KTC) p 
Tuổi (năm) 0.99 (0,98-1.01) 0,245 
Phái (nam/nữ) 0,79 (0,58-1.08) 0,146 
Thời gian ĐTĐ (năm) 1,05 (1,02-1,08) 0,000 
HbA1c (%) 1,15 (1,06-1,25) 0,001 
Dùng sulfonylurea 0,52 (0.38-0,71) 0,000 
Dùng insulin 3,97 (2,82-5,59) 0,000 
TS nhập viện hạ ĐH 4,28 (1,46-12.5) 0,008 
TS bệnh mạch vành 0,91 (0,54-1,55) 0,741 
TS đột quị 1,78 (0,77-4,12) 0,180 
TS bệnh võng mạc 4,29 (1,25-14,8) 0,021 
TS loét chân/đoạn chi 1,85 (0,97-3,52) 0,060 
TS bệnh thận mạn 1,48 (0,85-2,56) 0,162 
ĐTĐ: đái tháo đường; TS: tiền sử; ĐH: đường huyết; OR: odds ratio 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
57 
4. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu chúng tôi là một phần trong 
chương trình giáo dục đái tháo đường thực 
hiện tại khoa Nội tiết, Bệnh viện Nhân Dân 
115. Tất cả người bệnh tham gia là những 
người bệnh điều trị ngoại trú. Trong nghiên 
cứu này, người bệnh trải qua các triệu chứng 
hạ đường huyết chủ yếu là đói bụng, vã mồ 
hôi, run tay chân và chóng mặt với tỷ lệ 50 
đến 60%. Đây cũng là các triệu chứng báo 
động của hệ thần kinh giao cảm khi mức 
đường huyết bắt đầu giảm. Kết quả này cũng 
tương tự trong nghiên cứu của Samya và cộng 
sự cho thấy tỷ lệ các triệu chứng hạ đường 
huyết thường gặp là chóng mặt (72,3%); đổ 
mồ hôi (44,2%); yếu cơ (42,9%) và đói bụng 
(42,4%)[9]. Trong khi đó, Shriraam V và 
cộng sự báo cáo triệu chứng yếu cơ và chóng 
mặt thường gặp nhất ở người đái tháo đường 
bị hạ đường huyết với tỷ lệ lần lượt là 76,2% 
và 74%[10]. 
Một kết quả quan trọng trong nghiên cứu 
của chúng tôi là hạ đường huyết tự ghi nhận 
(được định nghĩa có ≥ 4/7 triệu chứng nghi 
ngờ hạ đường huyết mà không kèm theo thử 
đường huyết mao mạch) chiếm tỷ lệ 57,7%. 
Đây là tỷ lệ cao có thể cho thấy tầm mức 
quan trọng của vấn đề sức khỏe trong điều trị 
đái tháo đường. Kết quả của chúng tôi thấp 
hơn trong một nghiên cứu tại Ethiopia[12] là 
70,8% có thể do quần thể nghiên cứu bao 
gồm cả đái tháo đường típ 1 (chiếm 54%) với 
hầu hết dùng insulin và cao hơn tại Ấn Độ[9] 
với tỷ lệ hạ đường huyết tự ghi nhận là 
57,4%, trong đó tiêu chí xác định hạ đường 
huyết dựa vào ít nhất 2/3 tiêu chuẩn của tam 
chứng Whipple. 
Insulin và các thuốc kích thích tiết insulin 
(chủ yếu là sulfonylureas) có thể làm gia tăng 
hạ đường huyết do cơ chế tác dụng của thuốc 
tác động trực tiếp ở người đái tháo đường so 
với các nhóm thuốc khác[4]. Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy có tình trạng hạ đường 
huyết gia tăng ở người đái tháo đường có 
dùng sulfonylureas và dùng insulin lần lượt là 
1,93 và 6,46 lần. Kết quả này tương tự với các 
nghiên cứu trước [2], [5]. 
Tiền sử nhập viện vì hạ đường huyết trong 
vòng 12 tháng trước đó là yếu tố tiên đoán hạ 
đường huyết với OR=5.46. Kết quả này tương 
tự trong nghiên cứu của Kim và cộng sự cho 
thấy tiền sử hạ đường huyết làm tăng nguy cơ 
hạ đường huyết ở đái tháo đường típ 2 gần 
gấp 17 lần[8]. Do vậy, những người bệnh đái 
tháo đường đã từng bị hạ đường huyết nên 
được tư vấn, giáo dục về hạ đường huyết bao 
gồm nhận biết các triệu chứng, xử trí ban đầu 
và phòng ngừa hạ đường huyết; cách thử 
đường huyết tại nhà. 
Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu: 
Đây là một trong các nghiên cứu đầu tiên 
tại Việt Nam xác định tỷ lệ hạ đường huyết tự 
ghi nhận ở người bệnh đái tháo đường típ 2. 
Mặc dù việc sử dụng đo bằng máy thử đường 
huyết mao mạch tại nhà có thể chưa được phổ 
biến, nhưng việc tự ghi nhận các triệu chứng 
nghi ngờ hạ đường huyết bởi người bệnh có 
thể là cách thức tốt nhất cung cấp các thông 
tin hữu ích cho các bác sĩ lâm sàng. Bên cạnh 
đó, tính chính xác của tự ghi nhận triệu chứng 
có thể bị ảnh hưởng nhiều bởi sai lệch do nhớ 
lại (recall bias). 
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Hạ đường huyết chiếm tỷ lệ khá cao trong 
số những người bệnh đái tháo đường típ 2. 
Kết quả này cho thấy các bác sĩ cần hỏi các 
triệu chứng gợi ý hạ đường huyết, nhất là ở 
người bệnh đái tháo đường có các yếu tố như 
dùng sulfonylureas hoặc insulin hoặc có tiền 
sử nhập viện vì hạ đường huyết trong vòng 12 
tháng trước đó tại mỗi lần tái khám. Bên cạnh 
đó, người bệnh đái tháo đường nên được 
hướng dẫn và tư vấn cách nhận biết và xử trí 
ban đầu biến chứng hạ đường huyết. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bonds DE, Miller ME and Bergenstal 
RM (2010). "The association between 
symptomatic, severe hypoglycaemia and 
mortality in type 2 diabetes: retrospective 
epidemiological analysis of the 
ACCORD study." BMJ; pp 340:b4909. 
2. Edridge CL, Dunkley AJ, Bodicoat 
DH, et al. (2015). "Prevalence and 
Tạp chí “Nội tiết và Đái tháo đường” Số 41 - Năm 2020 
58 
Incidence of Hypoglycaemia in 532,542 
People with Type 2 Diabetes on Oral 
Therapies and Insulin: A Systematic 
Review and Meta-Analysis of Population 
Based Studies." PloS one. 10(6); pp 
e0126427. 
3. Elizabeth M, Larry R, Michael JD, et 
al. (2011). "Assessment of severity and 
frequency of self-reported hypoglycemia 
on quality of life in patients with type 2 
diabetes treated with oral 
antihyperglycemic agents: A survey 
study." BMC Research Notes. 4; pp 251-
258. 
4. Evans Kreider K, Pereira K and P. B.I 
(2017). "Practical Approaches to 
Diagnosing, Treating and Preventing 
Hypoglycemia in Diabetes. Diabetes 
therapy : research, treatment and 
education of diabetes and related 
disorders." Diabetes Ther 8(6); pp 1427-
1435. 
5. Gonzalez C, Monti C, Pinzon A, et al. 
(2018). "Endocrinol Diabetes Nutr." 
Prevalence of hypoglycemia among a 
sample of sulfonylurea-treated patients 
with Type 2 diabetes mellitus in 
Argentina: The real-life effectiveness and 
care patterns of diabetes management 
(RECAP-DM) study. 65(10); pp 592-602. 
6. Hsu PF, Sung SH and Cheng HM 
(2013). "Association of clinical 
symptomatic hypoglycemia with 
cardiovascular events and total mortality 
in type 2 diabetes: a nationwide 
population-based study." Diabetes Care. 
36; pp 894-900. 
7. Johnston SS, Conner C and Aagren M 
(2011). "Evidence linking hypoglycemic 
events to an increased risk of acute 
cardiovascular events in patients with 
type 2 diabetes." Diabetes Care. 34; pp 
1164-70. 
8. Park SY, Jang EJ, Shin JY, et al. 
(2018). "Prevalence and predictors of 
hypoglycemia in South Korea." Am J 
Manag Care. 24(6); pp 278-286. 
9. Samya V, Shriraam V, Jasmine A, et al. 
(2019). "Prevalence of Hypoglycemia 
Among Patients With Type 2 Diabetes 
Mellitus in a Rural Health Center in 
South India." Journal of primary care & 
community health. 10; pp 1-7. 
10. Shriraam V, Mahadevan S, Anitharani 
M, et al. (2017). "Reported 
hypoglycemia in Type 2 diabetes mellitus 
patients: Prevalence and practices-a 
hospital-based study." Indian journal of 
endocrinology and metabolism. 21(1); pp 
148-153. 
11. Stargardt T, Gonder-Frederick L and 
A. C. Krobot KJ (2009). "Fear of 
hypoglycaemia: defining a minimum 
clinically important difference in patients 
with type 2 diabetes." Health and quality 
of life outcomes. 7; pp 1-8. 
12. Tiruneh GG, Abebe N and D. G (2019). 
"Self-reported hypoglycemia in adult 
diabetic patients in East Gojjam, 
Northwest Ethiopia: institution based 
cross-sectional study." BMC Endocr 
Disord. 19; pp 17. 
13. Vexiau P, Mavros P, Krishnarajah G, 
et al. (2008). "Hypoglycaemia in patients 
with type 2 diabetes treated with a 
combination of metformin and 
sulphonylurea therapy in France." 
Diabetes Obesity Metab. 10; pp 16-24. 
14. Wild D, von Maltzahn R, Brohan E, et 
al. (2007). "A critical review of the 
literature on fear of hypoglycemia in 
diabetes: Implications for diabetes 
management and patient education." 
Patient Education and Counseling. 68(1); 
pp 10-5. 
15. Williams SA, Pollack MF and D. M 
(2011). "Effects of hypoglycemia on 
health-related quality of life, treatment 
satisfaction and healthcare resource 
utilization in patients with type 2 diabetes 
mellitus." Diabetes Res Clin Pract. 91(3); 
pp 36370. 
16. Zoungas S, Patel A and Chalmers J 
(2010). "Severe hypoglycemia and risks 
of vascular events and death." N Engl J 
Med. 363; pp 1410-8. 

File đính kèm:

  • pdfty_le_ha_duong_huyet_tu_ghi_nhan_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_n.pdf