Tỷ lệ dụng cụ tử cung T-CU 380 A không đúng vị trí nếu đặt ngay sau sanh
Đặt vấn đề: Phụ nữ sau sanh cần có biện pháp tránh thai (BPTT) hiệu quả. Mang thai ngoài ý muốn ngay sau khi sanh con có thể dẫn đến phá thai hoặc khoảng cách ngắn giữa 2 thai kỳ. Đặt dụng cụ tử cung (DCTC) TCu 380A ngay sau sanh là biện pháp hữu hiệu giúp kéo dài khoảng cách giữa các thai kỳ và các nguy cơ gia tăng tử suất và bệnh suất. Bên cạnh đó, việc đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh làm giảm rào cản tiếp cận BPTT hiệu quả lâu dài. Phụ nữ được đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh sẽ không cần chờ đợi 6 tuần sau sanh để được đặt DCTC.
Mục tiêu: Tại thời điểm 6 tuần sau sanh, xác định tỷ lệ DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí, quan sát thấy dây khi đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ dụng cụ tử cung T-CU 380 A không đúng vị trí nếu đặt ngay sau sanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ dụng cụ tử cung T-CU 380 A không đúng vị trí nếu đặt ngay sau sanh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 63 TỶ LỆ DỤNG CỤ TỬ CUNG T-CU 380 A KHÔNG ĐÚNG VỊ TRÍ NẾU ĐẶT NGAY SAU SANH Huỳnh Vĩnh Phạm Uyên1, Võ Minh Tuấn1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Phụ nữ sau sanh cần có biện pháp tránh thai (BPTT) hiệu quả. Mang thai ngoài ý muốn ngay sau khi sanh con có thể dẫn đến phá thai hoặc khoảng cách ngắn giữa 2 thai kỳ. Đặt dụng cụ tử cung (DCTC) T- Cu 380A ngay sau sanh là biện pháp hữu hiệu giúp kéo dài khoảng cách giữa các thai kỳ và các nguy cơ gia tăng tử suất và bệnh suất. Bên cạnh đó, việc đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh làm giảm rào cản tiếp cận BPTT hiệu quả lâu dài. Phụ nữ được đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh sẽ không cần chờ đợi 6 tuần sau sanh để được đặt DCTC. Mục tiêu: Tại thời điểm 6 tuần sau sanh, xác định tỷ lệ DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí, quan sát thấy dây khi đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả để khảo sát tại thời điểm 6 tuần sau sanh khi đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh (≤10 phút sau sổ nhau) trong sanh mổ hay sanh ngã âm đạo. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại khoa Phụ sản, bệnh viện Nhân dân Gia Định, từ 1/12/2017 đến 1/6/2020. Kết quả: Trong số các phụ nữ được DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, từ 1/12/2017 đến 1/6/2020, có 384 phụ nữ quay lại tái khám sau 6 tuần. Trong số 384 phụ nữ đã quay trở lại sau 6 tuần, 101 phụ nữ có DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí (26,3%), trong đó có 50 (13%) bị rớt DCTC ra ngoài, 51 bị sai vị trí. Tỷ lệ không thấy dây chiếm 78,8%. Kết luận: Tỷ lệ không đúng vị trí là 26,3% khi đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh. Tỷ lệ dây được quan sát là 22,2%. Từ khóa: DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh, tránh thai hậu sản ABSTRACT THE INCORRECTLY POSITIONED RATE OF IMMEDIATE POSTPLACENTAL T-CU 380A INTRAUTERINE DEVICE Huynh Vinh Pham Uyen, Vo Minh Tuan * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 63 - 69 Background: Women in the postpartum period need effective contraception. Unintended pregnancies soon after childbirth may lead to abortion or short inter-pregnancy intervals associated with adverse outcomes. Short inter-pregnancy intervals and its associated risk of increased morbidity, mortality could be avoided by immediate postplacental intrauterine device insertion. Beside, immediate postplacental intrauterine device insertion could reduce a substantial barrier to access to long-term effective contraception. Initiating IUD use prior to discharge from the hospital postpartum eliminates a 6-week postpartum waiting period and an additional office visit. Objective: We sought to evaluate the 6-week clinical outcomes intrauterine device (IUD) incorrectly positioned rate, ability to visualize strings in women who received a T-Cu 380A postplacental IUD (PPIUD). Methods: This study was a cross-sectional study to examine the 6-week incorrectly positioned of TCu380A IUDs placed within 10 min of placental delivery in vaginal delivery and cesarean delivery. This study was conducted at the Department of Obstetrics end Gynaecology, Nhan dan Gia Dinh hospital, from 1Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Huỳnh Vĩnh Phạm Uyên ĐT: 0938999627 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 64 1/12/2017 to 1/6/2020. Results: Among women underwent immediate postplacental intrauterine device Copper T 380A insertion at the Department of Obstetrics and Gynaecology, Nhan dan Gia Dinh hospital, from 1/12/2017 to 1/6/2020, 384 women returned for their 6- week follow-up visit. Of the 384 women, 101 (22.2%) had incorrectly positioned IUD, including 50 women with expulsion IUD by 6 weeks, 51 had malpositioned IUD. There were 50 expulsions, no case embedment or perforation. Of the 334 women who had retained IUD, 78.8% strings were undetected Conclusion: 26.3% women with incorrectly positioned IUD at 6 weeks. 22.2% strings were detected. Key words: T-CU 380A postplacental intrauterine device, postpartum contraception ĐẶT VẤN ĐỀ Đặt dụng cụ tử cung (DCTC) T-Cu 380A ngay sau sanh có vai trò quan trọng trong giảm số thai kỳ ngoài ý muốn và kéo giãn khoảng cách giữa 2 thai kỳ. Việc đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh là rất thuận tiện, phụ nữ không gặp trở ngại khi tiếp cận với dịch vụ, giảm tỷ lệ phá thai, kéo giãn khoảng cách giữa 2 thai kỳ, giảm thấp nguy cơ phụ nữ sẽ không quay lại cơ sở y tế để áp dụng biện pháp tránh thai (BPTT)(1,2). Tại Việt Nam, đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh chưa được áp dụng rộng rãi cũng như chưa có nghiên cứu nào được tiến hành trong những nghiên cứu gần đây. Câu hỏi được đặt ra là tỷ lệ DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí là bao nhiêu trong thời gian 6 tuần sau sanh nếu DCTC T-Cu 380A được đặt ngay sau sanh? Tỷ lệ thấy dây DCTC là bao nhiêu?. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi chọn tối thiểu 384 phụ nữ được đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh (≤10 phút sau sổ nhau) trong sanh mổ hay sanh ngã âm đạo và tái khám 6 tuần sau sanh tại khoa Phụ sản, bệnh viện Nhân dân Gia Định, trong khoảng thời gian từ 1/12/2017 đến 1/6/2020. Tiêu chuẩn chọn mẫu Các phụ nữ được đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh, tái khám 6 tuần sau sanh trong khoảng thời gian nghiên cứu, đồng ý tham gia nghiên cứu. Chúng tôi tiến hành siêu âm ngã đầu dò cho toàn bộ các phụ nữ. Tiêu chuẩn loại trừ Phụ nữ từ chối siêu âm ngã âm đạo. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Một số định nghĩa DCTC sai vị trí: xoay hướng (DCTC T-Cu 380A không nằm đúng hướng); tụt (khoảng cách từ đỉnh của DCTC T Cu-380A đến phần tiếp giáp giữa nội mạc tử cung và lòng tử cung >3 mm và nằm phía trên cổ tử cung). Rớt ra ngoài: thông báo nhìn thấy DCTC T- Cu 380A rớt ra ngoài và không nhìn thấy hình ảnh dạng DCTC T-Cu 380A trong lòng tử cung qua siêu âm ngã đầu dò âm đạo; hoặc không nhìn thấy hình ảnh dạng DCTC T-Cu 380A trong lòng tử cung qua siêu âm ngã đầu dò âm đạo và Xquang bụng hoặc thấy DCTC ở ngay cổ tử cung hay đang nẳm trong âm đạo qua mỏ vịt. Chìm trong cơ tử cung: DCTC T-Cu 380A (toàn bộ hay một phần) nằm trong cơ tử cung, chưa lọt ra khỏi lớp thanh mạc tử cung. Xuyên thủng cơ tử cung: DCTC T-Cu 380A (toàn bộ hay một phần) xuyên qua cơ tử cung và lớp thanh mạc, chẩn đoán dựa vào siêu âm ngã đầu dò âm đạo không quan sát thấy DCTC T-Cu 380A trong lòng tử cung, X-quang bụng chậu có hình ảnh dạng T trong ổ bụng. Phương pháp thống kê Nhập số liệu được nhập và lưu trữ bằng phần mềm Epidata. Xử lý số liệu bằng phần mềm thống kê Stata 14.0. Y đức Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM, số 508/ĐHYD-HĐĐĐ, Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 65 ngày 21/11/2017. KẾT QUẢ Trong số các phụ nữ được DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, từ 1/12/2017 đến 1/6/2020, có 384 phụ nữ quay lại tái khám sau 6 tuần. Bảng 1: Đặc điểm chung trước khi mang thai (n=384) Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) Tuổi ≤ 30 195 50,78 > 30 189 49,22 Số con hiện có 1 con 249 64,8 2 con 112 29,2 3 con 23 6 Tuổi con nhỏ nhất 1 tuổi 22 5,73 2 tuổi 81 21,09 3 tuổi 281 73,18 Số lần bỏ thai 0 214 55,7 1 138 35,0 2 32 8,3 Tiền căn bệnh lý nội khoa Có 9 2,34 Không 375 97,66 BPTT từng dùng Có 350 91,15 Không 34 8,84 Trong số 384 phụ nữ được đặt DCTC TCu 380A ngay sau sanh trong khoảng thời gian nghiên cứu, số phụ nữ trên 30 tuổi gần bằng số phụ nữ ≤30. Trẻ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 43 tuổi. Đa số phụ nữ có 1 con chiếm tỷ lệ 64,8%. Phụ nữ có từ 3 con trở lên chiếm rất ít (6%). Phụ nữ có con nhỏ 3 tuổi chiếm đa số (73,18%). Về số lần bỏ thai, phụ nữ chưa từng bỏ thai ngoài ý muốn chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,7%. Kế đến là nhóm phụ nữ có 1 lần bỏ thai ngoài ý muốn (35,9%). Thấp nhất là từng bỏ thai ngoài ý muốn 2 lần, có 32 phụ nữ, chiếm tỷ lệ 8,3%. Chỉ có 9 phụ nữ có bệnh lý nội khoa, chiếm 2,34%. Bệnh lý nội khoa trong các đối tượng tham gia nghiên cứu: phình giáp (1 phụ nữ), viêm gan siêu vi B (5 phụ nữ), viêm giáp (1 phụ nữ), tiểu đường (1 phụ nữ), cường giáp (2 phụ nữ ). Trong đó, một đối tượng vừa bị viêm gan siêu vi B và phình giáp. Đa số phụ nữ từng dùng một BPTT trước lần mang thai này (91,15) (Bảng 1). Bảng 2: Đặc điểm thai kỳ và quá trình sanh (n=384) Đặc điểm Tổng số Tỷ lệ (%) Tuổi thai ≤ 39 tuần 163 42,5 > 39 tuần 221 57,5 Phương thức sanh Ngã âm đạo 85 22,1 Sanh mổ 299 77,9 Độ mở cổ tử cung 0 cm 101 27,1 1-3 cm 187 48,7 4- 9 cm 10 2,6 10 cm 86 22,4 Cân nặng bé lúc sinh < 2500 g 1 0,26 2500- 4200 g 380 98,96 > 4200 g 3 0,78 Máu mất ≤ 300g 348 90,62 > 300g 36 9,38 Số ngày nằm viện ≤ 3 ngày 114 29,69 4-5 269 70,05 6 ngày 1 0,26 Tuổi thai trung bình lúc đi sanh là 39 tuần 1 ngày ± 4 ngày. Số phụ nữ sanh mổ cao hơn gấp 3 lần so với số phụ nữ sanh ngã âm đạo, 299 phụ nữ sanh mổ (77,9%) so với 85 phụ nữ sanh ngã âm đạo (22,1%). Đa số các phụ nữ có độ mở cổ tử cung 1-3 cm tại thời điểm đặt DCTC TCu 380A, chiếm 48,7%. Ít nhất là số phụ nữ có độ mở cổ tử cung 4-9 cm (2,6%). Trong số 86 phụ nữ có độ mở cổ tử cung 10 cm thì 85 phụ nữ là sanh ngã âm đạo. Như vậy, chỉ có 1 phụ nữ sanh mổ và có độ mở cổ tử cung 10 cm. Phân phối độ mở cổ tử cung trong nhóm sanh mổ không phân phối chuẩn. Phân phối lệch trái, tập trung ở độ mở cổ tử cung 0, 1-3 cm. Như vậy tỷ lệ phụ nữ sanh mổ lúc độ mở cổ tử cung ≤ 3 cm chiếm khá cao (96,3%). Cân nặng của các bé sanh trung bình 3.289 ± 294,3 gram. Bé nặng nhất là 4.300 gram. Nhẹ nhất là 2.300 gram. Máu mất trung bình trong quá trình sanh là khoảng 299 gram. Lượng máu mất nhiều nhất là 450 ml. Lượng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 66 máu mất ít nhất là 100 g. Số ngày nằm viện trung bình là 3,68. Có 1 phụ nữ nằm viện 6 ngày là do bé gửi lên khoa nhi sơ sanh vì vàng da, nên người mẹ xin nằm lại viện chờ bé xuất viện (Bảng 2). Hình 1: Tỷ lệ DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí sau đặt 6 tuần Có 101 phụ nữ có DCTC T Cu-380A không đúng vị trí tại thời điểm 6 tuần, chiếm 26,3%. Các trường hợp DCTC T Cu-380A không đúng vị trí chỉ bao gồm phụ nữ có DCTC T Cu-380A rớt ra ngoài và DCTC T Cu-380A sai vị trí. Không có trường hợp nào DCTC T Cu-380A bị xuyên thủng tử cung, chìm sâu trong cơ tử cung. Trong số 101 phụ nữ có DCTC T Cu-380A không đúng vị trí có 50 phụ nữ rớt DCTC T Cu-380A trước thời điểm kháo sát và 51 phụ nữ có DCTC T Cu-380A sai vị trí (Hình 1). Hình 2: Tỷ lệ thấy dây DCTC T Cu-380A Tỷ lệ phụ nữ không thấy dây trong nghiên cứu của chúng tôi là 77,8% (Hình 2). BÀN LUẬN Bảng 3: So sánh đặc điểm về tuổi Tác giả Số phụ nữ (n) Tuổi trung bình ± độ lệch chuẩn Celen S (3) 245 26,4 ± 5,6 Gupta S (4) 100 25,2 ± 3,4 Agarwal K (5) 100 23,4 ± 2,26 Colwill AC (6) 169 28,3 ± 5,7 Chúng tôi 384 30,7 ± 4,9 Trong số 384 phụ nữ được đặt DCTC TCu 380A ngay sau sanh trong khoảng thời gian nghiên cứu, theo kết quả mô tả, tuổi trung bình của 384 phụ nữ tham gia nghiên cứu là 30,7 ± 4,9 (năm). Trẻ nhất là 19 tuổi, lớn nhất là 43 tuổi. Như vậy, tuổi trung bình của phụ nữ tham gia trong chúng tôi tương tự với nghiên cứu của tác giả Colwill AC, cao hơn so với các nghiên cứu khác. Một cách khách quan, tuổi trung bình phụ nữ tham gia nghiên cứu tại Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ trẻ hơn so với nghiên cứu này tại Việt Nam. Tuổi của phụ nữ mang thai tại Việt Nam có khuynh hướng tăng dần do tác động của sự bình đẳng giới, phụ nữ càng ngày càng có nhiều cơ hội trong học tập và công việc, nên tuổi sanh đẻ có khuynh hướng càng ngày càng trễ. Tuy nhiên, mẫu tham gia nghiên cứu này là các phụ nữ có ít nhất là 1 con (không tính thai kỳ lần này), điều này cũng lý giải cho việc tuổi trung bình hơi cao so với các nghiên cứu khác (Bảng 3). Bảng 4: So sánh đặc điểm về số con hiện có Tác giả Số phụ nữ (n) 1 con * 2 con * 3 con* Celen S (3) 245 66 (27) 179 (73) Colwill AC (6) 169 51 (40,5) 37 (29,4) 38 (30,1) Chúng tôi 384 249 (64,8) 112 (29,2) 23 (6) *số phụ nữ (%) Theo kết quả ở Bảng 4, phụ nữ trong dân số nghiên cứu của chúng tôi có 1 con chiếm đa số, tương tự với nghiên cứu tại Hoa Kỳ, tuy nhiên điều này khác với các nghiên cứu ở Ấn Độ, phụ nữ tham gia nghiên cứu có từ 2 con trở lên chiếm đa số. Có thể lý giả cho sự khác biệt này do yếu tố vùng miền, Việt Nam có tổng tỷ suất sanh 1,9 con vào năm 2015 và 1,8 con vào năm 2020. Số con trung bình của một cặp vợ chồng trong độ tuổi sanh đẻ năm 2020 là 1,8 con. Với cách lý Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 67 luận dân số Việt nam và số con trung bình của mỗi cặp vợ chồng cho thấy đa số các phụ nữ tham gia trong nghiên cứu của chúng tôi có từ 1- 2 con là hợp lý. Về số lần bỏ thai, phụ nữ chưa từng bỏ thai ngoài ý muốn chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,7%. Kế đến là nhóm phụ nữ có 1 lần bỏ thai ngoài ý muốn (35,9%). Thấp nhất là từng có 2 lần bỏ thai, có 32 phụ nữ, chiếm tỷ lệ 8,3%. Tổng tỷ suất phá thai tại Việt Nam được ước tính là 0,42 (có nghĩa là trong 100 người phụ nữ thí có 42 người đã từng phá thai ít nhất 1 lần trong đời)(7). Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy phù hợp với tình hình chung tại Việt Nam. Qua số liệu trong nghiên cứu này có 91,2% phụ nữ từng dùng một BPTT trước lần mang thai này, chỉ có 8,8% phụ nữ chưa từng sử dụng BPTT nào. Con số phụ nữ chưa từng sử dụng BPTT nào thấp hơn nhiều so với trong nghiên cứu của tác giả Gupta S(4), 90% chưa từng sử dụng BPTT nào, 6% từng sử dụng DCTC TCu 380A, 4% sử dụng BPTT khác. Tình hình sử dụng DCTC TCu 380A khoảng 50% trong nghiên cứu của tác giả Sucak A(8). Kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế kết hợp với Quỹ liên hiệp quốc tại Việt Nam(7) cho thấy cho thấy khoảng 80,5% phụ nữ hiện đang có gia đình trong độ tuổi 15-49 đang sử dụng một BPTT tại thời điểm khảo sát. Khoảng hai phần ba (64,4%) số phụ nữ đang sống cùng chồng/bạn đời đang sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại và một phần năm (16,1%) hiện đang sử dụng BPTT truyền thống. Phương pháp tránh thai được sử dụng phổ biến nhất là DCTC (25,2%). Hiện trạng sử dụng ít nhất một BPTT trong nghiên cứu này phù hợp với hiện trạng sử dụng BPTT tại Việt Nam. Bảng 5: Tỷ lệ DCTC TCu 380A không đúng vị trí Tác giả Số DCTC không đúng vị trí Phần trăm (%) Gupta S (4) 44 44 Colwill AC (6) 18 10,6 Chúng tôi 101 26,6 Trong số 101 (26,3%) trường hợp DCTC T Cu-380A không đúng vị trí tại thời điểm 6 tuần, bao gồm: 50 phụ nữ rớt DCTC T Cu-380A ra ngoài; 51 phụ nữ có DCTC T Cu-380A sai vị trí. Chúng tôi ghi nhận thấy sử dụng siêu âm để đánh giá vị trí DCTC T-Cu 380A trong lòng tử cung là nguyên nhân gây ra sự khác nhau trong đánh giá tỷ lệ DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí. Việc thấy dây DCTC T-Cu 380A và tự sờ thấy dây chưa đủ bằng chứng để xác định vị trí DCTC T-Cu 380A trong lòng tử cung. Kết quả cho thấy tỷ lệ DCTC TCu 380A không đúng vị trí của chúng tôi là 26,6%, cao hơn so với tỷ lệ của tác giả Colwill AC(6) nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Gupta S(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo định nghĩa ban đầu DCTC TCu 380A không đúng vị trí bao gồm các trường hợp sai vị trí, rớt ra ngoài. Chúng tôi nhận thấy nghiên cứu sử dụng siêu âm cho tất cả phụ nữ tham gia nhằm mục đích đánh giá vị trí DCTC TCu 380A trong lòng tử cung có kết quả tỷ lệ DCTC TCu 380A không đúng vị trí cao hơn so với các nghiên cứu sử dụng tiêu chuẩn lâm sàng (thấy dây và tự sờ thấy dây) trước khi có chỉ định siêu âm. Trong nghiên cứu của tác giả Gupta S(4), tất cả phụ nữ tham gia đều được siêu âm để xác định vị trí DCTC TCu 380A, kết quả khá cao tỷ lệ DCTC TCu 380A không đúng vị trí. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi tiến hành đo khoảng cách từ đỉnh DCTC TCu 380A cho đến bờ trong của lớp nội mạc >3 mm để xác định DCTC TCu 380A sai vị trí. Khác với chúng tôi, tác giả Gupta đã khảo sát chi tiết: DCTC TCu 380A lệch giữa, lệch một bên, ở đoạn dưới, DCTC TCu 380A xoay hướng. Việc đánh giá chi tiết vị trí DCTC TCu 380A trong lòng tử cung có thể làm tỷ lệ DCTC TCu 380A sai vị trí trong nghiên cứu của tác giả Gupta cao hơn so với kết quả của chúng tôi. Việc chỉ đo khoảng cách từ đỉnh DCTC TCu 380A cho đến bờ trong của lớp nội mạc, một số trường hợp DCTC TCu 380A lệch một bên không được ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi. Tác giả Colwil AC(6) đưa ra một số định nghĩa: lưu giữ DCTC TCu 380A là có DCTC TCu 380A đúng vị trí tại thời điểm 6 tuần sau sanh; Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 68 DCTC TCu 380A rớt ra ngoài hoàn toàn là không có DCTC bên trong tử cung và tiền sử lâm sàng phù hợp với trục xuất hoặc chụp X quang bụng xác nhận không có DCTC; DCTC TCu 380A rớt ra ngoài một phần là nhìn thấy DCTC nằm ở cổ ngoài cổ tử cung hoặc siêu âm qua ngã âm đạo cho thấy đầu dưới của DCTC bên dưới lỗ trong của cổ tử cung; DCTC TCu 380A không đúng vị trí là sự dịch chuyển khỏi vị trí thích hợp trong lòng tử cung nhưng trên lỗ trong cổ tử cung. Trong phần kết quả, những trường hợp không quan sát thấy dây được chỉ định siêu âm (14/56 ở nhóm sanh mổ, 13/95 ở nhóm sanh ngã âm đạo). Việc thấy dây và tự sờ thấy dây chưa đủ bằng chứng để xác định vị trí DCTC TCu 380A trong lòng tử cung. Trong số 18 trường hợp DCTC TCu 380A không đúng vị trí được định, 3 phụ nữ được lấy DCTC TCu 380A ra do băng huyết sau sanh ở ngày 0, 11 phụ nữ ghi nhận rớt DCTC TCu 380A ra ngoài trước thời điểm tái khám 6 tuần sau sanh, 2 trường hợp đề nghị lấy DCTC TCu 380A ra, 2 trường hợp lấy DCTC TCu 380A ra do sai vị trí. Trong số 26 phụ nữ không quay lại tái khám, được phòng vấn qua điện thoại, 7 phụ nữ trong số này cho biết tự sờ thấy dây, 8 phụ nữ tin rằng họ vẫn còn DCTC TCu 380A trong tử cung dù họ chưa từng đi khám, siêu âm hay tự sờ thấy dây. Tác giả Colwil AC cho rằng vì chưa có xác định DCTC TCu 380A rớt ra ngoài nên tác giả coi như số phụ nữ này vẫn đang có DCTC TCu 380A lưu giữ. Như vậy tiêu chuẩn đánh giá DCTC TCu 380A đúng vị trí không theo định nghĩa trong phương pháp nghiên cứu. Lý luận nhìn thấy dây hoặc tự sờ thấy dây được coi như DCTC TCu 380A còn trong lòng tử cung. Các nghiên cứu tại Hoa Kỳ chỉ đánh giá rớt DCTC TCu 380A ra ngoài và còn giữ DCTC TCu 380A trong lòng tử cung. Các tác giả định nghĩa DCTC TCu 380A đúng vị trí: DCTC TCu 380A không rớt ra ngoài và quan sát thấy dây DCTC TCu 380A qua khám lâm sàng hoặc siêu âm đúng vị trí đối với các trường hợp không nhìn thấy dây DCTC TCu 380A. Sự khác biệt về định nghĩa có thể xuất phát từ xử trí lâm sàng cho các trường hợp sai vị trí DCTC khác nhau giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Việc quản lý DCTC TCu 380A sai vị trí chưa có khuyến cáo rõ ràng; cần có sự thảo luận giữa phụ nữ và bác sĩ sản - phụ khoa để có thể cùng đưa ra quyết định thống nhất về việc nên giữ DCTC TCu 380A hay lấy DCTC TCu 380A ra. Theo khuyến cáo của ACOG, nếu phụ nữ không có triệu chứng và DCTC TCu 380A nằm trên lỗ trong cổ tử cung, việc lấy DCTC TCu 380A có nhiều khả năng dẫn đến có thai cao hơn là giữ lại DCTC(9). Tương tự, trong nghiên cứu của tác giả Gupta S(4), tỷ lệ DCTC TCu 380A sai vị trí là 44% trong khi đó tỷ lệ rớt DCTC TCu 380A là 9,7%. Điều này cho thấy không phải tất cả DCTC TCu 380A bị sai vị trí sẽ dẫn đến kết cục rớt ra ngoài. Trong nghiên cứu của tác giả Colwil AC(6), DCTC T-Cu 380A không đúng vị trí được định nghĩa là dây DCTC T-Cu 380A không nhìn thấy tại thời điểm khám mỏ vịt, phụ nữ không tự sờ thấy dây DCTC T-Cu 380A, chỉ những trường hợp không quan sát thấy dây DCTC T-Cu 380A mới được chỉ định siêu âm (14/56 ở nhóm sanh mổ, 13/95 ở nhóm sanh ngã âm đạo). Trong khi đó, tất cả phụ nữ tham gia trong nghiên cứu của chúng tôi đều được siêu âm. Tỷ lệ phụ nữ không thấy dây trong nghiên cứu của chúng tôi là 77,8% cao hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Agarwal K(5) (58,3%) và tác giả Hooda R(10) (38%), tương tự với kết quả của tác giả Gonzalez JSR(11) (66,7%). Trong nghiên cứu của tác giả Agarwal K(5), phẫu thuật viên sau khi đặt DCTC T-Cu 380A sát đáy tử cung, sẽ dùng tay đẩy dây của DCTC T-Cu 380A qua lỗ cổ tử cung từ phía trong lòng tử cung. Trong khi đó, trong nghiên cứu của chúng tôi, phẫu thuật viên sẽ dùng kềm hình tim đẩy nhẹ sợi dây của DCTC T-Cu 380A về hướng đoạn dưới tử cung. Sợi dây DCTC T-Cu 380A không được đẩy lọt qua cổ tử cung vì sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm trùng(1). Một số hạn chế của đề tài này là thời gian đánh giá ngắn, không ghi nhận lại các khoảng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 69 các cách từ đỉnh DCTC TCu 380A đến bờ trong của lớp nội mạc ở các trường hợp sai vị trí. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu lần đầu xác định tỷ lệ DCTC TCu 380 A không đúng vị trí khi đặt DCTC ngay sau sanh trên các phụ nữ người Việt Nam. Việc đặt DCTC ngay sau sanh có thể áp dụng cho các đối tượng thực sự không có điều kiện áp dụng các BPTT khác trong thời gian sau sanh hoặc cho các phụ nữ có nhiều khả năng sẽ không quay lại cơ sở y tế để tránh thai. KẾT LUẬN Tỷ lệ không đúng vị trí là 26,3% khi đặt DCTC T-Cu 380A ngay sau sanh. Tỷ lệ dây được quan sát là 22,2%. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Committee Opinion No. 670 (2016). Immediate postpartum long-acting reversible contraception. Obstet Gynecol, 128:e32–e37. 2. Nowitzki KM, Hoimes ML, Chen B, et al (2015). Ultrasonography of intrauterine devices. Ultrasonography, 34(3):183–194. 3. Celen S, Sucak A, Yildız Y, et al (2011). Immediate postplacental insertion of an intra-uterine contraceptive device during cesarean section. Contraception, 84:240–243. 4. Gupta S, Malik S, Sanha R, Shyamsunder S, et al (2014). Association of the position of the copper T 380A as determined by the ultrasonography following its insertion in the immediate postpartum period with the subsequent complications: an observational study. J Obstet Gynaecol India, 64:349–53. 5. Agarwal K, Dewan R, Mittal P, Aggarwal A (2017). Visibility of strings after postplacental intracesarean insertion of CuT380A and Cu375 intrauterine contraceptive device: a randomized comparative study. J Obstet Gynaecol India, 67:324–329. 6. Colwill AC, Schreiber CA, Sammel MD, et al (2018). Six-week retention after post placental copper intrauterine device placement. Contraception, 97:215–218. 7. Bộ y tế -UNFPA (2016). Nghiên cứu đánh giá chất lượng dịch vụ kế hoạch hoá gia đình tại Việt Nam, Hà Nội. UNFPA, pp.8. 8. Sucak A, Ozcan S, Çelen S, et al (2015). Immediate postplacental insertion of a copper intrauterine device: a pilot study to evaluate expulsion rate by mode of delivery. BMC Pregnancy Childbirth, 15:202. 9. American College of Obstetricians and Gynecologists (2016). Committee Opinion No. 672: Clinical Challenges of Long-Acting Reversible Contraceptive Methods. Obstetrics & Gynecology, 128(3):e69-e77. 10. Hooda R, Mann S, Nanda S, et al (2016). Immediate Postpartum Intrauterine Contraceptive Device Insertions in Caesarean and Vaginal Deliveries: A Comparative Study of Follow-Up Outcomes. International Journal of Reproductive Medicine, pp.5. 11. Gonzalez JSR, et al (2015). Ultrasound Surveillance of Intrauterine Devices Placed Immediately After Cesarean Delivery. Obstetrics & Gynecology, 125:67S. Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021
File đính kèm:
ty_le_dung_cu_tu_cung_t_cu_380_a_khong_dung_vi_tri_neu_dat_n.pdf

