Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher
Đặt vấn đề: Béo phì là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.Trong khi đó, chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI có sai lệch. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Dympna Gallagher.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1.936 người dân từ 25-64 tuổi đang sinh sống tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sử dụng công thức của Dympna Gallagher và BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo trong cơ thể. Chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI và tỷ lệ chất béo ước lượng từ công thức của Dympna Gallagher
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher
V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn14 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TỶ LỆ BÉO PHÌ Ở NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT THEO PHÂN LOẠI BMI CỦA WHO VÀ THEO TIÊN ĐOÁN TỶ LỆ CHẤT BÉO CỦA GALLAGHER Lục Duy Lạc1, Nguyễn Văn Chinh1 TÓM TẮT Đặt vấn đề: Béo phì là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.Trong khi đó, chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI có sai lệch. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Dympna Gallagher. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1.936 người dân từ 25-64 tuổi đang sinh sống tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sử dụng công thức của Dympna Gallagher và BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo trong cơ thể. Chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI và tỷ lệ chất béo ước lượng từ công thức của Dympna Gallagher. Kết quả: Tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo trong cơ thể tính từ công thức tiên đoán của Gallagher chiếm 18,8% thấp hơn theo phân loại BMI của WHO (21,6%). Những người được chẩn đoán là béo phì theo phân loại BMI của WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher cao gấp 2,39 lần (KTC95%: 1,58-3,71) so với những người không béo phì theo đánh giá của WHO nhưng béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy vậy, có sự đồng thuận cao về kết quả chẩn đoán béo phì giữa hai phương pháp (hệ số kappa=0,83). Kết luận: Có thể sử dụng công thức của Gallagher để ước lượng tỷ lệ chất béo và để đánh giá béo phì bởi sự đồng thuận cao về chẩn đoán béo phì, hạn chế được những nhược điểm khi chẩn đoán dựa trên BMI. Từ khóa: BMI, tỷ lệ chất béo, béo phì, WHO. ABSTRACT: THE PREVALENCE OF OBESITY PEOPLE BASED ON BODY MASS INDEX CLASSIFICATION ESTABLISHED BY THE WORLD HEALTH ORGANIZATION WITH PREDICTED BODY FAT PERCENTAGE BY GALLAGHER FORMULA IN THU DAU MOT CITY, BINH DUONG PROVINCE Background: Obesity is a significant problem affecting of public health in Vietnam. While body mass index (BMI) is widely used to diagnose obesity, its use for this occupational group has raised concerns about validity. Objectives: To determine the rate of obesity people based on BMI classification established by the World Health Organization with predicted body fat percentage by Gallagher formula in Thu Dau Mot City, Binh Duong Province in 2012. Method: Using a cross-sectional descriptive study was carried out on 1.934 people aged 25-64 in Thu Dau Mot City, Binh Duong Province. Body fat percentage prediction equations were developed based on BMI classification and the Gallagher formula. Obesity diagnosis based on BMI classification and body fat percentage by the Gallagher formula. Results: The rate of obesity people based on body mass index classification established by the World Health Organization was 21.6% and body fat percentage by Gallagher was 18.8%. The people who were diagnosed obesity based on body mass index classification established by the World Health Organization but did not obesity by Gallagher formula were 2.39 times higher (95% CI: 1.58-3.71, p<0.05) than those who were diagnosed obesity by Gallagher formula but did not obesity based on body mass index classification. However, there was a high consensus on the obesity diagnosis between the two methods (kappa = 0.83). Conclusion: This proposed approach and findings provide the groundwork and stimulus for predicting body fat percentage and diagnosing obesity by Gallagher formula, can overcome the the limitations and inaccuracies of BMI. Keywords: BMI, body fat percentage, obesity, WHO. 1. Sở Y tế Bình Dương Ngày nhận bài: 01/02/2017 Ngày phản biện: 10/02/2017 Ngày duyệt đăng: 15/02/2017 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 15 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE I. ĐẶT VẤN ĐỀ Thừa cân, béo phì là gánh nặng y tế không loại trừ bất cứ quốc gia nào bởi nó làm tăng tỷ lệ tử vong và tăng nguy cơ mắc bệnh của hàng loạt bệnh nguy hiểm như cao huyết áp, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa, tim mạch... Thừa cân và béo phì có thể phòng ngừa được chủ yếu vào việc thay đổi lối sống về chế độ ăn uống và luyện tập nhưng việc điều trị lại rất khó khăn, tốn kém và hầu như kết quả không cao [15]. Để chẩn đoán béo phì phải dựa vào các căn cứ chứng minh sự gia tăng quá mức lượng mỡ thừa như các triệu chứng lâm sàng (tăng cân, thèm ăn vô độ, vận động hạn chế, hoặc có rối loạn tâm lý...; đo tỷ lệ chất béo [bằng máy X-quang năng lượng kép DXA (Dual-energy X-ray Absorptionmetry), bằng phân tích trở kháng điện sinh học, bằng chụp cộng hưởng từ, bằng chụp cắt lớp]; tính chỉ số khối cơ thể; Đo chu vi vòng eo, hông và tỷ lệ eo hông hoặc một số phương pháp để đánh giá cân nặng lý tưởng như công thức Bruck, công thức Bongard, công thức Lorentz, công thức Broca, công thức của cơ quan bảo hiểm Mỹ... đối với trẻ em, đánh giá béo phì dựa vào chỉ số cân nặng và chiều cao theo tiêu chuẩn quần thể chuẩn của WHO (đối với trẻ 3 – dưới 5 tuổi), với trẻ từ 5-19 tuổi thì dựa vào chỉ số BMI theo tuổi so sánh với quần thể chuẩn của WHO. Đồng thời, việc thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng khác như các xét nghiệm sinh hóa, huyết học, điện tim, X-quang tim phổi... chỉ là những căn cứ để tiên lượng bệnh hoặc xác định các bệnh lý kèm theo [15, 17]. Như đã biết, trọng lượng cơ thể người được tính dựa trên chất nạc, chất béo, xương và các mô liên kết và nước. Do đó, để chẩn đoán béo phì chính xác thì nhất thiết phải dựa vào bất thường về tỷ lệ chất béo trong cơ thể (lượng chất béo chia cho trọng lượng cơ thể và nhân cho 100 để cho ra tỉ lệ chất béo) nhưng phương pháp này đòi hỏi chi phí, kỹ thuật rất cao ở các trung tâm lớn và không phổ biến ở các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam và được sử dụng chủ yếu được trong nghiên cứu khoa học vì tính chính xác cao. Hiện nay, chỉ số khối cơ thể (BMI: Body mass index) được tính bằng cân nặng/(chiều cao)2 là một chỉ số rất cơ bản và phổ biến trong đánh giá tình trạng thừa cân béo phì. Theo khuyến cáo của WHO thì chỉ số BMI được dùng để đo độ béo của cơ thể người và có hai tiêu chuẩn riêng biệt cho người Âu-Mỹ [béo phì khi BMI ≥30 kg/(m2)] và người Châu Á [béo phì khi BMI ≥25 kg/(m2)] [17]. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp chẩn đoán béo phì dựa trên BMI là không phân biệt được cơ thể nặng do mỡ hay do cơ (các bộ môn thể thao như thể hình, đấu sĩ, vệ sĩ... thường có khối lượng cơ rất lớn trong cơ thể và theo cách đánh giá này có thể được chẩn đoán béo phì nhưng thực sự tỷ lệ chất béo trong cơ thể họ thấp). Để giải quyết hạn chế này, trong chẩn đoán béo phì bác sĩ thường thực hiện đánh giá thêm vòng eo, chỉ số eo/ hông hoặc một số phương pháp đánh giá cân nặng lý tưởng... [11, 15]. Nhưng sự kết hợp giữa các phương pháp này không thể đo lường tỷ lệ chất béo trong cơ thể. Tiếp sau các nghiên cứu của Dympna Gallagher và cộng sự, các nghiên cứu khác trên thế giới và ngay tại Việt Nam đến nay đều khẳng định có sự tương quan giữa BMI và lượng chất béo trong cơ thể [1, 3-14, 16] và mức độ tương quan này phụ thuộc vào phương pháp đo lường chất béo, vào từng vùng, quốc gia [5]. Do vậy, có thể dựa vào BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo trong cơ thể và dùng tỷ lệ chất béo này (dựa trên BMI) đế đánh giá béo phì [6]. Từ những phân tích chứng cứ, ưu điểm của việc đánh giá béo phì của công thức ước lượng tỷ lệ chất béo dựa trên BMI mà Dympna Gallagher đề nghị. Nghiên cứu này được tiến hành xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một dựa trên phân loại BMI của WHO và dựa vào tỷ lệ chất béo trong cơ thể ước lượng từ công thức của Dympna Gallagher nhằm cung cấp những chứng cứ chắc chắn hơn phục vụ công tác chăm sóc y tế trên địa bàn cũng như là một trong những cơ sở nhìn nhận ưu-khuyết của phương pháp chẩn đoán béo phì đang áp dụng phổ biến dựa trên phân loại BMI của WHO. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Dympna Gallagher. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.936 người từ 25 đến 64 tuổi đang sinh sống tại thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương năm 2012, kể cả người tạm trú trên 06 tháng được chọn vào nghiên cứu bằng kỹ thuật chọn mẫu PPS [bước 1: chọn cụm ngẫu nhiên theo dân số khu phố/ấp; bước 2: chọn 8 đối tượng nghiên cứu bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống trong từng nhóm tuổi (25- 34, 35-44, 45-54, 55-64) và giới tính trên danh sách. Sau khi lập danh sách những đối tượng được chọn chính thức, để tránh mất mẫu trong nghiên cứu một danh sách dự bị cũng được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống cho mỗi nhóm tuổi của mỗi giới là 3 người để bù vào những người được chọn chính thức nhưng không tham gia tham gia]. Những người mắc bệnh tâm thần; mắc các hội chứng phù gặp trong hội chứng thận hư, hội chứng sơ gan cổ chướng, suy tim... ; hội chứng rối loạn chuyển hóa (cushing); người có các khối u mỡ; người bị tật ảnh hưởng đến việc cân đo như gù, vẹo cột sống, thương tật ở chân; người tạm trú dưới 6 tháng; vắng mặt trong đợt nghiên cứu cuối cùng, đối tượng đã nhận thư mời lần 2 và đồng ý tham gia nhưng vắng mặt là những người không được chọn vào nghiên cứu. V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn16 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tất cả các đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thói quen vận động, ăn uống... được đo chiều cao, cân nặng, vòng eo, vòng hông bằng những dụng cụ đã được hiệu chuẩn (đo ba lần cho từng chỉ số lấy giá trị trung bình), xét nghiệm mỡ máu, đường huyết... Tỷ lệ chất béo trên 25% đối với nam và trên 35% đối với nữ thì được chẩn đoán là béo phì và được ước lượng theo công thức sau: - Đối với nam: Tỷ lệ chất béo = 51,9 – 740/BMI + 0,029*Tuổi [6]. - Đối với nữ: Tỷ lệ chất béo = 64,8 – 752/BMI + 0,016*Tuổi [6]. Tất cả các dữ liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý trên Stata 10.0. Dữ kiện được trình bày theo tỷ lệ (tính trên xác suất chọn mẫu của từng đối tượng trong nghiên cứu). Dùng hệ số kappa để đánh giá sự đồng thuận giữa hai phương pháp chẩn đoán, sử dụng kiểm định Chi McNemar để so sánh những bất tương đồng về xác định tình trạng béo phì của hai phương pháp chẩn đoán. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Tỷ lệ % Giới tính Nam 47,3 Nữ 52,7 Dân tộc Kinh 98,6 Khác 1,4 Nhóm tuổi 25- 34 tuổi 39,0 35-44 tuổi 28,0 45-54 tuổi 20,4 55-64 tuổi 12,6 Nghề nghiệp Tự làm chủ 28,2 Công nhân viên phi Chính phủ 27,2 Nội trợ 20,8 Công nhân viên nhà nước 12,8 Không có việc làm (có thể có việc) 3,7 Nghỉ hưu 2,9 Thất nghiệp (không thể có việc) 1,9 Làm không công 1,8 Sinh viên 0,7 Khu vực Thành thị 83,2 Vùng ven 16,8 Vòng eo Cao 71,4 Bình thường 28,6 Tỷ số eo hông Cao 57,5 Bình thường 42,5 Tỷ lệ nữ trong nghiên cứu là 52,7%, đa số là dân tộc Kinh 98,6%, nhóm tuổi tham gia nghiên cứu có tỷ lệ cao nhất là 25-34 tuổi chiếm 39,0% và nhóm tuổi 55-64 chiếm tỷ lệ thấp nhất 12,6%. Tỷ lệ người tự làm chủ và nhân viên phi Chính phủ chiếm hơn 50% đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ người là nội trợ cũng chiếm tỷ lệ cao 20,8%, trong khi tỷ lệ công nhân viên nhà nước chỉ chiếm 12,6% và tỷ lệ thấp nhất là sinh viên chiếm 0,7%. Đa số đối tượng nghiên cứu sống ở thành thị (83,2%), có tỷ lệ vòng eo cao bất thường là 71,4% và tỷ số eo hông cao là 57,5%. Bảng 2. Các đặc điểm sinh hóa máu đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Tỷ lệ % Cholesterol toàn phần ≤ 5,2 mmol/l 51,9 > 5,2 mmol/l 48,1 Triglycerid ≤ 1,7 mmol/l 46,9 >1,7 mmol/l 53,1 LDL ≤ 3,4 mmol/l 39,5 >3,4 mmol/l 60,5 HDL ≥ 1 mmol/l 48,4 < 1 mmol/l 51,6 Đường huyết ≥ 7 mmol/l 4,8 < 7 mmol/l 95,2 Tỷ lệ người đái tháo đường là 4,8%, những người có HDL ≥ 1 mmol/l chiếm 48,4% và khoảng trên ½ đối tượng có bất thường về Cholesterol toàn phần, Triglycerid và LDL Bảng 3. Tỷ lệ béo phì theo 2 tiêu chuẩn đánh giá và theo các đặc tính Đặc điểm Tỷ lệ béo phì % Dựa trên BMI của WHO Dựa trên Gallagher về tỷ lệ chất béo Giới tính Nam 20,0 11,3 Nữ 23,1 25,5 Dân tộc Kinh 21,7 18,9 Khác 17,1 14,1 Nhóm tuổi 25- 34 tuổi 22,0 17,6 35-44 tuổi 26,6 23,3 45-54 tuổi 26,7 28,5 55-64 tuổi 15,6 19,1 Nghề nghiệp Công nhân viên nhà nước 21,7 17,9 Công nhân viên phi Chính phủ 18,2 14,1 Tự làm chủ 25,0 20,0 SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 17 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE Đặc điểm Tỷ lệ béo phì % Dựa trên BMI của WHO Dựa trên Gallagher về tỷ lệ chất béo Nghề nghiệp Làm không công 10,7 7,4 Sinh viên 16,6 16,6 Nội trợ 24,5 27,2 Nghỉ hưu 23,5 19,4 Không có việc làm (có thể có việc) 15,8 9,2 Thất nghiệp (không thể có việc) 8,8 9,4 Khu vực Thành thị 21,5 18,7 Vùng ven 21,8 19,3 Chung 21,6 18,8 Tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo trong cơ thể tính từ công thức tiên đoán của Gallagher chiếm 18,8% thấp hơn theo phân loại BMI của WHO (21,6%). Tỷ lệ béo phì theo phân loại BMI của WHO ở nam giới, nhóm tuổi 25-34, tự làm chủ, không có việc làm (có thể làm việc) cao hơn so với tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo tính từ công thức tiên đoán của Gallagher (tương ứng 20% và 11,3%; 22% và 17,6%; 25% và 20%; 15,8% và 9,2%). Trong khi đó, tỷ lệ béo phì theo phân loại BMI của WHO của nữ, nhóm tuổi 55- 64, nội trợ lại thấp hơn (tương ứng 23,1% và 25,5%; 15,6% và 19,1%; 24,5% và 27,2%) Bảng 4. Phân bố tỷ lệ béo phì ở công thức tiên đoán của Gallagher theo phân loại BMI của WHO Các yếu tố Phân loại BMI của WHO (kg/m2) Tần số (tỷ lê%) <18,5 18,5-<23 23-<25 ≥25 Béo phì theo Gallagher Béo 0(0) 0(0) 33(7,8) 365(82,2) Không 896(100) 170(100) 391(92,2) 79(17,8) Bảng 5. Sự khác biệt giữa việc chẩn đoán béo phì theo phân loại BMI của WHO và mô hình tiên đoán tỷ lệ chất béo của Gallagher Các yếu tố Tỷ lệ chất béo theo Gallagher [tần số (tỷ lệ%) OR p Béo Không 23-<25 ≥25 Phân loại của WHO về BMI Béo 365 (82,2) 79(18,8) 2,39(1,58- 3,71) <0,001 Không 33(2,2) 1457(97,8) *Hệ số kappa=0,83 Theo công thức tiên đoán của Gallagher (về tỷ lệ chất béo dựa trên BMI) thì đối với những người có BMI nhỏ hơn 23 kg/m2 không có trường hợp nào xác định béo phì. Tuy nhiên, đối với những người có BMI từ 23-<25 kg/m2 có đến 7,8% béo phì và những người có BMI từ 25 kg/m2 chỉ có 82,2% béo phì. Những người được chẩn đoán là béo phì theo phân loại BMI của WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher cao gấp 2,39 lần (KTC95%: 1,58-3,71) so với những người không béo phì theo đánh giá của WHO nhưng béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy vậy, có sự đồng thuận cao về kết quả chẩn đoán béo phì giữa hai phương pháp (hệ số kappa=0,83). IV. BÀN LUẬN Chẩn đoán béo phì muốn chính xác nhất thiết phải đo tỷ lệ chất béo trong cơ thể nhưng chưa thể áp dụng rộng rãi phương pháp này cho cộng đồng. Mặt khác, các nghiên cứu cho thấy có sự tương quan rất mạnh giữa BMI và tỷ lệ chất béo trong cơ thể, sử dụng BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo trong cơ thể với độ chính xác cao. Tuy vậy, WHO chỉ hướng dẫn chẩn đoán béo phì dựa trên BMI (mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất hoàn toàn ngưỡng BMI để chẩn đoán béo phì V IỆN SỨ C K HỎE CỘNG ĐỒ NG SỐ 37- Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn18 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC cho người Châu Á để đánh giá hậu quả sức khỏe của thừa cân béo phì [2, 17]). Việc sử dụng BMI để tiên đoán tỷ lệ chất béo và sử dụng tỷ lệ chất béo này để đánh giá béo phì đã được công bố rộng rãi trong nhiều hội nghị kể cả những hội nghị do WHO tổ chức nhưng chưa có những hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Nhiều tác giả trong đó có cả chuyên gia của WHO công nhận việc sử dụng BMI để tiên đoán tỷ lệ chất béo trong cơ thể và dùng kết quả này để chẩn đoán béo phì [1, 3-13, 16]. Tuy vậy, một số ít tác giả còn băn khoăn về ngưỡng tỷ lệ chất béo để chẩn đoán béo phì cho từng chủng tộc, quốc gia nhưng chưa đưa ra những chứng cứ thuyết phục cho những đề nghị để thay đổi ngưỡng chẩn đoán béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo theo từng chủng tộc, quốc gia... Trong khi, WHO hướng dẫn sử dụng BMI để chẩn đoán thừa cân, béo phì riêng biệt cho cả người châu Á và châu Âu thì những hướng dẫn chẩn đoán béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo chưa rõ ràng (lấy ngưỡng tỷ lệ chất béo trên 25% đối với nam và trên 35% đối với nữ là béo phì nhưng ngưỡng cho từng một quốc gia, dân tộc thì chưa có nhiều công bố). Một nghiên cứu về tương quan giữa BMI và tỷ lệ chất béo tại TPHCM vào năm 2011 đề nghị ngưỡng để chẩn đoán béo phì trên người Việt Nam là trên 30% đối với nam và trên 40% [14] đối với nữ với lý do ngưỡng chẩn đoán béo phì dựa vào tỷ lệ chất béo của WHO dựa trên quần thể có BMI≥30 trong khi ngưỡng chẩn đoán béo phì cho các nước châu Á là BMI≥25 [17]. Hơn nữa, ngưỡng tỷ lệ chất béo để chẩn đoán béo phì đã được công nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Do vậy, nếu cần những điều chỉnh ngưỡng tỷ lệ chất béo trong chẩn đoán béo phì thì cần cung cấp những chứng cứ khác bởi nghiên cứu được tiến hành ở TPHCM không nghiên cứu về hậu quả sức khỏe tương ứng với những ngưỡng tỷ lệ chất béo khác nhau. Mặt khác, chỉ có BMI phụ thuộc vào tỷ lệ chất béo chứ không xảy ra điều ngược lại, vì vậy lập luận đề nghị thay đổi ngưỡng chẩn đoán béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo cho người Việt Nam chưa xác đáng. Các nghiên cứu trong nước về tỷ lệ thừa cân béo phì thường tập trung ở đối tượng trẻ em. Theo điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ do Tổng cục Thống kê phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc và Quỹ Dân số Liên Hiệp quốc thực hiện cho thấy tỷ lệ béo phì ở trẻ em khu vực Đông Nam Bộ năm 2011 là 10,6%, kết quả nghiên cứu tại thành phố Thủ Dầu Một năm 2012 về tỷ lệ thừa cân béo phì học sinh tiểu học là 47,2% (thừa cân 22,8% và béo phì 24,4%). Theo nghiên cứu của chúng tôi thì khoảng 1/5 người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một béo phì. Như vậy, thừa cân, béo phì đang trở thành mối nguy cho sức khỏe người dân thành phố Thủ Dầu Một nói riêng, cho sức khỏe toàn cầu nói chung [17]. Tỷ lệ béo phì theo phân loại của WHO cao hơn công thức tiên đoán của Gallagher (bảng 3). Điều này phù hợp khi có nhiều đối tượng được chọn vào nghiên cứu có khối cơ lớn (như những vận động viên hoặc ngành nghề thường xuyên sử dụng cơ bắp như vận động viên thể hình, bóng đá, xe đạp, võ các loại, vệ sĩ...). Bởi nhược điểm lớn nhất của đánh giá béo phì dựa trên BMI là không phân biệt được nặng do mỡ, cơ hay xương. Cùng một chiều cao và cân nặng nhưng phân bố khối cơ hoặc khối mỡ khác nhau và điều khác biệt này cho thấy tỷ lệ mỡ trong cơ thể của một người cùng một chiều cao và cân nặng cũng khác nhau và nếu dùng BMI để đánh giá béo phì sẽ mắc phải sai lầm khi chọn đối tượng có khối cơ xương lớn. Phân tích tỷ lệ béo phì theo giới tính, nhóm tuổi của nghiên cứu này cũng cố những lập luận trên. Trong khi tỷ lệ béo phì ở nữ giữa hai phương pháp chẩn đoán khác biệt không nhiều (cao hơn theo Gallagher, 25,5% so với 23,1%) thì tỷ lệ này ở nam theo cách đánh giá ở công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo của Gallagher lại thấp hơn rất nhiều (11,3% so với 20%). Có thể nam giới thường có khối lượng cơ lớn hơn do thói quen vận động và luyện tập thể thao đòi hỏi sử dụng cơ bắp. Do vậy, cân nặng sẽ nặng hơn và do đó BMI sẽ cao nhưng thực chất là tỷ lệ chất béo trong cơ thể của họ nằm dưới ngưỡi cho phép (từ 25% trở xuống) và càng nhiều đối tượng có điều kiện trên được đưa vào nghiên cứu thì tỷ lệ béo phì theo cách phân loại dựa trên BMI sẽ cao hơn dựa trên tỷ lệ chất béo. Hơn nữa, theo kết quả (bảng 4) cho thấy những người được đánh giá là thừa cân theo cách phân loại của WHO (BMI từ 23-<25,0 kg/m2) [17] thì có 7,8% béo phì theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của Gallagher. Do vậy, việc đánh giá béo phì dựa trên phân loại BMI của WHO chưa phù hợp trong một số trường hợp (sai lầm khi đối tượng chẩn đoán có khối lượng cơ xương lớn và bỏ sót những người béo phì mà có BMI thấp). Mặc dù, giá trị tiên đoán giữa 2 phương pháp chẩn đoán béo phì dựa trên BMI của WHO và chẩn đoán béo phì dựa vào kết quả tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Gallagher rất cao (giá trị ROC>85%) và hai test chẩn đoán này rất tương đồng trong việc chẩn đoán béo phì (kappa=0,83) nhưng sự khác biệt giữa hai phương pháp này chủ yếu là sự khác biệt từ những người được chẩn đoán là béo phì theo đánh giá của WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher với những người không béo phì theo đánh giá của WHO nhưng béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher (bảng 5). Sự khác biệt này xuất phát từ nhược điểm của chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI của WHO (không phân biệt nặng do cơ xương hay chất béo). Tóm lại, chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI theo hướng dẫn của WHO còn bất cập. Hơn nữa, mức độ tương SỐ 37 - Tháng 3+4/2017 Website: yhoccongdong.vn 19 2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE quan giữa BMI và tỷ lệ chất béo trong cơ thể phụ thuộc vào phương pháp đánh giá tỷ lệ chất béo trong cơ thể, vào từng vùng và quốc gia [5]. Đồng thời, không nên sử dụng riêng biệt BMI cho việc đánh giá gánh nặng bệnh tật cũng như trong chẩn đoán và điều trị béo phì [11]. Và công thức ước lượng tỷ lệ chất béo của Gallagher dựa trên BMI với độ chính xác cao lại dễ dàng sử dụng [6]. Do vậy, có thể sử dụng công thức này để ước lượng tỷ lệ chất béo và dùng đồng thời công thức này để đánh giá béo phì bởi sự đồng thuận cao (hệ số kappa là 0,83), hạn chế được những nhược điểm khi chẩn đoán dựa trên BMI. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1.Catherine L, Carpater, Eric Yan. Body fat and body-mass index among a multiethnic sample of college -age men and women. Jounal of Obesity (2013). 2. Chamukutan Snehalatha, Vijay Viswanathan, Ambady Ramachandran. Cutoff values for normal anthropometric variables in Asian Indian Adults. Diabetes Care (2003). 26(5): 1380-1384. 3. Chandrasekharan Nair Kesavachadran, Vipin Bilhari & Neeraj Mathur. The normal range of body mass index with high body fat percentage among male residents of Lucknow city in north India. Indian Jounal Medicine (2012). 135: 72-77. 4. Chang CJ, Wu CH, Yao WJ, Yang YC, Wu JS, Lu FH. Low body mass index but high percent body fat in Taiwanese subjects: implications of obesity cutoffs. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders (2003); 27:253-9. 5. Deurenberg P, Deurenberg-Yap M, van Staveren WA. Body mass index and percent body fat: a meta analysis among different ethnic groups. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders (1998); 22:1164-1171. 6. Gallagher D, Heymsfield SB, Heo M, Jebb SA, Murgatroyd PR, Sakamoto Y. Healthy percentage body ranges: an approach for developing guidelines based on body mass index. American Journal of Clinical Nutrition 2000; 72:694-791. 7. Khaula Noreen. Comparision of predicted body fatness from body mass index and from bioelectric impadance analysis among healthy females. International Jounal of Advancements in Research & Technology (2014). 3(11): 80-90. 8. Luiz Antonio Dos Anjos, Fabiana da Costa Teixeira, Vivian Wahrlich. Body fat percentage and body mass index in a probablity sample of an adult urban population in Brazil. Artigo Article (2013). 29(1): 73-81. 9. Maryam Abolhasani, Sahar Dehghani, Tahereh Yazdani. Does Body fat percentage associate with age and Body mass index. International research Jounal of applied and basic sciences (2013). 5(10). 1307-1311. 10. Michael Zanovec, Jing Wang, Carol E. Development and comparition of two field-based body fat prediction equation: NHANES 199-2004. International Journal of Exercise Science (2012). 5(3): 223-231. 11. Ottavia Colombo, Simona Villani, Giovana Pinelli. To treat or not to treat: Comparition of different criteria used to determine whether weight loss is to be recommended. Nitrition Jounal (2008). 12. RYT Sung, HK SO, AM Li. Body fat measured by bioelectrical impendance in Hong Kong Chinese children. Hong Kong Medicine Jounal (2009); 15:110-7. 13. Sochung Chung, Mi-Yeon Song, Hyun-Dae Kim. Korean and Caucasian Premenopausal women have different relationship of body mass index to percent body fat with age. Journal Applied Physican (2005). 99: 103-107. 14. Thuy VT, Chau TT, Cong ND, De DV, Nguyen TV. Assessment of low bone mass in Vietnamese: comparison of QUS calcaneal ultrasonometer and data-derived T-scores. Journal of Bone and Mineral Metabolism 2003; 21: 114-119 15. Trịnh Hồng Sơn, Vũ Đại Quế, Nguyễn Tiến Thành và cộng sự. Chẩn đoán và điều trị béo phì. Tạp chí Y học Thực hành (2013). 870(5): 168-173. 16. Verma V, Soni A, Joglekar A. Relationship between body mass index and percent body fat among females of Raipur city. British Journal of Applied Science & Technology (2015). 8(2): 213-218. 17. WHO Expert Consultation. Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and intervention strategies. Lancet (2004); 363:157-163.
File đính kèm:
ty_le_beo_phi_o_nguoi_dan_thanh_pho_thu_dau_mot_theo_phan_lo.pdf

