Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher

Đặt vấn đề: Béo phì là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.Trong khi đó, chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI có sai lệch. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Dympna Gallagher.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trên 1.936 người dân từ 25-64 tuổi đang sinh sống tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sử dụng công thức của Dympna Gallagher và BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo trong cơ thể. Chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI và tỷ lệ chất béo ước lượng từ công thức của Dympna Gallagher

pdf 6 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher

Tỷ lệ béo phì ở người dân thành phố Thủ Dầu Một theo phân loại BMI của who và theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của gallagher
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn14
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 TỶ LỆ BÉO PHÌ Ở NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT 
THEO PHÂN LOẠI BMI CỦA WHO VÀ THEO TIÊN ĐOÁN 
TỶ LỆ CHẤT BÉO CỦA GALLAGHER
 Lục Duy Lạc1, Nguyễn Văn Chinh1
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Béo phì là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng 
đến sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam.Trong khi đó, chẩn 
đoán béo phì dựa trên phân loại BMI có sai lệch. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 
tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại 
BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên 
BMI của Dympna Gallagher.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 
được tiến hành trên 1.936 người dân từ 25-64 tuổi đang sinh 
sống tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Sử dụng 
công thức của Dympna Gallagher và BMI để ước lượng tỷ lệ 
chất béo trong cơ thể. Chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại 
BMI và tỷ lệ chất béo ước lượng từ công thức của Dympna 
Gallagher.
Kết quả: Tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo trong cơ 
thể tính từ công thức tiên đoán của Gallagher chiếm 18,8% 
thấp hơn theo phân loại BMI của WHO (21,6%). Những 
người được chẩn đoán là béo phì theo phân loại BMI của 
WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên đoán của 
Gallagher cao gấp 2,39 lần (KTC95%: 1,58-3,71) so với 
những người không béo phì theo đánh giá của WHO nhưng 
béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher, sự khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy vậy, có sự đồng thuận 
cao về kết quả chẩn đoán béo phì giữa hai phương pháp (hệ 
số kappa=0,83).
Kết luận: Có thể sử dụng công thức của Gallagher để 
ước lượng tỷ lệ chất béo và để đánh giá béo phì bởi sự đồng 
thuận cao về chẩn đoán béo phì, hạn chế được những nhược 
điểm khi chẩn đoán dựa trên BMI.
Từ khóa: BMI, tỷ lệ chất béo, béo phì, WHO.
ABSTRACT: 
THE PREVALENCE OF OBESITY PEOPLE BASED ON 
BODY MASS INDEX CLASSIFICATION ESTABLISHED 
BY THE WORLD HEALTH ORGANIZATION WITH 
PREDICTED BODY FAT PERCENTAGE BY 
GALLAGHER FORMULA IN THU DAU MOT CITY, 
BINH DUONG PROVINCE
Background: Obesity is a significant problem affecting 
of public health in Vietnam. While body mass index (BMI) is 
widely used to diagnose obesity, its use for this occupational 
group has raised concerns about validity.
Objectives: To determine the rate of obesity people based 
on BMI classification established by the World Health 
Organization with predicted body fat percentage by Gallagher 
formula in Thu Dau Mot City, Binh Duong Province in 2012. 
Method: Using a cross-sectional descriptive study was 
carried out on 1.934 people aged 25-64 in Thu Dau Mot City, 
Binh Duong Province. Body fat percentage prediction equations 
were developed based on BMI classification and the Gallagher 
formula. Obesity diagnosis based on BMI classification and 
body fat percentage by the Gallagher formula.
Results: The rate of obesity people based on body mass 
index classification established by the World Health Organization 
was 21.6% and body fat percentage by Gallagher was 18.8%. The 
people who were diagnosed obesity based on body mass index 
classification established by the World Health Organization but 
did not obesity by Gallagher formula were 2.39 times higher 
(95% CI: 1.58-3.71, p<0.05) than those who were diagnosed 
obesity by Gallagher formula but did not obesity based on 
body mass index classification. However, there was a high 
consensus on the obesity diagnosis between the two methods 
(kappa = 0.83).
Conclusion: This proposed approach and findings 
provide the groundwork and stimulus for predicting body 
fat percentage and diagnosing obesity by Gallagher formula, 
can overcome the the limitations and inaccuracies of BMI.
Keywords: BMI, body fat percentage, obesity, WHO.
1. Sở Y tế Bình Dương
Ngày nhận bài: 01/02/2017 Ngày phản biện: 10/02/2017 Ngày duyệt đăng: 15/02/2017
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 15
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa cân, béo phì là gánh nặng y tế không loại trừ bất cứ 
quốc gia nào bởi nó làm tăng tỷ lệ tử vong và tăng nguy cơ 
mắc bệnh của hàng loạt bệnh nguy hiểm như cao huyết áp, 
tiểu đường, rối loạn chuyển hóa, tim mạch... Thừa cân và 
béo phì có thể phòng ngừa được chủ yếu vào việc thay đổi 
lối sống về chế độ ăn uống và luyện tập nhưng việc điều trị 
lại rất khó khăn, tốn kém và hầu như kết quả không cao [15]. 
Để chẩn đoán béo phì phải dựa vào các căn cứ chứng minh 
sự gia tăng quá mức lượng mỡ thừa như các triệu chứng lâm 
sàng (tăng cân, thèm ăn vô độ, vận động hạn chế, hoặc có 
rối loạn tâm lý...; đo tỷ lệ chất béo [bằng máy X-quang năng 
lượng kép DXA (Dual-energy X-ray Absorptionmetry), bằng 
phân tích trở kháng điện sinh học, bằng chụp cộng hưởng từ, 
bằng chụp cắt lớp]; tính chỉ số khối cơ thể; Đo chu vi vòng 
eo, hông và tỷ lệ eo hông hoặc một số phương pháp để đánh 
giá cân nặng lý tưởng như công thức Bruck, công thức Bongard, 
công thức Lorentz, công thức Broca, công thức của cơ quan 
bảo hiểm Mỹ... đối với trẻ em, đánh giá béo phì dựa vào chỉ 
số cân nặng và chiều cao theo tiêu chuẩn quần thể chuẩn 
của WHO (đối với trẻ 3 – dưới 5 tuổi), với trẻ từ 5-19 tuổi 
thì dựa vào chỉ số BMI theo tuổi so sánh với quần thể chuẩn 
của WHO. Đồng thời, việc thực hiện các xét nghiệm cận lâm 
sàng khác như các xét nghiệm sinh hóa, huyết học, điện tim, 
X-quang tim phổi... chỉ là những căn cứ để tiên lượng bệnh 
hoặc xác định các bệnh lý kèm theo [15, 17]. 
Như đã biết, trọng lượng cơ thể người được tính dựa trên 
chất nạc, chất béo, xương và các mô liên kết và nước. Do đó, 
để chẩn đoán béo phì chính xác thì nhất thiết phải dựa vào 
bất thường về tỷ lệ chất béo trong cơ thể (lượng chất béo chia 
cho trọng lượng cơ thể và nhân cho 100 để cho ra tỉ lệ chất 
béo) nhưng phương pháp này đòi hỏi chi phí, kỹ thuật rất cao 
ở các trung tâm lớn và không phổ biến ở các nước trên thế 
giới cũng như tại Việt Nam và được sử dụng chủ yếu được 
trong nghiên cứu khoa học vì tính chính xác cao. 
Hiện nay, chỉ số khối cơ thể (BMI: Body mass index) 
được tính bằng cân nặng/(chiều cao)2 là một chỉ số rất cơ 
bản và phổ biến trong đánh giá tình trạng thừa cân béo phì. 
Theo khuyến cáo của WHO thì chỉ số BMI được dùng để đo 
độ béo của cơ thể người và có hai tiêu chuẩn riêng biệt cho 
người Âu-Mỹ [béo phì khi BMI ≥30 kg/(m2)] và người Châu 
Á [béo phì khi BMI ≥25 kg/(m2)] [17]. Tuy nhiên, nhược 
điểm của phương pháp chẩn đoán béo phì dựa trên BMI là 
không phân biệt được cơ thể nặng do mỡ hay do cơ (các bộ 
môn thể thao như thể hình, đấu sĩ, vệ sĩ... thường có khối 
lượng cơ rất lớn trong cơ thể và theo cách đánh giá này có thể 
được chẩn đoán béo phì nhưng thực sự tỷ lệ chất béo trong cơ 
thể họ thấp). Để giải quyết hạn chế này, trong chẩn đoán béo 
phì bác sĩ thường thực hiện đánh giá thêm vòng eo, chỉ số eo/
hông hoặc một số phương pháp đánh giá cân nặng lý tưởng... 
[11, 15]. Nhưng sự kết hợp giữa các phương pháp này không 
thể đo lường tỷ lệ chất béo trong cơ thể. 
Tiếp sau các nghiên cứu của Dympna Gallagher và cộng 
sự, các nghiên cứu khác trên thế giới và ngay tại Việt Nam 
đến nay đều khẳng định có sự tương quan giữa BMI và lượng 
chất béo trong cơ thể [1, 3-14, 16] và mức độ tương quan 
này phụ thuộc vào phương pháp đo lường chất béo, vào từng 
vùng, quốc gia [5]. Do vậy, có thể dựa vào BMI để ước lượng 
tỷ lệ chất béo trong cơ thể và dùng tỷ lệ chất béo này (dựa 
trên BMI) đế đánh giá béo phì [6]. Từ những phân tích chứng 
cứ, ưu điểm của việc đánh giá béo phì của công thức ước 
lượng tỷ lệ chất béo dựa trên BMI mà Dympna Gallagher đề 
nghị. Nghiên cứu này được tiến hành xác định tỷ lệ béo phì 
của người dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một dựa 
trên phân loại BMI của WHO và dựa vào tỷ lệ chất béo trong 
cơ thể ước lượng từ công thức của Dympna Gallagher nhằm 
cung cấp những chứng cứ chắc chắn hơn phục vụ công tác 
chăm sóc y tế trên địa bàn cũng như là một trong những cơ 
sở nhìn nhận ưu-khuyết của phương pháp chẩn đoán béo phì 
đang áp dụng phổ biến dựa trên phân loại BMI của WHO. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ béo phì của người dân 25-64 
tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một vào năm 2012 theo phân loại 
BMI của WHO và công thức tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên 
BMI của Dympna Gallagher.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.936 người từ 25 đến 64 tuổi đang sinh sống tại thành 
phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương năm 2012, kể cả người 
tạm trú trên 06 tháng được chọn vào nghiên cứu bằng kỹ 
thuật chọn mẫu PPS [bước 1: chọn cụm ngẫu nhiên theo dân 
số khu phố/ấp; bước 2: chọn 8 đối tượng nghiên cứu bằng 
phương pháp ngẫu nhiên hệ thống trong từng nhóm tuổi (25-
34, 35-44, 45-54, 55-64) và giới tính trên danh sách. Sau khi 
lập danh sách những đối tượng được chọn chính thức, để 
tránh mất mẫu trong nghiên cứu một danh sách dự bị cũng 
được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống cho mỗi 
nhóm tuổi của mỗi giới là 3 người để bù vào những người 
được chọn chính thức nhưng không tham gia tham gia]. 
Những người mắc bệnh tâm thần; mắc các hội chứng phù 
gặp trong hội chứng thận hư, hội chứng sơ gan cổ chướng, 
suy tim... ; hội chứng rối loạn chuyển hóa (cushing); người 
có các khối u mỡ; người bị tật ảnh hưởng đến việc cân đo 
như gù, vẹo cột sống, thương tật ở chân; người tạm trú dưới 
6 tháng; vắng mặt trong đợt nghiên cứu cuối cùng, đối tượng 
đã nhận thư mời lần 2 và đồng ý tham gia nhưng vắng mặt là 
những người không được chọn vào nghiên cứu. 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn16
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tất cả các đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn về tuổi, 
giới tính, nghề nghiệp, thói quen vận động, ăn uống... được 
đo chiều cao, cân nặng, vòng eo, vòng hông bằng những 
dụng cụ đã được hiệu chuẩn (đo ba lần cho từng chỉ số lấy giá 
trị trung bình), xét nghiệm mỡ máu, đường huyết... Tỷ lệ chất 
béo trên 25% đối với nam và trên 35% đối với nữ thì được 
chẩn đoán là béo phì và được ước lượng theo công thức sau: 
- Đối với nam: Tỷ lệ chất béo = 51,9 – 740/BMI + 
0,029*Tuổi [6].
- Đối với nữ: Tỷ lệ chất béo = 64,8 – 752/BMI + 
0,016*Tuổi [6].
Tất cả các dữ liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 
và xử lý trên Stata 10.0. Dữ kiện được trình bày theo tỷ lệ 
(tính trên xác suất chọn mẫu của từng đối tượng trong nghiên 
cứu). Dùng hệ số kappa để đánh giá sự đồng thuận giữa hai 
phương pháp chẩn đoán, sử dụng kiểm định Chi McNemar 
để so sánh những bất tương đồng về xác định tình trạng béo 
phì của hai phương pháp chẩn đoán.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Tỷ lệ %
Giới tính
Nam 47,3
Nữ 52,7
Dân tộc
Kinh 98,6
Khác 1,4
Nhóm tuổi
25- 34 tuổi 39,0
35-44 tuổi 28,0
45-54 tuổi 20,4
55-64 tuổi 12,6
Nghề 
nghiệp
Tự làm chủ 28,2
Công nhân viên phi Chính phủ 27,2
Nội trợ 20,8
Công nhân viên nhà nước 12,8
Không có việc làm (có thể có việc) 3,7
Nghỉ hưu 2,9
Thất nghiệp (không thể có việc) 1,9
Làm không công 1,8
Sinh viên 0,7
Khu vực
Thành thị 83,2
Vùng ven 16,8
Vòng eo
Cao 71,4
Bình thường 28,6
Tỷ số eo 
hông
Cao 57,5
Bình thường 42,5
Tỷ lệ nữ trong nghiên cứu là 52,7%, đa số là dân tộc Kinh 
98,6%, nhóm tuổi tham gia nghiên cứu có tỷ lệ cao nhất là 
25-34 tuổi chiếm 39,0% và nhóm tuổi 55-64 chiếm tỷ lệ thấp 
nhất 12,6%. Tỷ lệ người tự làm chủ và nhân viên phi Chính 
phủ chiếm hơn 50% đối tượng nghiên cứu, tỷ lệ người là nội 
trợ cũng chiếm tỷ lệ cao 20,8%, trong khi tỷ lệ công nhân 
viên nhà nước chỉ chiếm 12,6% và tỷ lệ thấp nhất là sinh 
viên chiếm 0,7%. Đa số đối tượng nghiên cứu sống ở thành 
thị (83,2%), có tỷ lệ vòng eo cao bất thường là 71,4% và tỷ 
số eo hông cao là 57,5%. 
Bảng 2. Các đặc điểm sinh hóa máu đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Tỷ lệ %
Cholesterol 
toàn phần
≤ 5,2 mmol/l 51,9
> 5,2 mmol/l 48,1
Triglycerid
≤ 1,7 mmol/l 46,9
>1,7 mmol/l 53,1
LDL
≤ 3,4 mmol/l 39,5
>3,4 mmol/l 60,5
HDL
≥ 1 mmol/l 48,4
< 1 mmol/l 51,6
Đường huyết
≥ 7 mmol/l 4,8
< 7 mmol/l 95,2
Tỷ lệ người đái tháo đường là 4,8%, những người có 
HDL ≥ 1 mmol/l chiếm 48,4% và khoảng trên ½ đối tượng 
có bất thường về Cholesterol toàn phần, Triglycerid và LDL
Bảng 3. Tỷ lệ béo phì theo 2 tiêu chuẩn đánh giá và theo 
các đặc tính
Đặc điểm Tỷ lệ béo phì %
Dựa trên 
BMI của 
WHO 
Dựa trên 
Gallagher về 
tỷ lệ chất béo 
Giới 
tính
Nam 20,0 11,3
Nữ 23,1 25,5
Dân tộc
Kinh 21,7 18,9
Khác 17,1 14,1
Nhóm 
tuổi
25- 34 tuổi 22,0 17,6
35-44 tuổi 26,6 23,3
45-54 tuổi 26,7 28,5
55-64 tuổi 15,6 19,1
Nghề 
nghiệp
Công nhân viên 
nhà nước
21,7 17,9
Công nhân viên 
phi Chính phủ
18,2 14,1
 Tự làm chủ 25,0 20,0
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 17
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Đặc điểm Tỷ lệ béo phì %
Dựa trên 
BMI của 
WHO 
Dựa trên 
Gallagher về 
tỷ lệ chất béo 
Nghề 
nghiệp
Làm không công 10,7 7,4
Sinh viên 16,6 16,6
Nội trợ 24,5 27,2
Nghỉ hưu 23,5 19,4
Không có việc làm 
(có thể có việc)
15,8 9,2
Thất nghiệp (không 
thể có việc)
8,8 9,4
Khu 
vực
Thành thị 21,5 18,7
Vùng ven 21,8 19,3
Chung 21,6 18,8
Tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo trong cơ thể tính từ 
công thức tiên đoán của Gallagher chiếm 18,8% thấp hơn 
theo phân loại BMI của WHO (21,6%). Tỷ lệ béo phì theo 
phân loại BMI của WHO ở nam giới, nhóm tuổi 25-34, tự 
làm chủ, không có việc làm (có thể làm việc) cao hơn so 
với tỷ lệ béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo tính từ công thức 
tiên đoán của Gallagher (tương ứng 20% và 11,3%; 22% và 
17,6%; 25% và 20%; 15,8% và 9,2%). Trong khi đó, tỷ lệ 
béo phì theo phân loại BMI của WHO của nữ, nhóm tuổi 55-
64, nội trợ lại thấp hơn (tương ứng 23,1% và 25,5%; 15,6% 
và 19,1%; 24,5% và 27,2%)
Bảng 4. Phân bố tỷ lệ béo phì ở công thức tiên đoán của Gallagher theo phân loại BMI của WHO
Các yếu tố
Phân loại BMI của WHO (kg/m2) 
Tần số (tỷ lê%)
<18,5 18,5-<23 23-<25 ≥25
Béo phì theo 
Gallagher
Béo 0(0) 0(0) 33(7,8) 365(82,2)
Không 896(100) 170(100) 391(92,2) 79(17,8)
Bảng 5. Sự khác biệt giữa việc chẩn đoán béo phì theo phân loại BMI của WHO và mô hình tiên đoán 
tỷ lệ chất béo của Gallagher
Các yếu tố
Tỷ lệ chất béo theo Gallagher
[tần số (tỷ lệ%)
OR p
Béo Không 23-<25 ≥25
Phân loại của 
WHO về BMI
Béo 365 (82,2) 79(18,8) 2,39(1,58-
3,71)
<0,001
Không 33(2,2) 1457(97,8)
*Hệ số kappa=0,83
Theo công thức tiên đoán của Gallagher (về tỷ lệ chất béo 
dựa trên BMI) thì đối với những người có BMI nhỏ hơn 23 
kg/m2 không có trường hợp nào xác định béo phì. Tuy nhiên, 
đối với những người có BMI từ 23-<25 kg/m2 có đến 7,8% 
béo phì và những người có BMI từ 25 kg/m2 chỉ có 82,2% 
béo phì. 
Những người được chẩn đoán là béo phì theo phân loại 
BMI của WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên 
đoán của Gallagher cao gấp 2,39 lần (KTC95%: 1,58-3,71) 
so với những người không béo phì theo đánh giá của WHO 
nhưng béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher, sự 
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy vậy, có 
sự đồng thuận cao về kết quả chẩn đoán béo phì giữa hai 
phương pháp (hệ số kappa=0,83).
IV. BÀN LUẬN 
Chẩn đoán béo phì muốn chính xác nhất thiết phải đo 
tỷ lệ chất béo trong cơ thể nhưng chưa thể áp dụng rộng rãi 
phương pháp này cho cộng đồng. Mặt khác, các nghiên cứu 
cho thấy có sự tương quan rất mạnh giữa BMI và tỷ lệ chất 
béo trong cơ thể, sử dụng BMI để ước lượng tỷ lệ chất béo 
trong cơ thể với độ chính xác cao. Tuy vậy, WHO chỉ hướng 
dẫn chẩn đoán béo phì dựa trên BMI (mặc dù vẫn chưa có 
sự thống nhất hoàn toàn ngưỡng BMI để chẩn đoán béo phì 
 V
IỆN
 SỨ
C K
HỎE CỘNG ĐỒ
NG
SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn18
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
cho người Châu Á để đánh giá hậu quả sức khỏe của thừa 
cân béo phì [2, 17]). Việc sử dụng BMI để tiên đoán tỷ lệ 
chất béo và sử dụng tỷ lệ chất béo này để đánh giá béo phì 
đã được công bố rộng rãi trong nhiều hội nghị kể cả những 
hội nghị do WHO tổ chức nhưng chưa có những hướng dẫn 
cụ thể về vấn đề này. Nhiều tác giả trong đó có cả chuyên gia 
của WHO công nhận việc sử dụng BMI để tiên đoán tỷ lệ 
chất béo trong cơ thể và dùng kết quả này để chẩn đoán béo 
phì [1, 3-13, 16]. Tuy vậy, một số ít tác giả còn băn khoăn về 
ngưỡng tỷ lệ chất béo để chẩn đoán béo phì cho từng chủng 
tộc, quốc gia nhưng chưa đưa ra những chứng cứ thuyết phục 
cho những đề nghị để thay đổi ngưỡng chẩn đoán béo phì 
dựa trên tỷ lệ chất béo theo từng chủng tộc, quốc gia... Trong 
khi, WHO hướng dẫn sử dụng BMI để chẩn đoán thừa cân, 
béo phì riêng biệt cho cả người châu Á và châu Âu thì những 
hướng dẫn chẩn đoán béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo chưa rõ 
ràng (lấy ngưỡng tỷ lệ chất béo trên 25% đối với nam và trên 
35% đối với nữ là béo phì nhưng ngưỡng cho từng một quốc 
gia, dân tộc thì chưa có nhiều công bố). Một nghiên cứu về 
tương quan giữa BMI và tỷ lệ chất béo tại TPHCM vào năm 
2011 đề nghị ngưỡng để chẩn đoán béo phì trên người Việt 
Nam là trên 30% đối với nam và trên 40% [14] đối với nữ 
với lý do ngưỡng chẩn đoán béo phì dựa vào tỷ lệ chất béo 
của WHO dựa trên quần thể có BMI≥30 trong khi ngưỡng 
chẩn đoán béo phì cho các nước châu Á là BMI≥25 [17]. 
Hơn nữa, ngưỡng tỷ lệ chất béo để chẩn đoán béo phì đã 
được công nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Do vậy, nếu 
cần những điều chỉnh ngưỡng tỷ lệ chất béo trong chẩn đoán 
béo phì thì cần cung cấp những chứng cứ khác bởi nghiên 
cứu được tiến hành ở TPHCM không nghiên cứu về hậu quả 
sức khỏe tương ứng với những ngưỡng tỷ lệ chất béo khác 
nhau. Mặt khác, chỉ có BMI phụ thuộc vào tỷ lệ chất béo chứ 
không xảy ra điều ngược lại, vì vậy lập luận đề nghị thay đổi 
ngưỡng chẩn đoán béo phì dựa trên tỷ lệ chất béo cho người 
Việt Nam chưa xác đáng.
Các nghiên cứu trong nước về tỷ lệ thừa cân béo phì 
thường tập trung ở đối tượng trẻ em. Theo điều tra đánh giá 
các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ do Tổng cục Thống kê 
phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc và Quỹ Dân số 
Liên Hiệp quốc thực hiện cho thấy tỷ lệ béo phì ở trẻ em khu 
vực Đông Nam Bộ năm 2011 là 10,6%, kết quả nghiên cứu 
tại thành phố Thủ Dầu Một năm 2012 về tỷ lệ thừa cân béo 
phì học sinh tiểu học là 47,2% (thừa cân 22,8% và béo phì 
24,4%). Theo nghiên cứu của chúng tôi thì khoảng 1/5 người 
dân 25-64 tuổi tại thành phố Thủ Dầu Một béo phì. Như vậy, 
thừa cân, béo phì đang trở thành mối nguy cho sức khỏe 
người dân thành phố Thủ Dầu Một nói riêng, cho sức khỏe 
toàn cầu nói chung [17].
Tỷ lệ béo phì theo phân loại của WHO cao hơn công thức 
tiên đoán của Gallagher (bảng 3). Điều này phù hợp khi có 
nhiều đối tượng được chọn vào nghiên cứu có khối cơ lớn 
(như những vận động viên hoặc ngành nghề thường xuyên 
sử dụng cơ bắp như vận động viên thể hình, bóng đá, xe đạp, 
võ các loại, vệ sĩ...). Bởi nhược điểm lớn nhất của đánh giá 
béo phì dựa trên BMI là không phân biệt được nặng do mỡ, 
cơ hay xương. Cùng một chiều cao và cân nặng nhưng phân 
bố khối cơ hoặc khối mỡ khác nhau và điều khác biệt này cho 
thấy tỷ lệ mỡ trong cơ thể của một người cùng một chiều cao 
và cân nặng cũng khác nhau và nếu dùng BMI để đánh giá 
béo phì sẽ mắc phải sai lầm khi chọn đối tượng có khối cơ 
xương lớn. Phân tích tỷ lệ béo phì theo giới tính, nhóm tuổi 
của nghiên cứu này cũng cố những lập luận trên. Trong khi 
tỷ lệ béo phì ở nữ giữa hai phương pháp chẩn đoán khác biệt 
không nhiều (cao hơn theo Gallagher, 25,5% so với 23,1%) 
thì tỷ lệ này ở nam theo cách đánh giá ở công thức tiên đoán 
tỷ lệ chất béo của Gallagher lại thấp hơn rất nhiều (11,3% 
so với 20%). Có thể nam giới thường có khối lượng cơ lớn 
hơn do thói quen vận động và luyện tập thể thao đòi hỏi sử 
dụng cơ bắp. Do vậy, cân nặng sẽ nặng hơn và do đó BMI 
sẽ cao nhưng thực chất là tỷ lệ chất béo trong cơ thể của họ 
nằm dưới ngưỡi cho phép (từ 25% trở xuống) và càng nhiều 
đối tượng có điều kiện trên được đưa vào nghiên cứu thì tỷ 
lệ béo phì theo cách phân loại dựa trên BMI sẽ cao hơn dựa 
trên tỷ lệ chất béo. Hơn nữa, theo kết quả (bảng 4) cho thấy 
những người được đánh giá là thừa cân theo cách phân loại 
của WHO (BMI từ 23-<25,0 kg/m2) [17] thì có 7,8% béo 
phì theo tiên đoán tỷ lệ chất béo của Gallagher. Do vậy, việc 
đánh giá béo phì dựa trên phân loại BMI của WHO chưa phù 
hợp trong một số trường hợp (sai lầm khi đối tượng chẩn 
đoán có khối lượng cơ xương lớn và bỏ sót những người béo 
phì mà có BMI thấp).
Mặc dù, giá trị tiên đoán giữa 2 phương pháp chẩn đoán 
béo phì dựa trên BMI của WHO và chẩn đoán béo phì dựa vào 
kết quả tiên đoán tỷ lệ chất béo dựa trên BMI của Gallagher rất 
cao (giá trị ROC>85%) và hai test chẩn đoán này rất tương 
đồng trong việc chẩn đoán béo phì (kappa=0,83) nhưng sự 
khác biệt giữa hai phương pháp này chủ yếu là sự khác biệt 
từ những người được chẩn đoán là béo phì theo đánh giá của 
WHO nhưng không béo phì theo công thức tiên đoán của 
Gallagher với những người không béo phì theo đánh giá của 
WHO nhưng béo phì theo công thức tiên đoán của Gallagher 
(bảng 5). Sự khác biệt này xuất phát từ nhược điểm của chẩn 
đoán béo phì dựa trên phân loại BMI của WHO (không phân 
biệt nặng do cơ xương hay chất béo).
Tóm lại, chẩn đoán béo phì dựa trên phân loại BMI theo 
hướng dẫn của WHO còn bất cập. Hơn nữa, mức độ tương 
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn 19
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
quan giữa BMI và tỷ lệ chất béo trong cơ thể phụ thuộc vào 
phương pháp đánh giá tỷ lệ chất béo trong cơ thể, vào từng 
vùng và quốc gia [5]. Đồng thời, không nên sử dụng riêng 
biệt BMI cho việc đánh giá gánh nặng bệnh tật cũng như 
trong chẩn đoán và điều trị béo phì [11]. Và công thức ước 
lượng tỷ lệ chất béo của Gallagher dựa trên BMI với độ chính 
xác cao lại dễ dàng sử dụng [6]. Do vậy, có thể sử dụng công 
thức này để ước lượng tỷ lệ chất béo và dùng đồng thời công 
thức này để đánh giá béo phì bởi sự đồng thuận cao (hệ số 
kappa là 0,83), hạn chế được những nhược điểm khi chẩn 
đoán dựa trên BMI. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Catherine L, Carpater, Eric Yan. Body fat and body-mass index among a multiethnic sample of college -age men and 
women. Jounal of Obesity (2013).
2. Chamukutan Snehalatha, Vijay Viswanathan, Ambady Ramachandran. Cutoff values for normal anthropometric 
variables in Asian Indian Adults. Diabetes Care (2003). 26(5): 1380-1384. 
3. Chandrasekharan Nair Kesavachadran, Vipin Bilhari & Neeraj Mathur. The normal range of body mass index with high 
body fat percentage among male residents of Lucknow city in north India. Indian Jounal Medicine (2012). 135: 72-77.
4. Chang CJ, Wu CH, Yao WJ, Yang YC, Wu JS, Lu FH. Low body mass index but high percent body fat in 
Taiwanese subjects: implications of obesity cutoffs. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders 
(2003); 27:253-9.
5. Deurenberg P, Deurenberg-Yap M, van Staveren WA. Body mass index and percent body fat: a meta analysis among 
different ethnic groups. International Journal of Obesity and Related Metabolic Disorders (1998); 22:1164-1171.
6. Gallagher D, Heymsfield SB, Heo M, Jebb SA, Murgatroyd PR, Sakamoto Y. Healthy percentage body ranges: an 
approach for developing guidelines based on body mass index. American Journal of Clinical Nutrition 2000; 72:694-791.
7. Khaula Noreen. Comparision of predicted body fatness from body mass index and from bioelectric impadance analysis 
among healthy females. International Jounal of Advancements in Research & Technology (2014). 3(11): 80-90.
8. Luiz Antonio Dos Anjos, Fabiana da Costa Teixeira, Vivian Wahrlich. Body fat percentage and body mass index in a 
probablity sample of an adult urban population in Brazil. Artigo Article (2013). 29(1): 73-81.
9. Maryam Abolhasani, Sahar Dehghani, Tahereh Yazdani. Does Body fat percentage associate with age and Body mass 
index. International research Jounal of applied and basic sciences (2013). 5(10). 1307-1311.
10. Michael Zanovec, Jing Wang, Carol E. Development and comparition of two field-based body fat prediction equation: 
NHANES 199-2004. International Journal of Exercise Science (2012). 5(3): 223-231.
11. Ottavia Colombo, Simona Villani, Giovana Pinelli. To treat or not to treat: Comparition of different criteria used to 
determine whether weight loss is to be recommended. Nitrition Jounal (2008).
12. RYT Sung, HK SO, AM Li. Body fat measured by bioelectrical impendance in Hong Kong Chinese children. Hong 
Kong Medicine Jounal (2009); 15:110-7.
13. Sochung Chung, Mi-Yeon Song, Hyun-Dae Kim. Korean and Caucasian Premenopausal women have different 
relationship of body mass index to percent body fat with age. Journal Applied Physican (2005). 99: 103-107.
14. Thuy VT, Chau TT, Cong ND, De DV, Nguyen TV. Assessment of low bone mass in Vietnamese: comparison of QUS 
calcaneal ultrasonometer and data-derived T-scores. Journal of Bone and Mineral Metabolism 2003; 21: 114-119
15. Trịnh Hồng Sơn, Vũ Đại Quế, Nguyễn Tiến Thành và cộng sự. Chẩn đoán và điều trị béo phì. Tạp chí Y học Thực 
hành (2013). 870(5): 168-173.
16. Verma V, Soni A, Joglekar A. Relationship between body mass index and percent body fat among females of Raipur 
city. British Journal of Applied Science & Technology (2015). 8(2): 213-218. 
17. WHO Expert Consultation. Appropriate body-mass index for Asian populations and its implications for policy and 
intervention strategies. Lancet (2004); 363:157-163.

File đính kèm:

  • pdfty_le_beo_phi_o_nguoi_dan_thanh_pho_thu_dau_mot_theo_phan_lo.pdf