Tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều

dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các Khoa Lâm sàng,

Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017. Phương pháp: Mô

tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính trên

300 điều dưỡng viên bằng bộ công cụ phỏng vấn. Kết

quả: Bạo lực lời nói chiếm 69,7% trong đó chửi bới, xấc

lược 57,67%; lăng mạ, xúc phạm 29,33%; đe dọa 29%,

nhóm khác 6,67%. Tỷ lệ bạo lực thể chất 32,6% số điều

dưỡng trong đó đánh đập, xô đẩy 17,33%, cào cấu, cắn

6%, phá đồ đạc cá nhân 7,67%; dùng dao/ súng các vật

khác 2,67%. Đánh giá chung, tỷ lệ từng bị bạo lực 72,7%,

từng bị bạo lực trong 12 tháng qua 59,6%. Kết luận: Bạo

lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra

tại các khoa lâm sàng tại Bệnh viện Nhi Trung ương là

phổ biến, trong đó chiếm tỷ lệ cao là các bạo lực lời nói.

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017

Tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2017
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 31
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều 
dưỡng viên do bệnh nhân gây ra tại các Khoa Lâm sàng, 
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017. Phương pháp: Mô 
tả cắt ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính trên 
300 điều dưỡng viên bằng bộ công cụ phỏng vấn. Kết 
quả: Bạo lực lời nói chiếm 69,7% trong đó chửi bới, xấc 
lược 57,67%; lăng mạ, xúc phạm 29,33%; đe dọa 29%, 
nhóm khác 6,67%. Tỷ lệ bạo lực thể chất 32,6% số điều 
dưỡng trong đó đánh đập, xô đẩy 17,33%, cào cấu, cắn 
6%, phá đồ đạc cá nhân 7,67%; dùng dao/ súng các vật 
khác 2,67%. Đánh giá chung, tỷ lệ từng bị bạo lực 72,7%, 
từng bị bạo lực trong 12 tháng qua 59,6%. Kết luận: Bạo 
lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do bệnh nhân gây ra 
tại các khoa lâm sàng tại Bệnh viện Nhi Trung ương là 
phổ biến, trong đó chiếm tỷ lệ cao là các bạo lực lời nói.
Từ khóa: Bạo lực nơi làm việc; điều dưỡng viên; khoa 
lâm sàng.
ABSTRACT: WORKING VIOLENCE 
PERCENTAGE OF NURSES AT CILINICAL 
DEPARTMENTS, VIETNAM NATIONAL 
CHILDREN’S HOSPITAL IN 2017
Objectives: To identify working violence percentage 
of nurses due to patients at clinical departments, Vietnam 
National Children’s hospital in 2017. Methodology: A 
cross-sectional and quantitative, qualitative study was 
done on 300 nurses using questionnaires. Result: speech 
violence was 69,7% in which cursing accounted for 
57,67%; insulting, offensing was 29,33%; threatening 
was 29%, others was 6,67%. Physical violence accounted 
for 32,6% in which beating was 17,33%, scratching, 
shallowing was 6%, destroying personal stuff was 
7,67%; using knife/ gun/others 2,67%. Percentage of staff 
suffering from violence was 72,7%, staff who suffer from 
violence for the last 12 months was 59,6%. Conclusion: 
It is popular that nurses at clinical departments, VNCH 
suffer from violence, in which the higher percentage is 
speech violence.
Keywords: Working violence; nurses; clinical 
departments
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Ủy Ban Châu Âu thì bạo lực nơi làm việc là 
những rủi ro mà nhân viên làm việc bị lạm dụng, đe dọa 
hoặc bị tấn công trong những hoàn cảnh liên quan đến 
nghề nghiệp của họ, nó xuất phát hoặc tác động đến công 
việc, bao gồm một nguy cơ rõ ràng hay tiềm tàng tới sự an 
toàn của họ, sự hạnh phúc hoặc sức khỏe [1]. Theo nghiên 
cứu tội phạm tại Anh cho thấy điều dưỡng viên có 5% là 
nạn nhân của tấn công thể chất tại nơi làm việc, số liệu cao 
gấp 4 lần số liệu trung bình toàn Vương Quốc Anh [2]. 
Theo phân tích của Bộ Lao động Mỹ, có tới 60% người 
lao động bị tấn công trong chăm sóc sức khỏe và hầu hết 
những cuộc tấn công gây ra bởi các bệnh nhân [3]. Bạo 
lực nơi làm việc có thể gây ra stress nghề nghiệp. Ngoài ra 
các tổn thất về kinh phí cho điều trị những nạn nhân bị bạo 
lực cũng rất lớn, chi phí điều trị cho điều dưỡng viên bị tấn 
công, theo một nghiên cứu là 31. 643 USD [3].
Thông thường các ĐDV cung cấp dịch vụ có nguy cơ 
cao bạo lực vì họ tiếp tục phải giao tiếp với cộng đồng. 
ĐDV phải giao tiếp với một cộng đồng mà ở đó là những 
người mắc bệnh, rối loạn, bị mắc stress (do bản thân hoặc 
người nhà bị bệnh), đau đớn và cảm giác bất lực, họ có thể 
bị tác động bởi thuốc hoặc rượu. tất cả những điều kiện 
này có thể tăng khả năng bạo lực hoặc hành vi hung hăng. 
Ở một trạng thái mỗi người túng quẫn nhân cách, phẩm 
giá và trở nên bị phụ thuộc vào người khác về chăm sóc, 
TỶ LỆ BẠO LỰC NƠI LÀM VIỆC Ở ĐIỀU DƯỠNG VIÊN 
DO BỆNH NHÂN GÂY RA TẠI CÁC KHOA LÂM SÀNG,
BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2017
Đào Ngọc Phức1, Phạm Thu Hiền1, Lã Ngọc Quang2, Nguyễn Thanh Hà3
Ngày nhận bài: 10/08/2017 Ngày phản biện: 17/08/2017 Ngày duyệt đăng: 26/08/2017
1. Bệnh viện Nhi Trung ương;
2. TrườngĐại học Y tế Công cộng Hà Nội
3. Bộ Y tế
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn32
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
có thể là nguyên nhân họ bị áp lực dẫn tới sự hung hăng 
[2], [4]–[6]. 
Trong quá trình chăm sóc bệnh nhân, đã có nhiều 
trường hợp phản ánh ĐDV bị các bậc phụ huynh đưa con 
đi khám, chữa bệnh có hành vi đe dọa, lăng mạ thậm chí 
hành hung. Nhằm tìm hiểu thực trạng qua đó tìm ra các 
giải pháp can thiệp hiệu quả chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu: “Tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do 
bệnh nhân gây ra tại các Khoa Lâm sàng, Bệnh viện 
Nhi Trung ương năm 2017”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: ĐDV làm việc tại các khoa 
lâm sàng của bệnh viện:
2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang, nghiên cứu định lượng kết hợp định tính.
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho một tỷ lệ:
Trong đó:
- n: Cỡ mẫu nghiên cứu
- Z: hệ số tin cậy, ứng với độ tin cậy 95%, tra bảng 
có = 1,96
- p = 0.5 ( Do chúng tôi không tìm thấy nghiên cứu nào 
đánh giá về thực trạng bạo lực đối với điều dưỡng viên 
nên chọn p = 0.5 để có được cỡ mẫu tối thiểu lớn nhất).
- d: sai số tuyệt đối cho phép, lấy d= 0,06 (sai số cho 
phép 6%).
- Thay số vào ta được kết quả n= 267 mẫu. Dự phòng 
10% đối tượng nghiên cứu bỏ cuộc hoặc điền thiếu thông 
tin nên cỡ mẫu sẽ là 300 mẫu.
3. Công cụ nghiên cứu:
Bộ câu hỏi dựa vào nghiên cứu “Bạo lực tại nơi làm 
việc đối với điều dưỡng ở 3 cơ sở y tế khác nhau của Hy 
Lạp” năm 2014 và được đăng trên tạp chí WORK của tác 
giả Fafliora E và cộng sự (2015) [18]. 
Bộ câu hỏi được tạo ra dựa trên các tiêu chuẩn 
của Văn phòng người lao động quốc tế (International 
Labour Office), Hội Điều dưỡng thế giới (International 
Council of Nurses); Tổ chức Y tế thế giới (World Health 
Organization) và mỗi phần của bộ câu hỏi được thiết lập 
từ các nghiên cứu có liên quan [27].Bộ câu hỏi được điều 
chỉnh phù hợp với thực tiễn khám, chữa bệnh tại Bệnh 
viện Nhi Trung ương, được hội đồng đạo đức Bệnh viện 
Nhi Trung ương thông qua và triển khai thử nghiệm tại 
Bệnh viện.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Tỷ lệ các loại bạo lực lời nói 
Loại bạo lực Số lượng Tỷ lệ %
Lời nói chửi bới, xấc lược 173 57,67
Lăng mạ, xúc phạm 88 29,33
Đe dọa 87 29,00
Nhóm khác 20 6,67
Có đến gần 60% số dưỡng cho biết họ từng bị chửi bới 
trong khi thực hiện CSBN. Tỷ lệ lăng mạ, xúc phạm và đe 
dọa chiếm trên dưới 30%.
Nghiên cứu định tính cũng cho thấy đa số ĐDV bị 
người nhà bệnh nhân chửi bới, dùng những từ ngữ thô 
tục, thiếu văn hóa. Tình huống bị chửi bới khu khám bệnh 
thường là thời gian chờ đợi xếp hàng hoặc lấy kết quả lâu. 
“Do quá tải bệnh nhân, đến lượt chờ khám lâu nên họ 
xông vào chửi bới” (ĐDV khu khám bệnh). Ở khu vực 
cấp cứu thì ngoài chửi bới, việc khách hàng đe dọa ĐDV 
là phổ biến, nguyên nhân chủ yếu là việc ngăn cản người 
nhà bệnh nhi vào khu vực cấp cứu: “Con họ cấp cứu, họ 
sốt ruột lên lao vào khu cấp cứu, mà theo quy định chỉ có 
nhân viên y tế được vào, họ không được vào nên chửi bới” 
(ĐDV khu cấp cứu).
Các hành vi đe dọa mà ĐDV phản ánh thường là dọa 
bị đánh, dọa có quan hệ với người nọ người kia. “Họ dọa 
đánh nếu điều dưỡng ngăn cản họ vào khu điều trị” (ĐDV 
khu nội trú). “Họ nói là con của ông to nào đó và đòi 
được quyền ưu tiên khám chữa bệnh, nếu không sẽ điện 
thoại cho người này, người khác” (ĐDV khu khám bệnh).
Biểu 1.Tỷ lệ bị bạo lực lời nói ở ĐDV
Như vậy có đến 69,7% số điều dưỡng viên cho biết bản 
thân đã từng bị khách hàng chửi bới, đe dọa, lăng mạ.
n = Z2(1 - /2)
p(1-p)
d2
(1 )2
Z α−
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 33
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
* Bạo lực thể chất
Bảng 2. Tỷ lệ bị các loại bạo lực thể chất ở ĐDV
Loại bạo lực Số lượng Tỷ lệ %
Đánh đập, xô đẩy 52 17,33
Cào, cấu, cắn 18 6,00
Phá đồ vật cá nhân 23 7,67
Dùng dao/ súng/ các 
vật khác
8 2,67
Hơn 17% ĐDV từng bị khách hàng đánh đập, xô đẩy, 
gần 8% ĐDV từng bị khách hàng phá đồ đạc, 6% ĐDV đã 
từng bị khách hàng cấu cắn và gần 3% ĐDV từng bị khách 
hàng cầm dao, gậy đuổi đánh.
Nghiên cứu định tính cũng cho thấy ĐDV từng bị khách 
hàng đầy là khá phổ biến. Do mức độ ít nghiêm trọng nên 
ĐDV thường bỏ qua và không có phản ứng lại. “Khách hàng 
xô đẩy là chuyện bình thường, đôi khi họ bực tức vì một lý 
do nào đó họ có thể xô đẩy nhân viên” (ĐDV khu nội trú). 
Mặc dù vậy, bệnh viện cũng có những trường hợp người 
nhà bệnh nhân côn đồ, cầm dao vào bệnh viện đuổi đánh cán 
bộ điều dưỡng. Nghiên cứu định tính cho thấy một trường 
hợp bố của bệnh nhi tại khu cấp cứu cầm dao vào dọa nạt rồi 
đánh đấm điều dưỡng viên ngay tại phòng cấp cứu. “Bố của 
bệnh nhi cầm dao vào bệnh viện đuổi đánh một điều dưỡng 
viên, em thấy vậy can ngăn thì bị đánh lại, chuyện này nhiều 
báo cũng đã đăng tin” (ĐDV khu cấp cứu).
Nghiên cứu cũng cho thấy đối tượng gây ra bạo lực 
không chỉ là các bậc phụ huynh mà nhiều khi còn là chính 
bệnh nhi. Khi phải tiêm, làm thủ thuật, bệnh nhi thường có 
tâm lý hoảng loạn và có thể cắn, cào ĐDV. “Chuyện bệnh 
nhi cào cấu phản ứng lại là chuyện bình thường khi chăm 
sóc bệnh nhi, vì bệnh nhi chưa có đủ nhận thức và dễ bị 
hoảng loạn” (ĐDV khu vực nội trú)
Biểu 2. Tỷ lệ bị bạo lực thể chất
Như vậy, tỷ lệ ĐDV đã từng bị bạo lực thể chất do 
khách hàng gây ra chiếm tới gần 1/3 tổng số ĐDV.
Biểu 3. Đánh giá chung tỷ lệ bị bạo lực ở ĐDV
Như vậy có tới 218 ĐDV chiếm 72,7% đã từng bị 
bạo lực và 130 ĐDV chiếm 59,6% đã từng bị bạo lực 
trong 12 tháng qua.
IV. BÀN LUẬN
* Bạo lực về lời nói
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ ĐDV bị khách 
hàng nói chửi xấc lược chiếm 57,67%; bị lăng mạ, xúc 
phạm chiếm 29,33%, đe dọa chiếm 29%, nhóm khác 
chiếm 6,67%. Nghiên cứu định tính cho kết quả đa số 
ĐDV bị người nhà bệnh nhân chửi bới, dùng những từ 
ngữ thô tục, thiếu văn hóa. Các hành vi đe dọa mà ĐDV 
phản ánh thường là dọa bị đánh, dọa có quan hệ với người 
nọ người kia. Một số có lời đe dọa đánh, giết điều dưỡng. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy có đến 
69,7% ĐDV từng bị bạo lực về lời nói.
Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn của Farrell và cộng 
sự 2006, trong số đó, điều dưỡng từng trải qua một số bạo 
lực, sự thô lỗ (82,1%), la hét (68,1%), chế nhạo (64%) và 
chửi rủa (61,9%) là những dạng phổ biến. 26,4% đã từng 
bị đe dọa lời nói với BL thể chất và 2,2% đe dọa gia đình 
họ [7]. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn kết quả của 
Distasio, Hall và Beachley (2005), trên nghiên cứu 378 
ĐDV, trong số đó 83% đã từng trải qua bạo lực lời nói, 
72% điều dưỡng ghi nhận sự đe dọa và hăm dọa. Đe dọa 
hầu hết chống lại người điều dưỡng và công việc của họ, 
nhưng còn có đe dọa với cuộc sống họ, gia đình và tài 
sản [8].
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của Willey (2007) 
trong đó chỉ có 26% cho thấy có lạm dụng lời nói, lạm 
dụng lời nói là dạng bạo lực phổ biến [6]. Nghiên cứu của 
chúng tôi cũng cao hơn của McKenna và cộng sự (2003) 
tại New Zealand, trong năm đầu tiên làm việc, 35% ĐDV 
ghi nhận bị đe dọa lời nói. Nghiên cứu của Chovanec-
Toy (2000) ghi nhận BLNLV năm 2000 với 60% được ghi 
nhận đã từng bị lạm dụng lời nói từ BN [9].
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn34
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với Roche và 
cộng sự (2010) tại Úc 94 y tế và phẫu thuật viên ở 21 
bệnh viện công tại Úc cho thấy 66% hiểu được đe dọa 
bạo lực và tới 65% hiểu được lạm dụng lời nói. [10]. 
Nghiên cứu của Opie và cộng sự (2010) tỷ lệ trải qua 
bị bạo lực về lời nói hung hãn với 79,5% số điều dưỡng 
[11]. Chapman và cộng sự (2010) 75% ghi nhận bị BL 
lời nói [12].
Bạo lực về lời nói có thể làm điều dưỡng viên sợ hãi 
do bị đe dọa và do vậy có thể ảnh hưởng đến khả năng 
chăm sóc bệnh nhi. Những lời nói thô tục, thiếu văn hóa, 
xúc phạm nhân phẩm thường làm giảm cảm giác gắn bó 
với nghề nghiệp, và giảm đi sự yêu nghề. Trong khi đó 
theo Đỗ Mạnh Hùng, điều dưỡng không chỉ là một nghề 
đòi hỏi chuyên môn, năng lực mà nó còn đòi hỏi tình 
thương, sự cảm thông chia sẻ với người bệnh [13]. Do 
vậy, với thực trạng bạo lực lời nói là phổ biến ở ĐDV thì 
Bệnh viện Nhi cần có các giải pháp can thiệp kịp thời là 
rất cần thiết.
* Bạo lực thể chất
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ ĐDV bị khách 
hàng đánh đập xô đẩy chiếm đến 17,33%, điều dưỡng 
viên bị cào, cấu, cắn chiếm 6%, tỷ lệ bị phá đồ vật cá nhân 
chiếm 7,67%, tỷ lệ bị dùng dao, súng và các đồ vật khác 
hiếm 2,67%. 
Nghiên cứu định tính cũng cho thấy ĐDV từng bị 
khách hàng đẩy là khá phổ biến. Nghiên cứu định tính 
cũng cho thấy đã có những trường hợp người nhà bệnh 
nhân côn đồ, cầm dao vào bệnh viện đuổi đánh cán bộ 
điều dưỡng và phải có sự can thiệp của công an thành phố 
Hà Nội. 
Nghiên cứu cũng cho thấy đối tượng gây ra bạo lực 
không chỉ là các bậc phụ huynh mà nhiều khi còn là chính 
bệnh nhi. Khi phải tiêm, làm thủ thuật, bệnh nhi thường có 
tâm lý hoảng loạn và có thể cắn, cào ĐDV.
Kết quả đánh giá chung cho thấy có số ĐDV đã từng 
bị bạo lực thể chất chiếm 32,6% tổng số ĐDV, tức là 
cứ 3 điều dưỡng có một điều dưỡng đã từng bị bạo lực 
thể chất. Tỷ lệ này cho thấy mức đáng báo động cần 
có giải pháp can thiệp trong việc giảm tỷ lệ bạo lực tại 
bệnh viện.
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với Well và 
Bowers (2002) khoảng 9,5% điều dưỡng làm việc tại 
các bệnh viện đa khoa tại Anh Quốc bị tấn công ít nhất 1 
lần/năm. Điều này bao gồm bị tấn công bị hoặc không bị 
thương tích [14].
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với McKenna et 
al. 2003 tại New Zealand 29% ĐDV cho biết bị dọa dẫm 
bạo lực, 22% ĐDV từng là mục tiêu của tấn công, 29% 
ĐDVbị tấn công nhưng không cần phải can thiệp y tế, và 
4% yêu cầu có sự can thiệp y tế sau đó [15].
Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn của Roche và cộng 
sự (2010) có tới 50% nhận thức bạo lực thể chất [10]. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn của Farrell và 
cộng sự (2006) tại Tasmanian ghi nhận 69,3% ĐDV bị 
đánh đập bằng tay, đấm hoặc khuỷu tay và 46,1% ĐDV 
bị xô đẩy hoặc kéo, bị cào, cấu, đá, kéo tóc [7].
Nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn của Chapman 
và cộng sự (2010) miền tây nước Úc, 52% điều dưỡng 
viên bị tấn công thể chất trong khoảng thời gian 12 
tháng [12]. 
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của Ryan và 
Maguire (2006) tại Ireland bạo lực thể chất nhẹ là 22,9% 
và bạo lực thể chất nghiêm trọng chiếm 2,8% điều dưỡng 
viên, hành vi hung hăng phá phách với 45,7% điều dưỡng 
viên ghi nhận [16].
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn của Opie và 
cộng sự (2010) nghiên cứu tại Úc có 28,6% ĐDV từng 
bị bạo lực thể chất trong vòng 12 tháng, nghiên cứu này 
không phân biệt loại hoặc mức độ trầm trọng của bạo 
lực[11].
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn của Wiley (2007) ở 
điều dưỡng Nebraska ghi nhận 11% từng trải qua bạo lực 
(Wiley 2007)[6]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn 
so với Hội Điều dưỡng cấp cứu, Mỹ (Emergency Nurses 
Association) với 12,9% ghi nhận tấn công thể chất, với 
bị kéo giật hoặc đẩy là hình thức phổ biến [17]. Willey 
(2007) cũng ghi nhận đề cập đến cào và cấu là loại bạo lực 
thể chất phổ biến [6].
Tấn công bằng vũ khí là dạng bạo lực nguy hiểm, ảnh 
hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng của ĐDV. 
Các nghiên cứu trên thế giới cũng ghi nhận nhiều trường 
hợp ĐDV bị tấn công bằng dao, súng. Nghiên cứu của 
Farrell 2006 tại Tasmanian 23,9% ĐDV bị tấn công với 
việc bị ném có mục tiêu hoặc không có mục tiêu vào họ 
[7]. Nghiên cứu của Chapman và cộng sự (2010) ghi nhận 
38% ĐDV bị tấn công bằng 1 vũ khí [12]. 
Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cũng như của các 
cộng sự nước ngoài cho thấy bạo lực thể chất là phổ biến 
ở ĐDV. Điều đó cho thấy ĐDV là một ngành nghề có mức 
độ rủi ro nghề nghiệp cao.
* Đánh giá chung tỷ lệ bạo lực ở ĐDV
Kết quả tổng hợp cho thấy ĐDV từ bị tất cả các dạng 
bạo lực chiếm 72,7%, điều dưỡng bị bạo lực trong 12 
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn 35
 V
I N
 S
C K
H E C NG 
NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tháng chiếm 59,6%..Như vậy đa phần ĐDV đều bị bạo 
lực thể chất và tâm thần. 
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự với Farrell, 
Bobrowski, C. và Bobrowski, P., (2006) tại Tasmania năm 
2002 cho thấy 63,5% ĐDV cho biết đã từng bị bạo lực về 
lời nói hoặc thể chất ở tropng 4 tuần làm việc [7].
Tương tự nghiên cứu của Hegney, Eley, Plank, 
Buikstra,và Parker (2006) tại Úc gần 50% ĐDV làm việc 
ở khu vực riêng và gần 60% điều dưỡng làm việc ở khu 
vực khác trải qua một số hình thức BLNLV trong 3 tháng 
ngay trước thời điểm nghiên cứu [18].
Nghiên cứu của Hills (2008) tại Úc với 76% ĐDV tại 
các bệnh viện đa khoa khu vực nông thôn đã trải qua bạo 
lực từ bệnh nhân trong vòng 3 tháng [19]. Nghiên cứu của 
Chapman và cộng sự (2010) bạo lực trong vòng 12 tháng 
là 75% ĐDV, bạo lực hàng tuần xảy ra với 25% ĐDV 
(Chapman và cộng sự 2010) [12]. 
Mặc dù các nghiên cứu có số thời gian theo dõi đánh 
giá là khác nhau, tuy vậy các kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi cũng như các cộng sự nước ngoài cho thấy tỷ lệ 
bạo lực ở ĐDV là khá phổ biến. Đây là một tỷ lệ đáng báo 
động và cần có sự quan tâm đúng mức của các ngành các 
cấp trong việc phòng ngừa và kỹ năng ứng phó với các 
dạng bạo lực trong bệnh viện.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu mô tả trên 300 điều dưỡng viên 
các Khoa Lâm sàng tại Bệnh viện Nhi Trung ương cho 
thấy tỷ lệ bạo lực nơi làm việc ở điều dưỡng viên do 
bệnh nhân gây ra tại các Khoa Lâm sàng tại Bệnh viện 
Nhi Trung ương là phổ biến với 72,7% điều dưỡng đã 
từng bị bạo lực và 59,6% điều dưỡng đã từng bị bạo lực 
trong 12 tháng qua, trong đó chiếm tỷ lệ cao là các bạo 
lực lời nói với tỷ lệ 69,7%, bạo lực về thể chất chiếm tỷ 
lệ thấp hơn nhưng tác động nặng hơn đối với điều dưỡng 
chiếm tỷ lệ 32,6%.
1. International Labour Office/International Council of Nurses/ and World Health Organization/Public Services 
International, Framework guidelines for addressing workplace violence in the health sector: The training manual. 
Geneva, International Labour Office, 2002, 2002.
2. F. Badger and B. Mullan, “Aggressive and violent incidents: perceptions of training and support among staff 
caring for older people and people with head injury,” J. Clin. Nurs., vol. 13, no. 4, pp. 526–533, May 2004.
3. D. M. Gates, G. L. Gillespie, and P. Succop, “Violence against nurses and its impact on stress and productivity,” 
Nurs. Econ., vol. 29, no. 2, p. 59–66, quiz 67, Apr. 2011.
4. Gates, D., & Kroeger, D, Violence against nurses: the silent epidemic., 29 (1) vols. ISNA Bulletin, 2002.
5. Y. McKoy and M. H. Smith, “Legal Considerations of Workplace Violence in Healthcare Environments,” Nurs. 
Forum (Auckl.), vol. 36, no. 1, pp. 5–14, Jan. 2001.
6. K. K. Wiley, “2007 Nebraska nurses survey results. Making a world of difference: workplace violence and nurs-
ing,” Nebr. Nurse, vol. 40, no. 4, pp. 14–19, Feb. 2007.
7. G. A. Farrell, C. Bobrowski, and P. Bobrowski, “Scoping workplace aggression in nursing: findings from an 
Australian study,” J. Adv. Nurs., vol. 55, no. 6, pp. 778–787, Sep. 2006.
8. Distasio, C., Hall, K., & Beachley, M, “The Maryland Nurses Association workplace violence survey report,” pp. 
22–26, 2005.
9. Chovanec-Toy, J, “Professionally speaking. HNA’s workplace violence survey indicates need for legislative ac-
tion, Hawaii Nurse, 7, 1, pp. 4-5. Viewed 3 May 2012,” 2000.
10. M. Roche, D. Diers, C. Duffield, and C. Catling-Paull, “Violence toward nurses, the work environment, and 
patient outcomes,” J. Nurs. Scholarsh. Off. Publ. Sigma Theta Tau Int. Honor Soc. Nurs., vol. 42, no. 1, pp. 13–22, Mar. 
2010.
11. T. Opie et al., “Levels of occupational stress in the remote area nursing workforce,” Aust. J. Rural Health, vol. 
18, no. 6, pp. 235–241, Dec. 2010.
12. R. Chapman, I. Styles, L. Perry, and S. Combs, “Nurses’ experience of adjusting to workplace violence: a 
theory of adaptation,” Int. J. Ment. Health Nurs., vol. 19, no. 3, pp. 186–194, Jun. 2010.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SỐ 41 - Tháng 11+12/2017
Website: yhoccongdong.vn36
2017JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
13. Đỗ Mạnh Hùng, “Nghiên cứu thực trạng nhận thức, thực hành y đức của điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi 
Trung ương và kết quả một số biện pháp can thiệp - Luận án Tiến sỹ Y tế công cộng,” 2013.
14. J. Wells and L. Bowers, “How prevalent is violence towards nurses working in general hospitals in the UK?,” J. 
Adv. Nurs., vol. 39, no. 3, pp. 230–240, Aug. 2002.
15. B. G. McKenna, S. J. Poole, N. A. Smith, J. H. Coverdale, and C. K. Gale, “A survey of threats and violent 
behaviour by patients against registered nurses in their first year of practice,” Int. J. Ment. Health Nurs., vol. 12, no. 1, 
pp. 56–63, Mar. 2003.
16. D. Ryan and J. Maguire, “Aggression and violence - a problem in Irish Accident and Emergency depart-
ments?,” J. Nurs. Manag., vol. 14, no. 2, pp. 106–115, Mar. 2006.
17. American nurse, “Workplace violence against emergency nurses remains high, American Nurse, 43, 6, p. 7. 
Viewed 3 May 2012.” 2011.
18. D. Hegney, R. Eley, A. Plank, E. Buikstra, and V. Parker, “Workplace violence in Queensland, Australia: the 
results of a comparative study,” Int. J. Nurs. Pract., vol. 12, no. 4, pp. 220–231, Aug. 2006.
19. D. Hills, “Relationships between aggression management training, perceived self-efficacy and rural general 
hospital nurses’ experiences of patient aggression,” Contemp. Nurse, vol. 31, no. 1, pp. 20–31, Dec. 2008.

File đính kèm:

  • pdfty_le_bao_luc_noi_lam_viec_o_dieu_duong_vien_do_benh_nhan_ga.pdf