Tụt huyết áp sau đặt nội khí quản ở bệnh nhân hồi sức tích cực

Đặt vấn đề: Đặt nội khí quản (NKQ) là một thủ thuật quan trọng cho việc hồi sức bệnh nhân. Thay đổi huyết

động như tụt huyết áp (HA) sau đặt NKQ thường xảy ra và có thể liên quan đến kết cục xấu của bệnh nhân.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ và khảo sát mối liên quan giữa biến chứng này với kết cục

của bệnh nhân hồi sức tích cực.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Với nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, chúng tôi khảo sát 87 bệnh

nhân đặt NKQ lần đầu tại khoa hồi sức tích cực (HSTC), bệnh viện đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, từ

15/11/2019 đến 15/6/2020. Dân số nghiên cứu là những bệnh nhân có huyết động ổn định trước đặt NKQ.

Kết quả: Trong 87 bệnh nhân đặt NKQ có 26 bệnh nhân tụt HA sau đặt NKQ (29,8%). Tỉ lệ tử vong

chung là 38/87 (43,6%). Ở nhóm bệnh nhân có tụt HA sau đặt NKQ có 16/26 bệnh nhân tử vong (61,5%) so với

nhóm bệnh nhân không có tụt HA sau đặt NKQ là 22/61 (36,1%) (p <0,05). tụt="" ha="" sau="" đặt="" nkq="" làm="">

nguy cơ tử vong trong bệnh viện lên 4,16 lần (KTC 95%, 1,70 – 13,60, p <>

Kết luận: Biến cố tụt HA sau đặt NKQ khá phổ biến và có liên quan tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện

pdf 5 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Tụt huyết áp sau đặt nội khí quản ở bệnh nhân hồi sức tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tụt huyết áp sau đặt nội khí quản ở bệnh nhân hồi sức tích cực

Tụt huyết áp sau đặt nội khí quản ở bệnh nhân hồi sức tích cực
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 104 
TỤT HUYẾT ÁP SAU ĐẶT NỘI KHÍ QUẢN 
Ở BỆNH NHÂN HỒI SỨC TÍCH CỰC 
Lê Cẩm Tú1, Phạm Thị Ngọc Thảo2 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Đặt nội khí quản (NKQ) là một thủ thuật quan trọng cho việc hồi sức bệnh nhân. Thay đổi huyết 
động như tụt huyết áp (HA) sau đặt NKQ thường xảy ra và có thể liên quan đến kết cục xấu của bệnh nhân. 
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ và khảo sát mối liên quan giữa biến chứng này với kết cục 
của bệnh nhân hồi sức tích cực. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Với nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu, chúng tôi khảo sát 87 bệnh 
nhân đặt NKQ lần đầu tại khoa hồi sức tích cực (HSTC), bệnh viện đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, từ 
15/11/2019 đến 15/6/2020. Dân số nghiên cứu là những bệnh nhân có huyết động ổn định trước đặt NKQ. 
Kết quả: Trong 87 bệnh nhân đặt NKQ có 26 bệnh nhân tụt HA sau đặt NKQ (29,8%). Tỉ lệ tử vong 
chung là 38/87 (43,6%). Ở nhóm bệnh nhân có tụt HA sau đặt NKQ có 16/26 bệnh nhân tử vong (61,5%) so với 
nhóm bệnh nhân không có tụt HA sau đặt NKQ là 22/61 (36,1%) (p <0,05). Tụt HA sau đặt NKQ làm tăng 
nguy cơ tử vong trong bệnh viện lên 4,16 lần (KTC 95%, 1,70 – 13,60, p <0,05). 
Kết luận: Biến cố tụt HA sau đặt NKQ khá phổ biến và có liên quan tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện. 
Từ khóa: đặt NKQ, tụt huyết áp sau đặt NKQ, tỉ lệ tử vong trong bệnh viện 
ABSTRACT 
POST-INTUBATION HYPOTENSION IN THE CRITICALLY ILL PATIENTS 
Le Cam Tu, Pham Thi Ngoc Thao 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 104 - 108 
Background: Endotracheal intubation is an important procedure in the resuscitation of patients. 
Hemodynamic alterations that occurred after endotracheal intubation such as post-intubation hypotension may 
associate with poor outcome. 
Objective: To determine the incidence of post-intubation hypotension and associated outcomes in the 
critically ill patients. 
Methods: With the prospective cohort study, we assessed 87 patients with the first-time intubation at the 
intensive care unit, University Medical Center, from November 15, 2019 to June 15, 2020. The incidence of post-
intubation hypotension was assessed in patients who were hemodynamically stable before intubation. 
Results: Among 87 patients with the first-time intubation in ICU, 26 patients had post-intubation 
hypotension (29.8%). Overall mortality was 38/87 (43.6%). Patients with post-intubation hypotension had 
greater incidence of in-hospital mortality (16/26 (61.5%) vs 22/61 (36.1%), p <0.05) compared with those without 
post-intubation hypotension. Post-intubation hypotension was associated with increased in-hospital mortality 
(OR = 4.16, 95% CI, 1.70 – 13.60, p <0.05). 
Conclusions: In our study, the incidence of post-intubation hypotension is common and is associated with 
increased in-hospital mortality. 
1Khoa Hồi sức Tích cực, Bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
2Bộ môn Hồi sức – Cấp cứu – Chống độc, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Cẩm Tú ĐT: 0338620993 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 105 
Keywords: endotracheal intubation post-intubation, hypotension, in-hospital mortality 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh nhân nặng tại khoa Hồi sức Tích cực 
(HSTC) thường cần phải đặt nội khí quản (NKQ) 
để thông khí và cung cấp oxy. Đặt NKQ tại khoa 
HSTC thường trong tình trạng khẩn cấp và bệnh 
nhân thường trong tình trạng suy hô hấp nặng, 
huyết động không ổn định và các bệnh lý tim 
mạch kèm theo(1). Một trong những thay đổi 
huyết động thường gặp sau đặt NKQ là tụt 
huyết áp (HA) sau đặt NKQ. Tụt HA ở bệnh 
nhân nặng có liên quan đến tình trạng suy đa cơ 
quan và tử vong(2). 
Mặc dù đặt NKQ là một thủ thuật rất quan 
trọng, đem lại nhiều lợi ích cho hồi sức bệnh 
nhân, tuy nhiên khi xảy ra tụt HA sau đặt NKQ 
có thể ảnh hưởng đến kết cục xấu của bệnh 
nhân(3,4). 
Do đó chúng tôi muốn thực hiện nghiên cứu 
này nhằm khảo sát tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ và 
mối liên quan của biến chứng này với nguy cơ tử 
vong trong bệnh viện. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân (BN) ≥18 tuổi, được đặt NKQ lần 
đầu tại khoa HSTC và huyết động ổn định trước 
khi đặt NKQ (HA tâm thu >90 mmHg, HA trung 
bình >65 mmHg, không sử dụng thuốc vận 
mạch) tại khoa HSTC Bệnh viện Đại học Y Dược 
TP. Hồ Chí Minh từ 15/11/2019 đến 15/06/2020. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân đã được đặt NKQ trước khi vào 
khoa HSTC, bệnh nhân có sử dụng thuốc vận 
mạch hoặc tụt HA trước khi đặt NKQ. 
Phương phápnghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ tiến cứu đơn trung tâm. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Chúng tôi ghi nhận các đặc điểm của bệnh 
nhân bao gồm tuổi, giới, chỉ định đặt NKQ 
thang điểm APACHE-II khi đặt NKQ; các thuốc 
an thần, dãn cơ khi đặt NKQ. Ghi nhận tỉ lệ tụt 
HA sau đặt NKQ cùng với kết cục chính là tỉ lệ 
tử vong trong bệnh viện, các kết cục khác bao 
gồm thời gian thở máy, thời gian điều trị tại 
khoa HSTC, thời gian điều trị tại bênh viện. 
Các biến số 
Tụt HA sau đặt NKQ 
Biến nhị giá có/không. 
Tụt HA sau đặt NKQ khi có một trong các 
trường hợp sau trong vòng 60 phút sau đặt 
NKQ: (1) HA tâm thu <90 mmHg hoặc (2) HA 
trung bình <65 mmHg hoặc (3) HA tâm thu giảm 
≥20% so mức HA nền hoặc (4) Bù dịch ≥30 ml/kg 
hoặc (5) Sử dụng hoặc tăng liều vận mạch(4). 
HA nền là giá trị trung bình của các giá trị 
HA đo trong vòng 60 phút trước đặt NKQ. 
HA được đo bằng phương pháp xâm lấn 
hoặc không xâm lấn, đo tự động bằng máy hoặc 
do nhân viên y tế thực hiện. 
Thời gian thở máy 
Biến định lượng, đơn vị: ngày. 
Tính từ lúc bệnh nhân được gắn máy thở 
qua NKQ đến khi ngừng máy thở hoặc tử vong. 
Thời gian điều trị tại khoa HSTC 
Biến định lượng, đơn vị: ngày. 
Tính từ khi bệnh nhân vào đến khi chuyển ra 
khỏi khoa hồi sức tích cực hoặc tử vong. 
Thời gian điều trị tại bệnh viện 
Biến định lượng, đơn vị: ngày. 
Tính từ khi bệnh nhân vào bệnh viện đến khi 
xuất viện hoặc tử vong. 
Tử vong trong bệnh viện 
Biến nhị giá có/không. 
Bệnh nhân tử vong tại bệnh viện hoặc nặng 
xin về được xem như tử vong. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Các biến định lượng được trình bày dưới 
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn khi số liệu có 
phân phối chuẩn. Nếu không có phân phối 
chuẩn thì số liệu sẽ được trình bày dưới dạng 
trung vị và khoảng tứ vị. So sánh các số liệu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 106 
bằng phép kiểm t hoặc phép kiểm Mann-
Whitney khi cần. Các biến định tính được mô tả 
bằng tần số và tỷ lệ phần trăm. So sánh bằng 
phép kiểm Chi bình phương hoặc phép kiểm 
chính xác Fisher. Dùng hồi quy Logistic đa biến 
để khử các yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên 
quan giữa tụt HA sau đặt NKQ với kết cục lâm 
sàng. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa 
thống kê. 
Các số liệu được xử lý với phần mềm SPSS 
20.0. 
Phân tích dữ liệu 
Các biến định lượng được trình bày dưới 
dạng trung bình ± độ lệch chuẩn khi số liệu có 
phân phối chuẩn. Nếu không có phân phối 
chuẩn thì số liệu sẽ được trình bày dưới dạng 
trung vị và khoảng tứ vị. So sánh các số liệu 
bằng phép kiểm t hoặc phép kiểm Mann-
Whitney khi cần. Các biến định tính được mô tả 
bằng tần số và tỷ lệ phần trăm. So sánh bằng 
phép kiểm Chi bình phương hoặc phép kiểm 
chính xác Fisher. Dùng hồi quy Logistic đa biến 
để khử các yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên 
quan giữa tụt HA sau đặt NKQ với kết cục lâm 
sàng. Giá trị p <0,05 được xem là có ý nghĩa 
thống kê. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại 
học Y Dược TP. HCM, số 644/HĐĐĐ-ĐHYD, 
ngày 15/11/2019. 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian 7 tháng, từ 15/11/2019 đến 
15/6/2020, có 168 bệnh nhân được đặt NKQ tại 
khoa HSTC bệnh viện đại học Y Dược TP. Hồ 
Chí Minh. Trong đó có 87 bệnh nhân được đặt 
NKQ lần đầu tại khoa HSTC và có huyết động 
ổn định trước khi đặt NKQ. Tụt HA sau đặt 
NKQ xảy ra ở 26/87 bệnh nhân (29,8%), 61/87 
bệnh nhân không bị tụt HA sau đặt NKQ 
(70,2%). 
Các đặc điểm chung của hai nhóm bệnh 
nhân có và không có tụt HA sau đặt NKQ được 
trình bày trong Bảng 1. Giữa hai nhóm bệnh 
nhân không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về tuổi, giới, điểm APACHE-II cũng như chỉ 
định đặt NKQ. 
Bảng 1: Đặc điểm chung của hai nhóm bệnh nhân 
Tụt HA 
(n = 26) 
Không tụt HA 
(n = 61) 
p 
Tuổi 75,23 ± 12,73 70,44 ± 16,31 0,16 
Nam/nữ 1,16 0,96 0,69 
APACHE II 18,69 ± 4,97 19,64 ± 6,23 0,49 
Chỉ định đặt NKQ 
0,37 
Suy hô hấp 26(100%) 54 (88,9%) 
Suy tuần hoàn 0 (0%) 5 (7,9%) 
Bảo vệ đường thở 0 (0%) 2 (3,2%) 
Các thuốc an thần, dãn cơ sử dụng khi đặt 
NKQ cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê giữa 2 nhóm bệnh nhân (Bảng 2). 
Bảng 2: Sử dụng thuốc an thần, dãn cơ 
Tụt HA 
(n = 26) 
Không tụt 
HA (n = 61) 
p 
Chỉ sử dụng thuốc an thần 8 (30,8%) 13 (21,3%) 0,45 
Sử dụng thuốc an thần và 
opioid 
8 (30,8%) 24 (39,3%) 0,44 
Sử dụng thuốc an thần và 
dãn cơ 
6 (23,1%) 6 (9,8%) 0,17 
Sử dụng thuốc an thần, 
opioid và dãn cơ 
3 (11,5%) 16 (26,2%) 0,12 
Không sử dụng thuốc 1 (3,8%) 2 (3,4%) 1 
Trong 87 bệnh nhân được đưa vào nghiên 
cứu có 38 bệnh nhân tử vong trong bệnh viện 
(43,6%). Tỉ lệ tử vong ở nhóm bệnh nhân tụt HA 
sau đặt NKQ cao hơn hẳn so với nhóm bệnh 
nhân không tụt HA sau đặt NKQ (16/26 (61,5%) 
so với 22/61 (36,1%), p = 0,02). Tuy nhiên các kết 
cục khác bao gồm thời gian thở máy, thời gian 
điều trị tại khoa HSTC, thời gian điều trị tại bệnh 
viện không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(Bảng 3). 
Bảng 3: Thời gian thở máy và thời gian điều trị 
Tụt HA 
(n = 26) 
Không tụt 
HA (n = 61) 
p 
Thời gian điều trị tại BV 21 (13 – 38) 19 (12 – 31) 0,39 
Thời gian điều trị tại ICU 13,5 (9 – 20) 13 (7 – 20) 0,47 
Thời gian thở máy 9,5 (6 – 14) 9 (5 – 17) 0,50 
Phân tích hồi quy đơn biến các yếu tố liên 
quan tử vong trong bệnh viện được mô tả trong 
Bảng 4. Khi phân tích đơn biến, xơ gan, tụt HA 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021
Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 107 
sau đặt NKQ là các yếu tố nguy cơ có liên quan 
tăng nguy cơ tử vong. Trong đó, tụt HA sau đặt 
NKQ làm tăng 3,04 lần nguy cơ tử vong so với 
không tụt HA sau đặt NKQ. Tuổi, giới, BMI, các 
bệnh nền khác không liên quan đến nguy cơ tử 
vong ở BN đặt NKQ tại khoa HSTC. 
Với bệnh nhân có huyết động ổn định trước 
đặt NKQ, trong mô hình hồi qui logistic đa biến 
bao gồm các đặc điểm lâm sàng, bệnh nền, biến 
chứng tụt HA sau đặt NKQ, chỉ có khác biệt về 
biến chứng tụt HA sau đặt NKQ là có ý nghĩa 
thống kê. Qua đó, bệnh nhân có biến chứng này 
sẽ làm tăng nguy cơ tử vong 4,16 lần. Các mối 
liên quan này đã hiệu chỉnh và độc lập bất kể sự 
thay đổi của các yếu tố khác trong mô hình 
(Bảng 5). 
Bảng 4: Mối liên quan giữa một số yếu tố và tỉ lệ tử vong tại bệnh viện (phân tích đơn biến) 
Đặc điểm Sống (n = 49) Tử vong (n = 38) OR (95% KTC) p 
Tuổi 73,43 ±14,68 69,87 ± 16,38 1,01 (0,98 – 1,04) 0,28 
Giới: Nam 
 Nữ 
28 (63,6%) 
21 (47,7%) 
16 (36,4%) 
23 (52,3%) 
0,52 (0,22 – 1,22) 0,19 
BMI 22,07 ± 3,56 22,47 ± 3,40 0,968 (0,85 – 1,09) 0,59 
APACHE II 18,31 ± 6,17 20,77 ± 5,17 0,92 (0,85 – 1,00) 0,05 
Đái tháo đường 17 (60,7%) 11 (39,3%) 0,67 (0,30 – 1,91) 0,56 
Bệnh mạch vành 3 (75%) 1 (25%) 0,41 (0,04 – 4,15) 0,44 
Suy tim 7 (53,8%) 6 (46,2%) 0,88 (0,27 – 2,90) 0,84 
Bệnh mạch máu não 5 (83,3%) 1 (16,7%) 0,23 (0,02 – 2,12) 0,16 
Bệnh thận mạn 11 (61,1%) 7 (38,9%) 0,78 (0,27 – 2,25) 0,64 
Xơ gan 2 (4%) 8 (31%) 2,6 (0,31 – 21,83) 0,03 
Tụt HA sau đặt NKQ 10 (38,5%) 16 (61,5%) 3,04 (1,17 – 7,71) 0,02 
Bảng 5: Mối liên quan giữa một số yếu tố và tỉ lệ tử vong tại bệnh viện (phân tích đa biến) 
 Đơn vị OR (95% KTC) p 
Tuổi 1 tuổi lớn hơn 1,01 (0,97 – 1,05) 0,48 
Giới Nam so với nữ 0,55 (0, 18 – 1,64) 0,28 
BMI 1 điểm lớn hơn 0,91 (0,77 – 1,08) 0,30 
APACHE II 1 điểm lớn hơn 0,94 (0,85 – 1,06) 0,35 
Đái tháo đường Có 0,61 (0,19 – 1,95) 0,41 
Bệnh mạch vành Có 0,30 (0,01 – 6,16 0,43 
Suy tim Có 1,10 (0,66 – 1,84) 0,69 
Bệnh mạch máu não Có 0,28 (0,02 – 3,71) 0,33 
Bệnh thận mạn Có 0,79 (0,19 – 3,16) 0,74 
Xơ gan Có 3,11 (0,39 – 24,53) 0,28 
Tụt HA sau đặt NKQ Có 4,16 (1,70 – 13,60) 0,01 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy 
biến chứng tụt HA sau đặt NKQ khá thường 
gặp, chiếm đến gần 1/3 số bệnh nhân được đặt 
NKQ ở khoa HSTC. Trong 87 bệnh nhân được 
đưa vào nghiên cứu có 26 bệnh nhân có tụt HA 
sau đặt NKQ (29,8%), 61 BN không tụt HA sau 
đặt NKQ (70,2%). 
Nghiên cứu hồi cứu của Smischney NJ 
(2015), tại 2 khoa HSTC Mỹ trong vòng 2 năm 
với dân số nghiên cứu là 147 bệnh nhân gồm 
65% bệnh nhân nội khoa và 35% bệnh nhân 
ngoại khoa. Tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ là 19,7% 
(29/147 bệnh nhân)(3). Có thể do khoảng thời 
gian theo dõi sau đặt NKQ trong nghiên cứu 
của chúng tôi dài hơn (60 phút so với 30 phút) 
nên tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ của chúng tôi 
cũng cao hơn. 
Green RS (2015) khảo sát 479 bệnh nhân đặt 
NKQ ở khoa HSTC, tại Canada. Với định nghĩa 
tụt HA tương tự trong nghiên cứu của chúng tôi, 
tỉ lệ tụt HA trong vòng 15 phút sau đặt NKQ lên 
đến 46%(4). 
Một nghiên cứu của Smischney NJ (2020) tại 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 1 * 2021 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hồi Sức Cấp Cứu – Nhiễm 108 
16 khoa HSTC nội/ ngoại khoa tại Mỹ về các yếu 
tố nguy cơ dự đoán tụt huyêt áp sau đặt NKQ. 
Tỉ lệ tụt HA ghi nhận trong nghiên cứu này là 
36,8% (344/934 bệnh nhân). Có nhiều yếu tố liên 
quan đến biến chứng tụt HA sau đặt NKQ như: 
độ nặng của bệnh, tuổi cao, chẩn đoán nhiễm 
trùng huyết, đặt NKQ khi bệnh nhân ngừng tim, 
HA trung bình trước đặt NKQ <65 mmHg, suy 
hô hấp cấp, sử dụng lợi tiểu trong vòng 24 giờ 
trước đặt NKQ, dùng vận mạch ngay trước khi 
đặt NKQ(5). 
Giữa 2 nhóm bệnh nhân chúng tôi không tìm 
thấy sự khác biệt về thời gian điều trị tại bệnh 
viện, thời gian điều trị tại khoa HSTC cũng như 
thời gian thở máy. Tuy nhiên, chúng tôi ghi 
nhận tỉ lệ tử vong ở nhóm BN có tụt HA cao hơn 
ở nhóm bệnh nhân không tụt HA (61,5% ở nhóm 
BN có tụt HA so với 36,1% ở nhóm bệnh nhân 
không tụt HA sau đặt NKQ, p=0,02). 
Trong nghiên cứu này, khi phân tích đơn 
biến hay phân tích hồi quy đa biến, chúng tôi 
nhận thấy tụt HA sau đặt NKQ có liên quan 
tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện. Khi phân 
tích hồi quy đa biến, nguy cơ tử vong tăng 4,16 
lần (OR=4,16, KTC 95%, 1,7–13,60, p=0,018). Các 
nghiên cứu trước đây cho thấy tụt HA sau đặt 
NKQ thường xảy ra và có liên quan đến việc 
tăng nguy cơ tử vong. Nghiên cứu của Green RS 
(2015), khi phân tích đơn biến thì tụt HA sau đặt 
NKQ liên quan tăng nguy cơ tử vong. Tuy 
nhiên, khi phân tích hồi qui đa biến, thì tụt HA 
sau đặt NKQ không liên quan đến tăng nguy cơ 
tử vong đơn thuần mà liên quan đến tăng nguy 
cơ vào nhóm kết cục xấu (bao gồm thời gian thở 
máy, thời gian nằm HSTC, lọc máu và tử vong) 
(OR=2, KTC 95%, 1,30–3,07, p=0,0017)(4). 
Nghiên cứu hồi cứu của Smischney NJ 
(2016), đối tượng là bệnh nhân HSTC được đặt 
NKQ cấp cứu, loại trừ bệnh nhân có huyết 
động không ổn định trong vòng 60 phút trước 
khi đặt NKQ. Tụt HA sau đặt NKQ có liên 
quan đến tăng tỷ lệ tử vong tại bệnh viện 
(11/29, 38% so với 19/118, 16%) và thời gian 
nằm viện (21 ngày (10–37) so với 12 ngày (7–
21) khi phân tích đa biến(6). 
Trong nghiên cứu của Smischney NJ năm 
2015, sử dụng vận mạch sau đặt NKQ là yếu tố 
liên quan tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện 
(OR 3,84, KTC 95, %, 1,31–11,57, p=0,01) và nguy 
cơ tử vong 90 ngày (OR 2,37, KTC 95%, 1,18–
4,61, p=0,02)(3). 
Điểm mạnh và hạn chế 
Nghiên cứu của chúng tôi có một số hạn 
chế. Đây là nghiên cứu quan sát, đơn trung 
tâm. Việc thực hành đặt NKQ và tỉ lệ xảy ra 
các biến chứng liên quan đến đặt NKQ có thể 
khác nhau giữa các bệnh viện. Cũng như chưa 
khảo sát các yếu tố nguy cơ của tụt HA liên 
quan đến đặt NKQ. 
KẾT LUẬN 
Tỉ lệ tụt HA sau đặt NKQ ở bệnh nhân 
HSTC là 29,8%. Tỉ lệ tử vong ở nhóm tụt HA sau 
đặt NKQ là 61,5%, tỉ lệ tử vong ở nhóm không 
tụt HA sau đặt NKQ là 36,1%. Tụt HA sau đặt 
NKQ liên quan tăng nguy cơ tử vong trong bệnh 
viện lên 4,16 lần (OR=4,16, KTC 95%, 1,70–13,60). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. De Jong A, Jung B, Jaber S (2014). Intubation in the ICU: we 
could improve our practice. Crit Care, doi: 10.1186/cc13776. 
2. Goto T, Goto Y, Hagiwara Y, et al (2019). Advancing emergency 
airway management practice and Research. Acute Medicine & 
Surgery, 6:336-351. 
3. Smischney NJ, Dermici Ö, et al (2015). Vasopressor use as a 
surrogate for post-intubation hemodynamic instability is 
associated with in-hospital and 90-day mortality: a retrospective 
cohort study. BMC Res Notes, 8:445-453. 
4. Green RS, Turgeon A, McIntyre L, et al (2015). Postintubation 
hypotension in intensive care unit patients: A multicenter cohort 
study. J Crit Care, 30(5):1055-1060. 
5. Smischney NJ, Kashyap R, Khanna AK, et al (2020). Risk factors 
for and prediction of post-intubation hypotension in critically ill 
adults: A multicenter prospective cohort study. PLoS ONE, doi: 
10.1371/journal.pone.0233852. 
6. Smischney NJ, Dermirci O, Diadrich DA, et al (2016). Incidence 
of and Risk Factors For Post-Intubation Hypotension in the 
Critically Ill. Med Sci Monit, 22:346-355. 
Ngày nhận bài báo: 28/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2020 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2021 

File đính kèm:

  • pdftut_huyet_ap_sau_dat_noi_khi_quan_o_benh_nhan_hoi_suc_tich_c.pdf