Tương quan giữa năng suất làm việc với một số chỉ số nhân trắc của cán bộ trường đại học

Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 374 cán bộ Trường Đại học Y Hà Nội để đánh giá về mối tương quan giữa

năng suất làm việc và một số chỉ số nhân trắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số các chỉ số nhân trắc như

BMI, WHR ở nam cao hơn so với nữ giới, còn phần trăm mỡ cơ thể ở nữ giới lại cao hơn nam. Tình trạng thừa

cân chiếm 18,7% và béo phì chiếm 17,0% (theo phân loại BMI). 13,3% có nguy cơ tích mỡ bụng (theo chỉ số

vòng eo/vòng mông) và theo chỉ số phần trăm mỡ cơ thể có 20,8% có nguy cơ thừa cân và 4,9% là béo phì.

Đánh giá tương quan với năng suất làm việc qua thang đo SPS6 (1 tháng qua) và HWQ (1 tuần qua) bước đầu

cho thấy đã có mối liên quan giữa các chỉ số này, tuy nhiên các liên quan còn rất yếu và chưa có ý nghĩa thống

kê. Cần có thêm các nghiên cứu với quy mô rộng hơn và phân tích, đánh giá sâu hơn về mối tương quan này

pdf 10 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Tương quan giữa năng suất làm việc với một số chỉ số nhân trắc của cán bộ trường đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tương quan giữa năng suất làm việc với một số chỉ số nhân trắc của cán bộ trường đại học

Tương quan giữa năng suất làm việc với một số chỉ số nhân trắc của cán bộ trường đại học
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020 147
TƯƠNG QUAN GIỮA NĂNG SUẤT LÀM VIỆC VỚI MỘT SỐ CHỈ 
SỐ NHÂN TRẮC CỦA CÁN BỘ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Nguyễn Thị Thu Hường¹, , Đỗ Thị Thanh Toàn², Trần Hải Vân³, Hồ Thị Kim Thanh⁴
1Bộ môn Kinh tế Y tế, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
²Bộ môn Thống kê tin học Y học, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
³Sinh viên Y6 Y học dự phòng, Trường Đại học Y Hà Nội
⁴Bộ môn Y học gia đình, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 374 cán bộ Trường Đại học Y Hà Nội để đánh giá về mối tương quan giữa 
năng suất làm việc và một số chỉ số nhân trắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy một số các chỉ số nhân trắc như 
BMI, WHR ở nam cao hơn so với nữ giới, còn phần trăm mỡ cơ thể ở nữ giới lại cao hơn nam. Tình trạng thừa 
cân chiếm 18,7% và béo phì chiếm 17,0% (theo phân loại BMI). 13,3% có nguy cơ tích mỡ bụng (theo chỉ số 
vòng eo/vòng mông) và theo chỉ số phần trăm mỡ cơ thể có 20,8% có nguy cơ thừa cân và 4,9% là béo phì. 
Đánh giá tương quan với năng suất làm việc qua thang đo SPS6 (1 tháng qua) và HWQ (1 tuần qua) bước đầu 
cho thấy đã có mối liên quan giữa các chỉ số này, tuy nhiên các liên quan còn rất yếu và chưa có ý nghĩa thống 
kê. Cần có thêm các nghiên cứu với quy mô rộng hơn và phân tích, đánh giá sâu hơn về mối tương quan này. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Chỉ số nhân trắc, năng suất lao động
Chỉ số nhân trắc học bao gồm cân nặng, 
chiều cao, chỉ số khối cơ thể-BMI (Body Mass 
Index) và một số các số đo cơ thể khác. Chỉ số 
nhân trắc như BMI và tỉ lệ vòng eo/vòng hông-
WHR (Waist-Hip Ratio) được sử dụng để đánh 
giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân: suy 
dinh dưỡng, bình thường hay thừa cân béo phì. 
Đặc biệt, chỉ số BMI được Tổ chức Y tế Thế giới 
thường dùng để nhận định tình trạng gầy béo. 
Thời gian gần đây, chỉ số phân bố mỡ cơ thể 
(Body Fat Percentage) cũng được quan tâm 
trong đánh giá nhân trắc. Đây là một chỉ số đo 
lường tình trạng tích lũy mỡ trong cơ thể để 
đánh giá thừa cân, béo phì.
Dựa vào chỉ số nhân trắc trên, tình trạng có 
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe nhiều nhất 
có thể kể đến thừa cân, béo phì.¹ Tổ chức Y tế 
Thế giới đã định nghĩa thừa cân, béo phì là tình 
trạng tích tụ chất béo quá mức và không bình 
thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân, gây 
nguy hại tới sức khỏe.² Một số nghiên cứu tại 
Mỹ cho thấy các nhân viên văn phòng có thừa 
cân, béo phì, họ không chỉ có thể sẽ bị mắc các 
bệnh mãn tính không lây mà còn bị ảnh hưởng 
trong công việc như giảm năng suất, vắng mặt 
thường xuyên hơn và nghỉ ốm, BMI béo phì có 
liên quan đến sự vắng mặt lớn hơn đáng kể 
ở những người lao động Mỹ so với BMI bình 
thường, sau khi kiểm soát các đặc điểm nhân 
khẩu học (ví dụ: tuổi, giới tính, chủng tộc).3,4,5 
Cũng như trong một nghiên cứu quy mô lớn ở 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thu Hường, 
Bộ môn Kinh tế Y tế, Viện Đào tạo Y học dự phòng 
và Y tế Công cộng
Email: [email protected]
Ngày nhận: 13/05/2020
Ngày được chấp nhận: 29/07/2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020148
Canada cho thấy, trong số một nhóm 56.971 
người được hỏi, béo phì là một yếu tố dự báo 
độc lập cho sự vắng mặt và khả năng thể hiện 
trong công việc.⁶ Do vậy, gánh nặng y tế liên 
quan đến béo phì ngày càng tăng sẽ dẫn đến 
ảnh hưởng về năng suất làm việc và gây ra 
những hậu quả kinh tế lớn. Những người dễ 
thừa cân béo phì thường là những nhân viên 
văn phòng, hành chính, mà từ lối sống sinh 
hoạt, làm việc và thói quen ăn uống của họ 
là những yếu tố chính gây nên tình trạng này. 
Ngoài ra, theo nghiên cứu của Satyanarayana 
và cộng sự năm 1989, năng suất làm việc trong 
một ngày cơ bản khi so sánh giữa nhóm có BMI 
thấp và bình thường cho thấy những người có 
trung bình BMI thấp nhất (16,5) cũng nằm trong 
nhóm có năng suất làm việc thấp nhất.⁷
Theo một nghiên cứu cắt ngang trên 10.026 
nhân viên trong nhiều ngành nghề và làm việc 
trên khắp Hoa Kỳ, nhân viên béo phì có số lần 
khám bác sĩ cao hơn 20% so với nhân viên cân 
nặng bình thường (khoảng tin cậy [CI] 16%, 
24%, p < 0,01) và thăm khám tại khoa cấp cứu 
cao hơn 26% (CI 11%, 42%, p < 0,01). So với 
nhân viên cân nặng bình thường, tỷ lệ vắng mặt 
trong công việc cao hơn 10% và 12% đối với 
nhân viên thừa cân và béo phì (CI 5%, 15% và 
5%, 19%, tất cả p < 0,01). So với các nhân viên 
cân nặng bình thường, những người lao động 
béo phì và thừa cân được ước tính sẽ tốn của 
chủ lao động nhiều hơn $644 và $201 mỗi nhân 
viên mỗi năm. Nghiên cứu này cung cấp bằng 
chứng cho thấy các nhà tuyển dụng phải đối 
mặt với gánh nặng tài chính do béo phì.⁸ 
Năng suất làm việc có thể đánh giá về lượng 
giờ làm việc, số lượng và chất lượng công việc, 
tần suất vắng mặt, có mặt nhưng năng suất làm 
việc giảm Một trong những yếu tố ảnh hưởng 
quan trọng đến năng suất làm việc chính là phát 
triển nhân lực bao gồm sức khỏe của người 
lao động. Sức khỏe của người lao động thể 
hiện qua chiều cao, cân nặng, tinh thần, trạng 
thái thoải mái về thể chất, tình trạng sức khỏe 
ảnh hưởng tới năng xuất của người lao động. 
Người lao động có tình trạng sức khỏe tốt sẽ 
hoàn thành công việc với chất lượng cao hơn 
và ngược lại.
Tại Việt Nam, có rất ít nghiên cứu về mối 
liên quan giữa các chỉ số nhân trắc với năng 
suất lao động. Vấn đề sức khỏe của những 
nhân viên văn phòng, hành chính và giảng viên 
trong Trường Đại học Y Hà Nội là những người 
mà đang mang trọng trách tổ chức và đào tạo 
trong nhà trường cần được chú trọng. Mặc dù 
các chương trình khám sức khỏe định kỳ được 
tổ chức hàng năm với cán bộ, viên chức trong 
trường nhưng việc đo lường, tính toán các chỉ 
số nhân trắc, đặc biệt là tỉ lệ phân bố mỡ trong 
cơ thể vẫn chưa được quan tâm cũng như 
chưa có nghiên cứu đo lường năng suất làm 
việc trong nhóm này. Vì vậy mà nghiên cứu 
được thực hiện nhằm thu thập các thông tin về 
chỉ số nhân trắc, năng suất làm việc của nhân 
viên văn phòng, hành chính và giảng viên, từ 
đó phân tích mối liên quan giữa các yếu tố này 
để đưa ra lời khuyên tốt nhất và tạo nên một nơi 
làm việc thật lành mạnh. Chính vì những lý do 
trên chúng tôi quyết định sẽ tiến hành nghiên 
cứu với mục tiêu sau: “Đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng và mối tương quan giữa các chỉ số nhân 
trắc học với năng suất làm việc của các cán bộ, 
nhân viên văn phòng Trường Đại học Y Hà Nội”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Cán bộ, nhân viên văn phòng và giảng viên 
thuộc các khối Y học cơ bản, Y học cơ sở, Y 
học dự phòng và Y tế công cộng tại Trường Đại 
học Y Hà Nội
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Đối tượng là toàn bộ nhân viên văn phòng 
và giảng viên các khối y học cơ bản, cơ sở, y 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020 149
học dự phòng và y tế công cộng tại Trường Đại 
học Y Hà Nội.
- Đối tượng được giải thích đầy đủ và tự 
nguyện tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Đối tượng là các bác sĩ đang làm việc tại 
các cơ sở y tế
- Đối tượng là giảng viên thỉnh giảng
- Đối tượng đang trong kỳ nghỉ phép
- Đối tượng đang đi học nước ngoài
- Đối tượng đi công tác dài ngày, không có 
mặt tại cơ quan trong thời điểm nghiên cứu 
- Đối tượng đang trong thời gian nghỉ ốm, 
bệnh nặng nghỉ việc 
- Phụ nữ mang thai hoặc cho con bú dưới 
6 tháng.
- Đối tượng đang bị phù.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2019 đến 
tháng 6/2020.
Địa điểm nghiên cứu: Tại Trường Đại học Y 
Hà Nội.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu: Chọn 
mẫu toàn bộ tất cả nhân viên văn phòng và 
giảng viên tại các khối cơ bản, cơ sở, Y học dự 
phòng tại trường Đại học Y Hà Nội thoả mãn 
điều kiện tiêu chuẩn lựa chọn. Có 347 cán bộ 
thuộc các khối phòng ban, hành chính, trung 
tâm và khối giảng viên các môn cơ bản, cơ sở 
và Y học dự phòng đã tham gia vào nghiên cứu.
Biến số và chỉ số nghiên cứu:
- Nhóm biến số Thông tin chung của đối 
tượng nghiên cứu: Tuổi, giới, trình độ học vấn
- Nhóm biến số về chỉ số nhân trắc: Cân 
nặng, chiều cao, chu vi vòng bụng, chu vi vòng 
mông, phần trăm mỡ cơ thể
- Nhóm biến số về công cụ đánh giá năng suất 
làm việc: Bộ công cụ Stanford Presenteeism 
Scale (SPS-6) gồm 6 câu hỏi đánh giá tình 
trạng công việc trong 1 tháng qua. Mỗi câu hỏi 
được đo lường trên thang điểm từ 1 đến 5; Bộ 
công cụ Health and Work Questionnaire (HWQ) 
đánh giá công việc trong 1 tuần qua. Gồm 24 
câu hỏi, mỗi câu được đánh giá trên thang điểm 
từ 1 đến 10.
Quy trình tiến hành nghiên cứu: Nghiên cứu 
được thực hiện theo các bước như sau:
- Bước 1: Liên hệ với phòng Tổ chức cán bộ 
để lập danh sách đối tượng nghiên cứu
- Bước 2: Xác định và sàng lọc đối tượng đủ 
tiêu chuẩn lựa chọn vào nghiên cứu qua thăm 
khám sức khỏe
- Bước 3: Tiếp cận, giới thiệu nghiên cứu và 
thỏa thuận tham gia nghiên cứu
- Bước 4: Đo các chỉ số nhân trắc: cân, chiều 
cao, vòng bụng, vòng hông, tỉ lệ phân bố mỡ
- Bước 5: Gửi phiếu điều tra tự điền offline/
online cho tất cả các nhân viên, hướng dẫn 
cách điền và nộp
Thu thập số liệu được tiến hành trong các 
buổi khám sức khỏe định kỳ của Trường. Trong 
trường hợp, đối tượng không đến khám sức 
khỏe định kỳ vào đợt này, nhóm nghiên cứu sẽ 
điều tra vét tại các đơn vị phòng ban để thu 
thập thông tin.
Tại buổi khám sức khỏe định kỳ, các đối 
tượng sẽ được thực hiện các nội dung sau:
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020150
Sơ đồ 1. Các nội dung đối tượng cần làm khi tham gia nghiên cứu
3. Xử lý số liệu
Số liệu sau khi thu thập sẽ được làm sạch 
và nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 
3.1. Các phân tích sẽ được thực hiện bằng phần 
mềm STATA 15. Những số liệu thống kê sẽ được 
sử dụng để phân tích đặc điểm về giới, tuổi, đặc 
điểm nghề nghiệp, cùng với trung bình, độ lệch 
chuẩn dành cho biến định lượng, tần số cho biến 
định tính. Biểu đồ đám mây, hệ số tương quan 
Pearson/Spearman sẽ được sử dụng để phân 
tích mối tương quan giữa năng suất làm việc 
(đầu ra là bộ câu hỏi SPS-6 và HWQ) và chỉ số 
dinh dưỡng (BMI, WHR, tỷ lệ % mỡ cơ thể).
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua Hội đồng 
đạo đức Trường Đại học Y Hà Nội mã số 19/
HMUIRRB ngày 10 tháng 5 năm 2019. 
Các đối tượng tham gia nghiên cứu là tự 
nguyện và có quyền rút lui khỏi nghiên cứu bất 
cứ lức nào. Các thông tin đối tượng cung cấp 
cho nghiên cứu là bí mật và chỉ phục vụ cho mục 
đích nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nam Nữ Tổng
Giá trị p
n % n % n %
Tổng 130 37,5 217 62,5 374 100
Tuổi 41,0 (11,4) 37,4 (8,0) 38,8 (9,6) 0,016
Vị trí công việc
Chuyên viên 77 59,2 145 66,8 222 64,0
0,154
Giảng viên 53 40,8 72 33,2 125 36,0
Trình độ học vấn
Trung cấp/ Cao đẳng 10 7,7 12 5,5 22 6,3
0,657
Đại học 41 31,5 78 35,9 119 34,3
Sau đại học 75 57,7 123 56,7 198 57,1
Khác 4 3,1 4 1,9 8 2,3
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020 151
Đặc điểm
Nam Nữ Tổng
Giá trị p
n % n % n %
Đơn vị công tác
Các môn cận lâm sàng 5 3,9 7 3,2 12 3,5
0,096
Các môn cơ sở, cơ bản 35 27,1 61 28,1 96 27,7
Viện YHDP và YTCC 27 20,9 44 20,3 71 20,5
Phòng ban 53 41,1 69 31,8 122 35,3
Trung tâm 9 7,0 36 16,6 45 13,0
Bảng 1 cho thấy phần lớn đối tương nghiên cứu là nữ giới (62,5%). Độ tuổi trung bình 38,8 ± 9,6. 
Tuổi của nam cao hơn so với nữ (p < 0,05). Khối chuyên viên chiếm 64,0%, còn lại giảng viên chiếm 
36,0%. Trình độ học vấn của đối tượng phần lớn là sau đại học (57,1%). Theo đơn vị công tác gồm 
có 35,3% là từ các phòng ban; 27,7% là giảng viên thuộc các môn cơ sở, cơ bản; 20,5% là các giảng 
viên và chuyên viên thuộc Viện đào tạo YHDP&YTCC và 3,5% là giảng viên các Bộ môn cận lâm sàng.
Bảng 2. Các chỉ số nhân trắc học của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nam Nữ Tổng
Giá trị p
n % n % n %
Tổng 130 37,5 217 62,5 374 100
Chỉ số BMI* 24,0 (2,9) 21,9 (2,2) 22,7 (2,7) < 0,001
Phân loại BMI*
Thiếu cân 2 1,5 8 3,7 10 2,9
< 0,001
Bình thường 55 42,3 158 72,8 213 61,4
Thừa cân 33 25,4 32 14,8 65 18,7
Béo phì 40 30,8 19 8,8 60 17,0
Chỉ số WHR** 0,9 (0,1) 0,8 (0) 0,8 (0,1) < 0,001
Phân loại WHR**
Có nguy cơ tích mỡ bụng 30 23,1 16 7,4 46 13,3
< 0,001
Không có nguy cơ tích mỡ bụng 100 76,9 201 92,6 301 86,7
Tỷ lệ % mỡ cơ thể 21,8 (4,5) 29,8 (4,2) 26,8 (5,8) < 0,001
Phân loại theo tỷ lệ % mỡ cơ thể 
Thiếu cân 0 0 1 0,5 1 0,3
< 0,001
Chuẩn dưới 17 13,1 57 26,3 74 21,3
Chuẩn trên 50 38,5 133 61,3 183 52,7
Thừa cân 50 38,5 22 10,1 72 20,8
Béo phì 13 10,0 4 1,8 17 4,9
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020152
*BMI: Chỉ số khối cơ thể, **WHR: Chỉ số 
vòng eo/vòng hông
Chỉ số BMI trung bình là 22,68 ± 2,71. Chỉ số 
BMI ở nam cao hơn ở nữ (p < 0,05). Theo phân 
loại BMI, tình trạng thừa cân chiếm 18,7% và 
béo phì chiếm 17,0%. Ở nam có chỉ số vòng eo/
vòng mông cao hơn so với nữ (p < 0,05). Đánh 
giá theo chỉ số này cho thấy 13,3% có nguy cơ 
tích mỡ bụng và nguy cơ ở nam cao hơn so với 
nữ (p < 0,05). Tỉ lệ phần trăm mỡ cơ thể trung 
bình 26,8 ± 5,8. Theo phân loại phần trăm mỡ 
cơ thể, có 20,8% có nguy cơ thừa cân và 4,9% 
là béo phì. Tỉ lệ ở nhóm nam cho thấy cao hơn 
so với nữ.
Biểu đồ 1. Phân bố các giá trị của thang đo Stanford Presenteeism Scale (SPS-6) và Health 
and Work Questionnaire (HWQ) theo các cấu phần
Biểu đồ 1 trình bày thang điểm SPS6 đánh 
giá năng suất làm việc trong 1 tháng qua, điểm 
càng cao cho thấy năng suất càng cao và ngược 
lại. Bộ câu hỏi gồm 6 câu theo thang điểm tư 1 
đến 5. Điểm trung bình của năng suất làm việc 
chung là 3,2 ± 0,7 điểm. Trong đó cấu phần hoàn 
thành công việc là 3,04 ± 0,95 điểm và cấu phần 
tránh được các vấn đề gây xao nhãng là 3,4 ± 
0,8 điểm.
Thang điểm HWQ đánh giá năng suất làm 
việc trong 1 tháng qua theo thang điểm 24 câu, 
điểm càng cao cho thấy năng suất càng cao và 
ngược lại. Bộ câu hỏi sau kiểm định đã loại đi 4 
câu còn 20 câu, với mỗi câu được đánh giá theo 
thang điểm từ 1 đến 10. Điểm trung bình của 
năng suất làm việc chung theo thang này là 7,8 ± 
1,1 điểm. Trong đó cấu phần năng suất làm việc 
là 7,7 ± 1,2 điểm, cấu phần khả năng đáp ứng 
với sự mất tập trung/khó chịu là 8,0 ± 1,6 điểm và 
cấu phần sự hài lòng trong công việc/ngoài công 
việc là 7,7 ± 1,3 điểm.
Mối tương quan giữa một số chỉ số nhân trắc 
với năng suất làm việc theo SPS6 được trình bày 
trong Biểu đồ 2. Kết quả cho thấy tương quan 
thuận giữa BMI và WHR với năng suất làm việc 
và tương quan nghịch giữa phân bố mỡ cơ thể 
với năng suất làm việc. Về độ lớn cho thấy mối 
tương quan này là tương quan là rất yếu (r < 0,3).
Biểu đồ 3 cho thấy tương quan giữa các chỉ 
số nhân trắc với năng suất làm việc theo HWQ là 
tương quan thuận. Tuy nhiên về độ lớn cho thấy 
mối tương quan là rất yếu (r < 0,3).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020 153
Biểu đồ 2. Mối tương quan giữa các chỉ số nhân trắc học và năng suất làm việc theo SPS-6 
của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3. Mối tương quan giữa các chỉ số nhân trắc học và năng suất làm việc theo HWQ 
của đối tượng nghiên cứu
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy một số các 
chỉ số nhân trắc đánh giá tình trạng thừa cân, béo 
phì như BMI, WHR ở nam cao hơn so với nữ giới, 
còn phần trăm mỡ cơ thể ở nữ giới lại cao hơn 
nam. Một số nghiên cứu trên thế giới cũng cho 
kết quả tương tự về chỉ số BMI như nghiên cứu 
năm 2019 tại Sơn Đông, Trung Quốc đã ghi nhận 
nam giới có trung bình BMI 24,0 ± 3,4, trong khi 
chỉ số này ở nữ giới là 23,6 ± 3,51 (p < 0,001).⁹ 
Một nghiên cứu quốc tế về các thuộc tính môi 
trường khu vực, nhận thức và chỉ số khối cơ thể 
người lớn ở 12 quốc gia năm 2015 cho thấy cứ 1 
nam giới thừa cân, béo phì thì có 0,6 nữ giới có 
cùng tình trạng.10 Ngoài ra, nghiên cứu tại Đại học 
Sarawak ở Malaysia năm 2011 trên 600 sinh viên 
(300 nam và 300 nữ) cũng cho kết quả nhiều nam 
bị thừa cân hơn nữ (33,7%), trong khi nữ thiếu 
cân nhiều hơn (25,3%). Sự khác biệt này được 
cho là liên quan đến sự khác nhau trong quan 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020154
niệm và nhận thức của hai giới, cũng như ảnh 
hưởng không đáng kể từ tình trạng tâm lý.11,12,13 
Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu trong thời 
gian gần đây cho thấy xu hướng có một tỉ lệ cao 
của nữ giới với mức BMI cao so với nam giới khi 
chia theo từng nhóm tuổi (tập trung chủ yếu ở 
nhóm 20 - 40 tuổi).14,15 Kết quả cho thấy nghiên 
cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên 
cứu trên thế giới.
Đánh giá mức thừa cân, béo phì theo phân 
loại BMI, tình trạng thừa cân chiếm 18,7% và béo 
phì chiếm 17,0%. Kết quả này thấp hơn so với 
nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ năm 2015 trên 554 cán 
bộ, nhân viên hành chính của một trường đại học 
cho thấy tỉ lệ thừa cân, béo phì của các đối tượng 
này là 67,5%.16 Một chỉ số khác để đánh giá tình 
trạng dinh dưỡng đó là chỉ số vòng eo/vòng mông 
cho thấy 13,3% có nguy cơ tích mỡ bụng và nguy 
cơ ở nam cao hơn so với nữ (p < 0,05). Nghiên 
cứu của chúng tôi cho kết quả thấp hơn so với 
nghiên cứu tại Malaysia năm 2016 cho thấy nguy 
cơ tích mỡ bụng chỉ tính riêng trong nhóm nhân 
viên văn phòng nữ là 54,2%.17 Ngày nay, ngoài 
các chỉ số trên, các nhà dinh dưỡng học khuyến 
cáo đánh giá nguy cơ thừa cân qua chỉ số phần 
trăm mỡ cơ thể. Nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy có 20,8% có nguy cơ thừa cân và 4,9% là 
béo phì, tỷ lệ này cũng như chỉ số cụ thể ở nam 
giới cao hơn nữ (p < 0,001). Nghiên cứu can thiệp 
của các nhà khoa học Đại học Nam Đan Mạch, 
Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia về Phòng ngừa 
và Sức khỏe và Đại học Sydney trên 317 nhân 
viên văn phòng tại 19 văn phòng khắp Đan Mạch 
và Greenland ghi nhận tỷ lệ % mỡ của nam nhân 
viên là 22,1 ± 7,1 %, và ở nữ là 34,2 ± 7,9 đều 
tương ứng với mức chuẩn trên (tính theo độ tuổi 
trung bình của đối tượng là 46 ± 10 tuổi).18 Phụ 
nữ có lượng mỡ trong cơ thể lớn hơn đáng kể so 
với nam giới có chỉ số BMI tương đương, thường 
cao hơn 10 - 15%.19
Để đánh giá năng suất làm việc của cán bộ, 
trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng hai thang đo. 
Thang đo thứ nhất đánh giá năng suất làm việc 
trong 1 tháng qua với thang điểm SPS6 cho thấy 
điểm trung bình của năng suất làm việc chung là 
3,2 ± 0,7 điểm trên thang 5 điểm. Quy đổi sang 
thang 30 điểm cho thấy điểm trung bình là 19,22 ± 
4,2. Kết quả của chúng tôi thấp hơn so với nghiên 
cứu tại Mỹ ở nhóm nhân viên văn phòng năm 
2002 về tình trạng sức khỏe và năng suất làm 
việc của nhân viên là 22,9 ± 4,0 điểm.20
Ngoài ra, một thang đo thứ hai để đánh giá 
năng suất làm việc trong 1 tuần qua theo thang 
điểm HWQ gồm 30 câu, điểm càng cao cho thấy 
năng suất càng cao và ngược lại. Bộ câu hỏi sau 
kiểm định đã loại đi 4 câu còn 26 câu, với mỗi câu 
được đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 10. Điểm 
trung bình của năng suất làm việc chung theo 
thang này là 7,8 ± 1,1 điểm. Trong đó cấu phần 
năng suất làm việc là 7,7 ± 1,2 điểm, cấu phần 
khả năng đáp ứng với sự mất tập trung/khó chịu 
là 8,0 ± 1,6 điểm và cấu phần sự hài lòng trong 
công việc/ngoài công việc là 7,7 ± 1,3 điểm. Khi 
so sánh với điểm trung bình trong nghiên cứu của 
Shikiar và cộng sự (2004) cho thấy điểm trung 
bình của chúng tôi cao hơn 7,66 ± 1,38).
Nghiên cứu của chúng tôi bước đầu đánh 
giá mối tương quan giữa một số chỉ số nhân trắc 
với năng suất làm việc bằng tính toán các hệ số 
tương quan và biểu diễn xu hướng tương quan 
bằng biểu đồ chấm. Mối tương quan giữa năng 
suất làm việc theo thang đo SPS6 với các chỉ số 
nhân trắc cho thấy tương quan thuận giữa BMI 
và WHR với năng suất làm việc và tương quan 
nghịch giữa phân bố mỡ cơ thể với năng suất 
làm việc. Về độ lớn cho thấy các mối tương quan 
này là rất yếu (r < 0,3). Kết quả này tương tự với 
một nghiên cứu tại Ả Rập năm 2016 cho thấy mối 
tương quan giữa năng suất làm việc được đánh 
giá bằng SPS6 và chỉ số BMI có mối tương quan 
nghịch cũng rất yếu (r = -0,14).21 Mối tương quan 
giữa năng suất làm việc theo thang đo HWQ với 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020 155
chỉ số nhân trắc cho thấy tương quan thuận. Về 
độ lớn cho thấy mối tương quan là rất yếu (r < 
0,3). Các hệ số tương quan bước đầu gợi ý cho 
chúng tôi về mối liên quan giữa các chỉ số nhân 
trắc với năng suất làm việc. Với kết quả nghiên 
cứu cho thấy đã có mối liên quan, tuy nhiên các 
liên quan còn rất yếu và chưa có ý nghĩa thống 
kê. Cần có thêm các nghiên cứu với quy mô rộng 
hơn và phân tích, đánh giá sâu hơn về mối tương 
quan này.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy nguy cơ thừa cân, béo 
phì đánh giá theo các chỉ số nhân trắc của cán 
bộ Trường Đại học Y Hà Nội là thấp. Bước đầu 
cho thấy mối tương quan không chặt chẽ giữa 
năng suất làm việc với các chỉ số nhân trắc.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, nhóm 
nghiên cứu xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Văn 
phòng công đoàn Nhà trường và các Thầy, Cô 
Bộ môn Thống kê-Tin học Y học thuộc Viện đào 
tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng đã phối 
hợp thực hiện và giúp đỡ trong quá trình triển 
khai và thu thập số liệu nghiên cứu. Nhóm tác 
giả tham gia nghiên cứu cam kết không có xung 
đột lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHO/Europe. Body Mass Index - BMI. 
World Health Organization; 2020.
2. WHO. Obesity. World Health Organization; 
2014.
3. Andreyeva T, Luedicke J, Wang YC. State-
level estimates of obesity-attributable costs 
of absenteeism. J Occup Environ Med. 2014; 
56(11): 1120 - 1127.
4. Sullivan PW, Ghushchyan V, Ben-Joseph 
RH. The effect of obesity and cardiometabolic risk 
factors on expenditures and productivity in the 
United States. Obesity. 2008; 16(9): 2155 - 2162. 
doi:10.1038/oby.2008.325
5. Sullivan PW, Ghushchyan V, Wyatt HR, 
Wu EQ, Hill JO. Productivity costs associated 
with cardiometabolic risk factor clusters in the 
United States. Value Heal. 2007; 10(6): 443 - 450. 
doi:10.1111/j.1524-4733.2007.00199.x
6. Sanchez Bustillos A, Vargas KG, Gomero-
Cuadra R. Work productivity among adults 
with varied Body Mass Index: Results from a 
Canadian population-based survey. J Epidemiol 
Glob Health. 2015; 5(2): 191 - 199. doi:10.1016/j.
jegh.2014.08.001
7. Ramachandran N. Persisting Undernutrition 
in India: Causes, Consequences and Possible 
Solutions. Springer India; 2014.
8. Goetzel RZ, Gibson TB, Short ME, et al. 
A multi-worksite analysis of the relationships 
among body mass index, medical utilization, 
and worker productivity. J Occup Environ Med. 
2010; 52(SUPPL. 1): S52-8. doi:10.1097/
JOM.0b013e3181c95b84
9. Zhang J, Xu L, Li J, et al. Gender differences 
in the association between body mass index and 
health-related quality of life among adults:a cross-
sectional study in Shandong, China. BMC Public 
Health. 2019; 19(1): 1021. doi:10.1186/s12889-
019-7351-7
10. De Bourdeaudhuij I, Van Dyck D, 
Salvo D, et al. International study of perceived 
neighbourhood environmental attributes and Body 
Mass Index: IPEN Adult study in 12 countries. Int 
J Behav Nutr Phys Act. 2015; 12(1). doi:10.1186/
s12966-015-0228-y
11. P.X.Kuan, H.L.Ho, M.S.Shuhaili, A.A.Siti 
HRG. Gender Differences in Body Mass Index, 
Body Weight Perception and Weight Loss 
Strategies Among Undergraduates in Universiti 
Malaysia Sarawak. Malays J Nutr. 2011; 17(1): 
67 - 75.
12. Jaclyn B. Gaylis SSL& MYH. Relationships 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 130 (6) - 2020156
between body weight perception, body mass 
index, physical activity, and food choices in 
Southern California male and female adolescents. 
Int J Adolesc Youth. 2020; 25(1): 264 - 275.
13. Desai RA, Manley M, Desai MM, Potenza 
MN. Gender differences in the association 
between body mass index and psychopathology. 
CNS Spectr. 2009; 14(7): 372 - 383. doi:10.1017/
S1092852900023026
14. Shailesh Kumar Singh, Prem Praksh 
Dubey. A Comparative analysis of BMI among 
Males and Females Aged between 15 - 75 Years. 
Orig Res. 2018;5(1):1-3.
15. Xiang Xiao, Weihua Wang, Rina Sa, 
Lin Qiu, Feng Liu. The Investigation of Sex 
Differences in the Effect of Body Mass Index. Int J 
Hypertens. 2019;2019:1-5.
16. Demir Özdenk G, Özcebe LH. Obesity 
Status Of The University Employees And 
Associated Factors: Turkey-2015. Istanbul Med J. 
2019; 0(0): 0 - 0. doi:10.4274/imj.24571
17. Ahmad N, Adam SIM, Nawi AM, Hassan 
MR, Ghazi HF. Abdominal obesity indicators: 
Waist circumference or waist-to-hip ratio in 
Malaysian adults population. Int J Prev Med. 2016; 
2016(June). doi:10.4103/2008-7802.183654
18. IH Danquah, S Kloster, A Holtermann, et 
al. Take a Stand!–a multi-component intervention 
aimed at reducing sitting time among office 
workers–a cluster randomized trial. Int J 
Epidemiol. 2017; 46(1):128 – 140.
19. Adams TD, Heath EM, Lamonte MJ, et al. 
The relationship between body mass index and 
per cent body fat in the severely obese. Diabetes, 
Obes Metab. 2007; 9(4): 498 - 505. doi:10.1111/
j.1463-1326.2006.00631.x
20. Koopman C, Pelletier KR, Murray JF, et 
al. Stanford Presenteeism Scale: Health status 
and employee productivity. J Occup Environ Med. 
2002; 44(1): 14 - 20. doi:10.1097/00043764-
200201000-00004
21. Hayman SL. The Relationship Between 
Health Risk and Workplace Productivity in Saudi 
Arabia. 2016
Summary
RELATIONSHIP BETWEEN WORK PRODUCTIVITY VS SOME 
ANTHROPOMETRIC MEASUREMENTS AMONG STAFF AND 
LECTURERS IN HANOI MEDICAL UNIVERSITY
A cross-sectional study was conducted among 374 staffs and lecturers in Hanoi Medical 
University to evaluate the correlation between work productivity and some anthropometric 
measurements. Results show ed that indicators such as BMI, WHR in men are higher than 
women, however the percentage of body fat in women was higher than men. Based on the BMI, 
overweight accounted for 18.7% and obesity accounted for 17.0%. There were 13.3% with risk 
of abdominal-fat accumulation (based on waist hip ratio) and based on body fat percentage, 20% 
were overweight and 4.9% were obese. Assessing the correlation with work productivity through 
SPS6 scale (within last 1 month) and HWQ scale (within last 1 week) initially showed that there 
was a weak correlation between these indicators and did not have statistical significance difference. 
There should be more extensive researchs and analysis for further evaluation of these correlations.
Keywords: Anthropometric measurements, work productivity

File đính kèm:

  • pdftuong_quan_giua_nang_suat_lam_viec_voi_mot_so_chi_so_nhan_tr.pdf