Tương lai của tiền số và những đề xuất quản lý ở Việt Nam

Kinh tế số đã có sự phát triển nhanh và rộng khắp trên thế giới cũng

như tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi số xuất hiện ở nhiều lĩnh vực

kinh tế- xã hội. Hàng ngàn tài sản số- tài sản mã hoá đã xuất hiện

và trong đó có phần không nhỏ đang được gọi là “tiền số- tiền mã

hoá”. Theo thông lệ và luật pháp quốc tế hiện nay, những loại “tiền

số” này chưa được công nhận là một loại tiền tệ. Tuy nhiên, trong

tương lai không xa, việc xuất hiện các loại tiền số thực sự (do Chính

phủ hoặc Ngân hàng Trung ương của một quốc gia/ nhóm quốc gia

phát hành hay đảm bảo) là hoàn toàn không thể đảo ngược. Trong

phạm vi bài viết này, tác giả tập trung làm rõ bản chất của “tiền số”,

những điều kiện để phát hành “tiền số của ngân hàng trung ương”

và đề xuất những giải pháp quản lý tiền số phục vụ các mục tiêu phát

triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.

pdf 8 trang phuongnguyen 5560
Bạn đang xem tài liệu "Tương lai của tiền số và những đề xuất quản lý ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tương lai của tiền số và những đề xuất quản lý ở Việt Nam

Tương lai của tiền số và những đề xuất quản lý ở Việt Nam
20
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 199- Tháng 12. 2018
Tương lai của tiền số và những đề xuất 
quản lý ở Việt Nam
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Phạm Quốc Khánh
Ngày nhận: 05/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 20/12/2018 Ngày duyệt đăng: 26/12/2018
Kinh tế số đã có sự phát triển nhanh và rộng khắp trên thế giới cũng 
như tại Việt Nam. Quá trình chuyển đổi số xuất hiện ở nhiều lĩnh vực 
kinh tế- xã hội. Hàng ngàn tài sản số- tài sản mã hoá đã xuất hiện 
và trong đó có phần không nhỏ đang được gọi là “tiền số- tiền mã 
hoá”. Theo thông lệ và luật pháp quốc tế hiện nay, những loại “tiền 
số” này chưa được công nhận là một loại tiền tệ. Tuy nhiên, trong 
tương lai không xa, việc xuất hiện các loại tiền số thực sự (do Chính 
phủ hoặc Ngân hàng Trung ương của một quốc gia/ nhóm quốc gia 
phát hành hay đảm bảo) là hoàn toàn không thể đảo ngược. Trong 
phạm vi bài viết này, tác giả tập trung làm rõ bản chất của “tiền số”, 
những điều kiện để phát hành “tiền số của ngân hàng trung ương” 
và đề xuất những giải pháp quản lý tiền số phục vụ các mục tiêu phát 
triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam.
Từ khóa: Tài sản số/ mã hoá; Tiền số của ngân hàng trung ương; 
Công nghệ sổ cái phân tán
1. Tiền số và xu thế phát 
triển của tiền số trên thế giới
huật ngữ “Tiền 
số”1 (còn được 
gọi là tiền mã 
hoá- digital/ 
crypto currency/ 
1 Quan điểm của tác giả thì những gì 
đang được gọi là “Tiền số” chưa thực 
sự là tiền theo cả ý nghĩa về kinh tế 
và pháp lý quốc gia, quốc tế. Tuy 
nhiên, để thuận lợi cho các ý kiến chia 
money) đã và đang được phát 
triển trên thế giới với gần 
2.000 loại khác nhau do các 
cá nhân, tổ chức (không thuộc 
Chỉnh phủ, Nhà nước) tạo lập 
và phát hành. Ý kiến về thực 
tế và triển vọng ứng dụng rộng 
rãi loại tiền này là rất khác 
nhau. Theo tiêu chuẩn Thống 
kê tài chính và tiền tệ (MFS) 
sẻ trong đánh giá, khuyến nghị trong 
nghiên cứu này, tác giả vẫn sử dụng 
thuật ngữ “Tiền số” trong bài viết
của IMF thì hiện tại các loại 
tiền số này chưa được công 
nhận vì một số lí do: Chưa 
được Ngân hàng trung ương 
(NHTW) hay Chính phủ nào 
phát hành/ bảo đảm; Chưa 
được công nhận như là trung 
gian trong quá trình trao đổi 
một cách rộng rãi; Giá trị danh 
nghĩa còn biến động mạnh 
Các quốc gia như Trung Quốc, 
Nga, Australia, Nhật Bản, Liên 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
minh châu Âu, Hoa Kỳ đều 
đã có các nghiên cứu (công 
bố hoặc không công bố chính 
thức) về tiền số nói chung và 
tiền số do NHTW phát hành. 
Ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam (NHNN) 
đã chính thức thông báo, từ 
ngày 01/01/2018, bitcoin và 
các loại tiền ảo vào nhóm 
các phương tiện thanh toán 
bất hợp pháp tại Việt Nam; 
việc phát hành, cung ứng, sử 
dụng bitcoin và các loại tiền 
ảo tương tự khác làm phương 
tiện thanh toán là hành vi bị 
cấm tại Việt Nam. Mặc dù 
vậy, để tận dụng cơ hội từ 
cuộc cách mạng công nghiệp 
4.0 cho chuyển đổi mô hình 
tăng trưởng, phát triển kinh 
tế số và hạn chế những rủi 
ro, hệ lụy cho xã hội, kịp thời 
phát hiện, ngăn chặn, xử lý 
các hành vi vi phạm pháp luật, 
ngày 21/8/2017, Thủ tướng 
Chính phủ đã ký Quyết định 
số 1255/QĐ-TTg phê duyệt 
Đề án Hoàn thiện khung pháp 
lý để quản lý, xử lý đối với 
các loại tài sản ảo, tiền điện 
tử, tiền mã hóa. Đây là định 
hướng rất quan trọng và phù 
hợp của Chính phủ trước yêu 
cầu phát triển của đất nước. 
Để hiểu rõ bản chất và điều 
kiện làm chủ tài sản số và tiền 
số, chúng ta cần hiểu rõ công 
nghệ chuỗi khối và các loại 
tiền số tư nhân (private digital 
currency). 
1.1. Công nghệ chuỗi khối 
(blockchain) và phạm vi ứng 
dụng trong các lĩnh vực kinh 
tế- xã hội
Chuỗi khối (blockchain) là cơ 
sở dữ liệu (có tính cấu trúc, 
được quy định rõ về tiêu chí) 
được ghi nhận (recording), 
cập nhật (registering) và lưu 
trữ (storing) trên mạng thông 
tin (network, không phải trên 
Nguồn: Don & Alex Tapscott, 2016
Hình 1. Cơ chế vận hành của công nghệ chuỗi khối- blockchain
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
một máy chủ/ nhóm máy chủ 
tập trung). Cơ sở dữ liệu này 
còn được gọi là một sổ cái/ sổ 
tổng hợp giao dịch kỹ thuật 
số (digital ledger), được quản 
lý, phân phối (distributing) 
và xác thực (validating) ở 
nhiều điểm trên mạng (nodes 
of network) với đặc điểm 
phi tập trung hoá thông tin 
(decentralising information). 
Chính việc phi tập trung hoá 
này giúp hạn chế việc xáo trộn 
các thông tin của hệ thống và 
mỗi blockchain trở thành duy 
nhất (unique). Những yếu tố 
căn bản tạo nên sự tin cậy của 
mỗi blockchain: một thuật 
toán mã hoá phải được giải mã 
(cryptographic puzzle); việc 
giải mã (proof-of-work) được 
lưu trữ trên toàn bộ mạng 
thông tin; toàn mạng thông tin 
sẽ xác nhận (verify/ validate) 
kết quả giải mã. “Một sổ cái 
kỹ thuật số không thể bị phá 
hỏng (permanent/ everlasting), 
có thể được lập trình để ghi 
lại không chỉ những giao dịch 
tài chính mà có thể ghi lại tất 
cả mọi thứ có giá trị” (Don & 
Alex Tapscott, 2016). 
Ưu điểm nổi bật nhất là 
blockchain mang lại sự tin 
cậy cao nhất trong môi trường 
mạng hay internet. Sự vận 
hành của blockchain không 
cần có các trung gian. Công 
nghệ chuỗi khối (blockchain 
technology) về bản chất là 
việc ứng dụng những thành 
tựu mới nhất của công nghệ 
thông tin- truyền thông để 
quản lý sự vận hành và lưu 
giữ các chuỗi khối với nền 
tảng là công nghệ Sổ cái điện 
tử phân tán (DLT- Distributed 
Ledger Technology). Việc 
kiểm soát các dữ liệu và đảm 
bảo độ tin cậy dữ liệu chuỗi 
khối đòi hỏi năng lực thiết 
lập một chuỗi khối ngay từ 
đầu tiên với các quy định chặt 
chẽ, thống nhất (pre-agreed 
rules). Vì vậy, để ứng dụng 
blockchain thì trước hết chúng 
ta phải làm chủ được công 
nghệ DLT. 
Nhờ tính bảo mật và sự linh 
hoạt trong thiết kế hệ thống 
riêng hoặc chung (private 
blockchain hoặc public 
blockchain) nên phạm vi 
ứng dụng của công nghệ 
blockchain ở rất nhiều lĩnh 
vực: Chính phủ số, chuỗi sản 
xuất hoặc dịch vụ, dịch vụ tài 
chính... trong đó có lĩnh vực 
về tiền tệ, thanh toán.
1.2. Những đặc điểm cơ bản 
ban đầu của tiền số
Tiền tệ đã được phát triển 
cùng với sự tiến bộ của xã 
hội loài người. Ở những thời 
điểm có những điều kiện kinh 
tế- xã hội đặc biệt, các loại 
hình tiền tệ được điều chỉnh 
hoặc những loại hình tiền tệ 
mới ra đời. Hiện nay, tiền số 
được không ít giới công nhận 
như một loại tiền tương lai. 
Công nghệ blockchain sẽ giúp 
mở rộng các chức năng của 
mỗi loại hình tiền tệ trong 
lưu thông, đặc biệt, tiền số 
(tiền mã hoá, tên tiếng Anh là 
digital/ crypto currency hoặc 
digital/ crypto money) được 
Hình 2. Mô hình Công nghệ sổ cái phân tán DLT
Nguồn: Don & Alex Tapscott, 2016
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
hình thành, phát triển và ứng 
dụng dựa trên nền tảng này. 
Tiền số tồn tại hoàn toàn ở 
dạng điện tử (electronical 
exists). Hiện tại thì tiền số 
chưa được các quốc gia, thể 
chế khu vực/ toàn cầu nào 
phát hành hoặc đảm bảo. Vì 
thế, tiền số hiện không có bất 
cứ tổ chức/ quốc gia nào quyết 
định khi nào cần tạo thêm, số 
lượng tiền số cần có, tiền số 
đang lưu thông ở đâu và điều 
tra về cách hành vi rửa tiền. 
Những đặc điểm căn bản của 
tiền số hiện nay:
Thứ nhất, tiền số là một 
ứng dụng của công nghệ 
blockchain, do đó việc tạo 
giao dịch số, lưu giữ phân tán 
các khối (block), kiểm tra- đối 
sánh (dựa trên nguyên lý đồng 
bộ hoá) thực hiện theo đúng 
nguyên lý đã đề cập ở trên về 
blockchain.
Thứ hai, tiền số sử dụng Mật 
mã toán học (Mathematical 
cryptography), hiện được 
xem là liên kết mạnh nhất 
trong các chuỗi bảo mật/ 
đảm bảo an toàn- yếu tố tạo 
sự tin tưởng khi mà tiền số 
chưa được một NHTW nào 
phát hành. Thuật toán được 
sử dụng có tên Thuật toán 
bảo mật SHA256 bit (secure 
HASH algorithm 256-bit) 
với nguyên tắc căn bản là đặt 
kết quả đầu ra (output) để sử 
dụng các phương pháp tính 
toán để có thể liệt kê hết các 
khả năng. Với một máy tính 
chuyên dụng để giải mã thì 
cũng phải mất ít nhất 10 phút 
để tìm ra một phương án đạt 
kết quả đầu ra đã đặt trước. 
Với đồng tiền số như bitcoin 
được giới hạn bởi 21.000 
đồng thì với năng lực hiện tại 
phải đến năm 2140 thế giới 
mới giải mã hết (còn gọi là 
“đào” tiền ảo). 
Thứ ba, mỗi block lưu giữ 
đơn vị tiền số sẽ bao gồm hai 
“chìa khoá” (two keys- thực 
chất là hai khối dữ liệu) chính: 
Chìa khoá chung (public key) 
thuộc blockchain tham gia để 
có thể được giao dịch trong 
mạng và Chìa khoá riêng 
(private key) dùng để lưu giữ 
thông tin riêng của chủ sở hữu 
và tính chất giao dịch.
Thứ tư, theo thống kê thì mỗi 
tháng xuất hiện cả chục loại 
tài sản mã hoá thông qua Cơ 
chế chào giá tiền tệ lần đầu 
(Initial coin offerings- ICOs). 
Lựa chọn thứ nhất của các 
ICOs đó là huy động vốn qua 
cổ phiếu chào hàng lần đầu 
với tính chất đầu tư cho một 
công ty khởi nghiệp. Lựa chọn 
thứ hai là một tài sản mã hoá 
mới được thiết lập dựa trên 
nền tảng một tổ chức quản lý 
ICOs thông qua việc mua một 
dịch vụ trên nền tảng đó. 
Những yếu tố công nghệ trên 
cho phép có nhiều đồng tiền 
số khác nhau như hiện nay. 
Chính điều này là một trong 
những cơ sở để nhiều NHTW 
trên thế giới đang chủ động 
tiếp cận nghiên cứu khả năng 
lưu hành đồng tiền số của 
riêng họ. Tuy nhiên, những 
vấn đề căn bản cần được giải 
quyết đối với những tài sản số 
được chính thức công nhận là 
tiền số để lưu hành rộng rãi 
bao gồm:
- Tạo lập và duy trì uy tín- 
sự tin tưởng, mỗi đồng tiền 
đều gắn liền với lòng tin của 
công chúng. Tiền giấy thông 
thường được lưu thông và 
chấp nhận rộng rãi: Tiền giấy 
được kiểm soát dễ dàng về 
quy mô, người chuyển, người 
nhận; Tiền giấy được giao 
dịch với sự bảo mật cá nhân 
rất cao; Tiền giấy rất khó bị 
làm giả với các công nghệ 
hiện đại về bảo an; Mọi người 
công nhận tiền giấy vì tin 
tưởng rằng những người khác 
cũng sẽ công nhận như mình; 
Tiền giấy có sức mua ổn định 
(trong đa số trường hợp) nhờ 
sự điều hành của NHTW.
- Một số ý kiến ủng hộ tiền số 
cho rằng công chúng tại sao 
lại đi tin tưởng vào một cá 
nhân và một tổ chức (ám chỉ 
NHTW) cho các giao dịch tài 
sản của họ. Tuy nhiên, công 
chúng cũng sẽ đặt câu hỏi về 
sự tin cậy của công nghệ sử 
dụng trong việc tạo và lưu 
hành tiền số (về blockchain 
cũng như các bảo mật riêng 
của mỗi block/ đơn vị tiền số 
và thuật toán sử dụng).
- Hiện nay, tiền số hình thành 
các đơn vị (unit) trong trao 
đổi nhưng chưa gắn- “neo”- 
với một đồng tiền pháp định 
được công nhận rộng rãi nào.
- Với việc áp dụng thuật toán 
mã hoá hiện tại dẫn tới việc 
cần thời gian để tạo đơn vị 
tiền tệ mới cũng như giới hạn 
năng lực của mỗi đồng tiền 
(SHA256) tạo nghi ngờ về khả 
năng đáp ứng yêu cầu đảm 
bảo cung- cầu tiền cho nền 
kinh tế một cách phù hợp.
- Những thử nghiệm riêng của 
một số NHTW về ứng dụng 
giao dịch tựa như tiền số trong 
phạm vi họ với các ngân hàng 
thương mại (NHTM) hiện nay 
chưa cho thấy sự tiến bộ đủ 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
mạnh để mở rộng thêm hay 
thay mới hệ thống thanh toán 
liên ngân hàng hay bù trừ hiện 
tại- vấn đề của bài toán Chi 
phí- Lợi ích. Bên cạnh đó, 
những chi phí lớn hiện tại của 
tài sản số có tính đầu cơ cao 
như bitcoin sẽ rất lớn: Ước 
tính năm 2017, một giao dịch 
bitcoin phải chi trả số tiền 
phí khoảng 55 USD, nếu so 
với giao dịch gần như bằng 0 
của tiền mặt giữa người mua 
và người bán thì đây là một 
khoản chi phí giao dịch rất 
cao (Timothy Lane, 2018).
Những mô hình tiền số có thể 
có trong tương lai phụ thuộc 
vào nhiều yếu tố nhưng quan 
trọng nhất đó vẫn là tạo nền 
tảng vững chắc để có được sự 
tin tưởng của xã hội, công cụ 
cho sự chủ động của các cơ 
quan chịu trách nhiệm về nền 
kinh tế- xã hội. Trong thời 
gian 3- 5 năm tới, việc xuất 
hiện những đồng tiền số thực 
sự, do một hoặc một nhóm 
NHTW phát hành sẽ là một 
thực tế: Cam kết mạnh mẽ từ 
NHTW Trung Quốc, Ấn Độ, 
Nga... hay dự án Stella của 
NHTW châu Âu và NHTW 
Nhật Bản. Đồng tiền số của 
NHTW phát hành (Central 
Bank Digital Currency- 
CBDC) tuy chưa thể thay thế 
các loại tiền tệ truyền thống 
khác nhưng nếu xuất hiện sẽ 
có tác động không chỉ ở các 
quốc gia này mà đến nền kinh 
tế toàn cầu, trong đó chắc 
chắn có Việt Nam.
2. Sự cần thiết trong chủ 
động tiếp cận, ứng dụng và 
quản lý tiền số ở Việt Nam
2.1. Tiền số có ý nghĩa rất 
quan trọng đối với việc định 
hướng, đảm bảo năng lực 
cạnh tranh bền vững của nền 
kinh tế số hoá đã và đang 
hình thành ở Việt Nam
Kinh tế số hoá (digital/
digitalised economy) hay 
kinh tế số được công nhận 
như là một phần của nền kinh 
tế quốc gia, vận hành theo 
các nguyên tắc căn bản của 
kinh tế thị trường và dựa trên 
nền tảng ứng dụng mạnh mẽ 
công nghệ thông tin và truyền 
thông, thể hiện đặc biệt trong 
việc ứng dụng những nền tảng 
công nghệ mới của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư 
(CMCN 4.0). Hiện nay, trên 
thế giới và ở Việt Nam có 
nhiều quan điểm khác nhau 
về các chỉ tiêu phản ánh nền 
kinh tế số hoá. Liên minh 
Châu Âu có sử dụng bộ chỉ số 
DESI (Digital Economy and 
Sociaty Index, tạm dịch là Bộ 
chỉ số Kinh tế và xã hội số) 
bao gồm:
(1) Connectivity- Kết nối: 
Năng lực đường truyền và 
giá dịch vụ internet (Fixed 
broadband) và di động 
(mobile broadband) tốc độ 
cao;
(2) Human Capital- Nhân lực: 
Khả năng sử dụng internet 
(Internet use), kỹ năng sử 
dụng kỹ thuật số cơ bản và 
nâng cao basic and advanced 
digital skills); 
(3) Use of Internet Services- 
Sử dụng dịch vụ internet: Nội 
dung sử dụng, giao tiếp và các 
Nguồn: Uỷ ban châu Âu, 2017
Biểu đồ 1. Chỉ số Kinh tế và xã hội số của một số quốc gia trên thế giới
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
25Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
giao dịch trực tuyến (Citizens’ 
use of content, communication 
and online transactions);
(4) Integration of Digital 
Technology- Sự tích hợp 
công nghệ số: Mức độ số 
hoá trong hoạt động kinh 
doanh (Business digitisation) 
và thương mại điện tử 
(e-commerce); 
(5) Digital Public Services- 
Dịch vụ công được số 
hoá: Chính phủ điện tử 
(eGovernment) và dịch vụ 
chăm sóc sức khoẻ điện tử 
(eHealth).
Năm 2017, kết quả đánh giá 
của Liên minh Châu Âu về 
kinh tế số hoá của các quốc 
gia trên thế giới và bản thân 
các nhóm thành viên của liên 
minh thể hiện ở Biểu đồ số 1. 
Quá trình xếp hạng này được 
thực hiện hàng năm. Như vậy, 
với chiến lược phát triển kinh 
tế số, Việt Nam tham khảo các 
chỉ tiêu trên để định hướng cho 
sự phát triển, trong đó cần đặc 
biệt quan tâm đến động lực 
chính/ điều kiện tiên quyết cho 
sự phát triển nhanh của kinh tế 
số. Hệ thống tiền tệ, hệ thống 
thanh toán phù hợp sẽ là một 
trong những nền tảng cạnh 
tranh đặc biệt quan trọng đối 
với kinh tế số của Việt Nam.
2.2. Tiền số được ứng dụng 
hiệu quả góp phần tạo và bảo 
vệ lợi thế trong hoạt động 
xuất nhập khẩu hàng hoá và 
dịch vụ của Việt Nam
Với quy mô, cơ cấu hàng hoá 
và dịch vụ trong hoạt động 
thương mại quốc tế hiện nay 
và những năm tới của Việt 
Nam đặt ra những câu hỏi lớn: 
Việt Nam sẽ thích ứng thế 
nào với tiền số từ bên ngoài, 
bao gồm cả khu vực tư nhân 
và đặc biệt là các quốc gia có 
quan hệ thương mại chủ yếu? 
Năng lực cạnh tranh của hàng 
hoá xuất khẩu Việt Nam ra thế 
giới liệu có bị ảnh hưởng?
Nếu nhìn vào quan hệ xuất 
khẩu, nhập khẩu hàng hoá và 
dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 
2018 có thể thấy rõ những 
quốc gia/ nhóm quốc gia có 
quan hệ thương mại lớn nhất 
với Việt Nam đều có những 
cam kết về mạnh mẽ về kinh 
tế số, sử dụng các điều kiện 
của kinh tế số để phát triển.
Biểu đồ 2. Thị trường xuất, nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2018
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2018
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018
Bên cạnh đó, việc ứng dụng 
tiền số cũng sẽ góp phần tạo 
lợi thế cạnh tranh cho các mặt 
hàng xuất khẩu chủ lực của 
Việt Nam nhờ tiết kiệm chi 
phí, nhanh chóng, chính xác, 
an toàn trong thanh toán.
2.3. Việc điều chỉnh chiến 
lược và chính sách thu hút 
đầu tư trực tiếp nước ngoài 
sẽ có điều kiện thuận lợi hơn 
với việc ứng dụng tiền số 
trong tương lai
Theo số liệu của Tổng cục 
Thống kê, lũy kế đến tháng 
8/2018 có gần 90 quốc gia và 
vùng lãnh thổ có dự án đầu tư 
tại Việt Nam, trong đó Hàn 
Quốc đứng vị trí thứ nhất với 
tổng vốn đầu tư 61,08 tỷ USD, 
Nhật Bản đứng thứ hai với 
tổng vốn đầu tư đăng ký 55,84 
tỷ USD; Singapore đứng vị 
trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư 
Biểu đồ 3. Kinh ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực 
năm 2017 thay đổi so với năm 2016
Đơn vị: Tỷ USD
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2018
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018
Biểu đồ 4. Nhóm 10 quốc gia có vốn FDI lớn nhất tại Việt Nam
đăng ký 45,89 tỷ USD.
Những điều chỉnh chính sách 
thu hút đầu tư trực tiếp trong 
thời gian tới ở Việt Nam 
không thể không tính tới nội 
dung tiền số khi mà các quốc 
gia đầu tư trực tiếp đều có 
cam kết về áp dụng tiền số 
trong tương lai.
Bên cạnh những lợi ích kể 
trên, việc áp dụng tiền số với 
lộ trình thích hợp ở Việt Nam 
còn có tác dụng tích cực đến 
khuyến khích các nguồn lực 
trong nước về đầu tư, đổi 
mới sáng tạo nhờ những cơ 
hội rộng mở trong quá trình 
chuyển đổi số ở cả lĩnh vực 
kinh tế và phi kinh tế.
2.4. Những tác động của tiền 
số (khu vực tư nhân hoặc do 
NHTW các nước phát hành) 
đến quản lý vĩ mô hoạt động 
tiền tệ- ngân hàng ở Việt Nam
Khối lượng giao dịch tiền số/ 
tài sản số- mã hoá đã tăng gần 
100 lần chỉ trong vòng hai 
năm qua trên thế giới. Trong 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
27Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018
năm 2018 đã chứng kiến sự 
suy giảm tới 40% (các nhà 
kinh tế có thể gọi là sự sụp 
đổ) của giá trị của các đồng 
tiền số, nhưng dường như sự 
nhiệt tình quan tâm của các 
quốc gia, công chúng không 
hề suy giảm. Bên cạnh đó, 
nhiều cam kết mạnh mẽ từ 
NHTW một số quốc gia về 
việc nghiên cứu ứng dụng 
CBDC riêng trong tương lai 
đã được đưa ra. Thực tế và xu 
thế này đã và đang có những 
tác động đến hoạt động tiền 
tệ- ngân hàng ở Việt Nam, tác 
động đến các chức năng chính 
của NHTW: chính sách tiền 
tệ, ổn định tài chính, thanh 
toán và tiền tệ. 
3. Một số khuyến nghị về 
giải pháp ứng dụng và quản 
lý tiền số ở Việt Nam
Yêu cầu lớn nhất đặt ra đối 
với Việt Nam trong việc quản 
lý tiền tệ- ngân hàng đó là 
năng lực làm chủ công nghệ 
trong việc phát hành, tổ chức 
lưu thông cũng như quản lý 
các dòng vốn trong và ngoài 
nước trước sự tồn tại thực sự 
của tiền số. Đề xuất của tác 
giả về giải pháp cần được 
triển khai ngay bao gồm:
Thứ nhất, ở giác độ Chính 
phủ, Việt Nam cần làm chủ 
công nghệ DLT (Distributed 
ledger technology- Công nghệ 
sổ cái phân tán) và kiểm soát 
các thuật toán mã hoá 256 bit 
(SHA256) để áp dụng cho các 
khoá riêng trong mỗi block 
(private key). Việt Nam có thể 
áp dụng các kinh nghiệm của 
nhiều nước trong việc thành 
lập trung tâm nghiên cứu, tổ 
chức đấu thầu cung cấp giải 
pháp... Nhưng theo quan điểm 
của tác giả, việc tiếp cận quan 
sát của tác giả đó là việc mua 
lại một công ty.
Thứ hai, NHNN cần 
nghiên cứu thiết kế hạ tầng 
blockchain (platform) riêng 
của ngành Ngân hàng để đảm 
bảo an toàn cao nhất cho các 
giao dịch của các tổ chức tín 
dụng, các tổ chức thanh toán 
khi triển khai ứng dụng trên 
nền tảng mới. ICOs platform 
là một tham khảo phù hợp cho 
hệ thống này ở Việt Nam. Một 
cách tiếp cận khác, nếu đủ 
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2018), Báo cáo 30 năm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
2. Don & Alex Tapscott (2016), Blockchain revolution.
3. European central bank and Bank of Japan (2018), Securities settlement systems: Delivery versus payment in a distributed 
ledger environment.
4. Tổng cục Hải quan (2017, 2018), Thống kê tình hình xuất và nhập khẩu Việt Nam.
5. Timothy Lane (2018), Decrypting “Crypto”.
6. Uỷ ban châu Âu (2017), Đánh giá chỉ số Kinh tế và xã hội số trên thế giới.
Thông tin tác giả
Phạm Quốc Khánh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Phòng Đào tạo, Học viện Ngân hàng
Email: khanhpq@hvnh.edu.vn
Summary
The future of digital currency and recommendations for Vietnam Governance
Digital economy has developed rapidly and widely in the world as well as in Vietnam. The digital transformation 
process occurs in many socio-economic areas. Thousands of digital/ crypto assets have emerged and a part of 
that is being called “digital/ crypto money or currency”. According to international law and practice, these types 
of “digital currency” are not yet recognized as a currency. However, in the near future, the emergence of wide-
accepted digital currency (issued or guaranteed by the central or national governments of a country/group) is 
completely irreversible. In this article, the author focus on the nature of digital currency, issuing central bank digital 
currency, and recommendation of monetary governance to support Vietnam economic- socio development. 
Keywords: Digital/ crypto asset; Central bank digital currency; Distributed ledger technology. 
Khanh Quoc Pham, Assoc.Prof. PhD
Head of Academic Affairs, Banking Academy of Vietnam
xem tiếp trang 54

File đính kèm:

  • pdftuong_lai_cua_tien_so_va_nhung_de_xuat_quan_ly_o_viet_nam.pdf