Túi thừa nhĩ phải

32 bệnh nhân gồm 28 trường hợp một túi thừa và 4 trường hợp nhiều túi thừa được đưa vào nghiên cứu. Nam giới chiếm đa số, 18,75% trường hợp không có triệu chứng, rối loạn nhịp là triệu chứng phổ biến bên cạnh đau tức ngực, khó thở khi gắng sức và mệt. Đột tử do rối loạn nhịp được ghi nhận ở một bệnh nhân. Túi thừa hầu hết xuất phát từ thành tự do nhĩ phải, có thể gây chèn ép các cấu trúc tim xung quanh. Các phương pháp điều trị bao gồm: phẫu thuật, triệt đốt ổ rối loạn nhịp bằng can thiệp, hybrid hoặc điều trị nội khoa. Túi thừa nhĩ phải là bệnh lý bẩm sinh hiếm gặp, thường đi kèm với rối loạn nhịp nhĩ. Cắt túi thừa có tác dụng trong chuyển nhịp nên được chỉ định trong hầu hết trường hợp, trừ hội chứng WPW và hội chứng tiền kích thích thất. Những rối loạn nhịp do vòng vào lại nên được chỉ định can thiệp đốt nhịp hoặc hybrid

pdf 8 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Túi thừa nhĩ phải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Túi thừa nhĩ phải

Túi thừa nhĩ phải
TÚI THỪA NHĨ PHẢI 
 29 
TÚI THỪA NHĨ PHẢI 
Đặng Quang Huy*, Nguyễn Minh Ngọc* 
TÓM TẮT 
32 bệnh nhân gồm 28 trường hợp một túi 
thừa và 4 trường hợp nhiều túi thừa được đưa vào 
nghiên cứu. Nam giới chiếm đa số, 18,75% 
trường hợp không có triệu chứng, rối loạn nhịp là 
triệu chứng phổ biến bên cạnh đau tức ngực, khó 
thở khi gắng sức và mệt. Đột tử do rối loạn nhịp 
được ghi nhận ở một bệnh nhân. Túi thừa hầu hết 
xuất phát từ thành tự do nhĩ phải, có thể gây chèn 
ép các cấu trúc tim xung quanh. Các phương pháp 
điều trị bao gồm: phẫu thuật, triệt đốt ổ rối loạn 
nhịp bằng can thiệp, hybrid hoặc điều trị nội 
khoa. Túi thừa nhĩ phải là bệnh lý bẩm sinh hiếm 
gặp, thường đi kèm với rối loạn nhịp nhĩ. Cắt túi 
thừa có tác dụng trong chuyển nhịp nên được chỉ 
định trong hầu hết trường hợp, trừ hội chứng 
WPW và hội chứng tiền kích thích thất. Những 
rối loạn nhịp do vòng vào lại nên được chỉ định 
can thiệp đốt nhịp hoặc hybrid. 
Từ khóa: Túi thừa nhĩ phải, phình nhĩ phải, 
giãn nhĩ phải, rung nhĩ, cuồng nhĩ, hội chứng tiền 
kích thích 
SUMMARY 
A total of 32 cases were reported, with 28 
cases of single RA diverticulum and 4 cases of 
multiple RA diverticula. Most of the patients 
were males. 18.75% of patients was 
asymptomatic. The popular symptoms were 
angina, fatigue, palpitations, and arrythmias. One 
sudden death due to arrythmia was reported. In 
most cases. the diverticulum was originated from 
the free wall of the RA and may cause 
compression to other related cardiac structures. 
The methods of treatment included: surgical 
resection of the diverticulum, percutaneous 
ablation for atrial arrythmias, hybrid procedure, 
or noninvasive medical treatment. 
RA diverticulum was a rare congenital 
anomaly, usually accompanied by atrial 
arrythmias. Surgical resection of the diverticulum 
was indicated in most cases, except patients with 
pre-excitation syndrome and WPW syndrome. 
With atrial arrythmias due to re-entry circuits 
should be managed with percutaneous ablation or 
hybrid procedure.1 
Keywords: Right atrial diverticulum, right 
atrial aneurysm, right atrial dilatation, atrial 
arrythmias, pre-excitation syndrome 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Túi thừa nhĩ phải là bệnh lý bẩm sinh hiếm 
gặp, các báo cáo đã được công bố đều dưới dạng 
ca bệnh đơn lẻ với những tên gọi và khái niệm 
chưa thống nhất, còn nhiều lẫn lộn với bệnh giãn 
nhĩ phải. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tổng 
hợp nhằm đưa ra những tiêu chí chẩn đoán phân 
biệt 2 thể bệnh trên; đồng thời tim hiểu những đặc 
điểm bệnh học cũng như kết quả điều trị của bệnh 
túi thừa nhĩ phải. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Nguồn số liệu: 
Chúng tôi tìm kiếm tài liệu trên trang tìm 
kiếm Pubmed với từ khóa: “túi thừa nhĩ phải” 
(“right atrial diverticulum” hoặc “diverticulum of 
right atrium”) hoặc “phình nhĩ phải” (“right atrial 
aneurysm” hoặc “aneurysm of right atrium”). 
Những kết quả “một túi thừa” (single diverticulum) 
hoặc “nhiều túi thừa” (multiple diverticula) được 
chấp nhận. Những kết quả là “túi thừa xoang vành” 
(“coronary sinus diverticulum” hoặc “diverticulum 
of the coronary sinus”) và “giãn nhĩ phải” 
(“enlargement of right atrium” hoặc “giant right 
atrium”) không được chấp nhận. 
Những trường hợp kết quả là “phình nhĩ phải” 
cần được phân định thành các trường hợp sau: 
* Bệnh viện tim Hà Nội 
Người chịu trách nhiệm khoa học: BS Đặng Quang Huy 
Ngày nhận bài: 01/11/2019 - Ngày Cho Phép Đăng: 20/12/2019 
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng 
 GS.TS. Lê Ngọc Thành 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 27 - THÁNG 12/2019 
 30 
(1) tổn thương dạng túi thừa, liên kết với 
nhĩ phải qua một cổ rõ rệt xác định chẩn đoán 
túi thừa nhĩ phải. 
(2) tổn thương dạng phình, nhìn ngoài có 
ranh rới khá rõ với nhĩ phải, cổ túi phình phình 
rộng. Trường hợp này phân định túi thừa hoặc 
giãn nhĩ phải dựa vào kết quả mô bệnh học. Chẩn 
đoán túi thừa khi cấu trúc thành túi phình gồm 2 
lớp chính gồm: nội mạc và lớp liên kết xơ có thể 
mỡ hóa; ngoài ra có thể có một vài vùng còn tế 
bào cơ. Ngược lại, nếu cấu trúc thành khối phình 
vẫn bao gồm 3 lớp chính, mặc dù lớp cơ mỏng 
hơn bình thường được xác định là giãn nhĩ phải. 
(3) toàn bộ nhĩ phải giãn lớn xác định 
chẩn đoán giãn nhĩ phải. 
2.2. Phân tích số liệu 
- Các ca lâm sàng được phân loại thành: túi 
thừa duy nhất và nhiều túi thừa. 
- Các thông tin thu thập bao gồm: (1) nhân 
trắc học (tuổi, giới), (2) triệu chứng lâm sàng, (3) 
phương tiện chẩn đoán xác định, (4) biến chứng, 
(5) phương pháp điều trị, và (6) kết quả lâm sàng 
và giải phẫu bệnh. 
III. KẾT QUẢ 
Tìm kiếm trên Pubmed cho 34 báo cáo ca 
lâm sàng phù hợp với nghiên cứu, bao gồm 34 
bệnh nhân. 
3.1. Phân loại: 
Bệnh nhân có một túi thừa nhĩ phải duy nhất 
chiếm đa số với 28 bệnh nhân (82,4%), phần còn lại 
(17,6%) là những bệnh nhân có nhiều túi thừa. 
3.2. Đặc điểm nhân trắc học: 
Tại thời điểm nghiên cứu, độ tuổi trung bình 
của nhóm bệnh nhân có một túi thừa cao hơn so với 
nhóm bệnh nhân có nhiều túi thừa, lần lượt là 36,5 
so với 16,1 tuổi. Trong cả 2 nhóm nghiên cứu, giới 
nam chiếm đa số với tỉ lệ gần tương đương nhau, 
lần lượt là 64,3 và 75%. Chi tiết về đặc điểm nhân 
trắc học được trình bày trong bảng 1. 
3.3. Triệu chứng cơ năng: 
Trong nhóm bệnh nhân có một túi thừa, 
21,4% bệnh nhân không có triệu chứng lâm 
sàng, bệnh được phát hiện tình cờ qua chụp 
xquang ngực thấy bóng tim to [1, 2]. Triệu 
chứng phổ biến nhất là hồi hộp, đánh trống ngực 
chiếm 42,9% ở nhóm bệnh nhân có một túi thừa 
[3-6], và 75% ở nhóm bệnh nhân có nhiều túi 
thừa [7-9]. Đau tức ngực, mệt hoặc khó thở khi 
gắng sức là những triệu chứng gặp với tần suất 
tương đương nhau. Có 1 trường hợp đột tử với 
chẩn đoán túi thừa nhĩ phải kèm theo bệnh cơ 
tim phì đại thất trái. Ở bệnh nhân này nguyên 
nhân đột tử được hướng tới rối loạn nhịp thất 
do bệnh cơ tim phì đại hơn là những rối loạn 
nhịp nhĩ trong bệnh cơ tim phì đại [10]. Chi tiết 
về triệu chứng được trình bày trong bảng 2. 
Bảng 1: Đặc điểm nhân trắc học 
Đặc điểm Một túi thừa (n=28) Nhiều túi thừa (n=4) 
Tuổi, x ± SD (min-max), năm 36,5 ± 23,3 (0 – 77) 16,1 ± 22,9 (0,4 – 50) 
Giới nam, n (%) 18 (64,3) 3 (75) 
Bảng 2: Triệu chứng lâm sàng 
Triệu chứng Một túi thừa (n=28) Nhiều túi thừa (n=4) Tổng (n=32) 
Không triệu chứng, n (%) 6 (21,4) 0 6 (18,75) 
Hồi hộp, n (%) 12 (42,9) 3 (75) 15 
Đau/ khó chịu ở ngực, n (%) 4 (14,3) 1 (25) 5 
Khó thở, n (%) 3 (10,7) 0 3 
Mệt, n (%) 4 (14,3) 1 (25) 5 
Đột tử, n (%) 1 (3,6) 0 1 
Bệnh nhân có thể có nhiều triệu chứng lâm sàng 
TÚI THỪA NHĨ PHẢI 
 31 
3.4. Đặc điểm điện tâm đồ: 
Nhịp xoang là loại nhịp thường gặp nhất ở 
nhóm bệnh nhân có một túi thừa (46,4%) trong 
khi chỉ có 1 trong 4 bệnh nhân nhiều túi thừa có 
nhịp xoang [11-13]. Rung nhĩ và cuồng nhĩ là 
những rối loạn nhịp phổ biến, gặp ở cả 2 nhóm 
bệnh nhân. Nhịp nhanh trên thất gặp ở 2 trong 4 
bệnh nhân nhiều túi thừa, trong khi đó không gặp 
ở nhóm bệnh nhân có một túi thừa [14, 15]. 
Ngược lại, hội chứng tiền kích thích do vòng vào 
lại (hội chứng WPW) và nhịp nhanh thất chỉ gặp 
ở nhóm bệnh nhân một túi thừa [5, 6, 16, 17]. Chi 
tiết về điện tâm đồ của bệnh nhân được trình bày 
trong bảng 3. 
Bảng 3: Đặc điểm điện tâm đồ 
Triệu chứng 
Một túi thừa 
(n=28) 
Nhiều túi thừa 
(n=4)* 
Tổng (n=32) 
Nhịp xoang, n (%) 13 (46,4) 1 (25) 14 (43,75) 
Rung nhĩ, n (%) 7 (25) 1 (25) 8 
Cuồng nhĩ, n (%) 3 (10,7) 2 (50) 5 
Nhịp nhanh trên thất, n (%) 0 2 (50) 2 
Hội chứng WPW, n (%) 4 (14,3) 0 4 
Nhịp nhanh thất, n (%) 2 (7,1) 0 2 
*: một bệnh nhân đồng thời bị rung nhĩ, cuồng nhĩ và nhịp nhanh trên thất 
3.5. Giá trị của các phương tiện chẩn 
đoán hình ảnh: 
Hình ảnh bóng tim to được ghi nhận trên 
phim X-quang với tỉ lệ cao, 50% ở bệnh nhân 
một túi thừa và 75% ở bệnh nhân nhiều túi thừa. 
Siêu âm tim qua thành ngực có độ nhậy cao 
(75%) trong chẩn đoán bệnh một túi thừa, 
ngược lại chỉ có giá trị phát hiện ở 25% trường 
hợp. Chẩn đoán xác định dựa trên 3 phương tiện 
chẩn đoán: cắt lớp đa dãy, cộng hưởng từ, và 
chụp buồng nhĩ phải. Trong khi chụp buồng nhĩ 
phải có độ nhậy cao giúp phát hiện những túi 
thừa kích thước nhỏ [16-18], chụp cắt lớp đa 
dãy và chụp cộng hưởng từ không những giúp 
khảo sát vị trí, hình dáng, kích thước túi phình 
mà còn xác định tình trạng chèn ép các cấu trúc 
xung quanh [19-23]. Chi tiết về tần suất phát 
hiện bất thường của các phương tiện chẩn đoán 
hình ảnh được chình bày trong bảng 4. 
3.6. Đặc điểm của túi thừa: 
Bảng 4: Tần suất phát hiện bất thường của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh 
Triệu chứng 
Một túi thừa 
(n=28) 
Nhiều túi thừa 
(n=4) 
Tổng 
(n=32) 
X-quang, n (%) 14 (50) 3 (75) 17 (53,1) 
SA tim qua thành ngực, n (%) 21 (75) 1 (25) 22 (68,8) 
SA tim qua thực quản*, n (%) 5 (17,9) 1 (25) 6 
SA tim cản âm*, n (%) 6 (21,4) 0 6 
Cắt lớp đa dãy*, n (%) 11 (39,3) 2 (50) 13 
Cộng hưởng từ*, n (%) 7 (25) 0 7 
Chụp buồng nhĩ phải*, n (%) 5 (17,9) 3 (75) 8 
*: những phương tiện chẩn đoán hình ảnh được chỉ định khi có dấu hiệu nghi ngờ trên x-quang 
ngực hoặc SA tim qua thành ngực 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 27 - THÁNG 12/2019 
 32 
Ở nhóm bệnh nhân một túi thừa, 26/28 trường 
hợp có túi thừa xuất phát từ thành tự do nhĩ phải. 
Trong đó, 11 trường hợp có túi thừa lớn, phát triển 
qua rãnh nhĩ thất và nằm trước thất phải [4, 16, 17, 
23]. Hầu hết những trường hợp này ghi nhận tình 
trạng chèn ép vòng van ba lá (VBL) và thất phải [20, 
21, 24]. Một bệnh nhân có túi thừa chèn ép thất trái, 
mặc dù vậy kích thước, vị trí tương quan của túi thừa 
không được mô tả chi tiết [14]. Một bệnh nhân có túi 
thừa xuất phát từ tiểu nhĩ phải [25]. 
Ở nhóm bệnh nhân nhiều túi thừa, 4/4 
trường hợp các túi thừa xuất phát từ thành tự do 
nhĩ phải. Tất cả những trường hợp này túi thừa 
đều có dạng ngón tay đi găng với kích thước nhỏ 
nên không gây triệu chứng chèn ép [7-9, 13]. 
Huyết khối hình thành trong lòng túi thừa 
được ghi nhận ở 5 bệnh nhân [16, 18, 20, 25, 26]; 
trong đó một bệnh nhân có tiền sử bị nhồi máu 
phổi [26] 
3.7. Các phương pháp điều trị: 
Bảng 5: Các đặc điểm túi thừa 
 Một túi thừa 
(n=28) 
Nhiều túi thừa 
(n=4) 
Vị trí túi thừa 
Thành tự do nhĩ phải, n (%) 26 (92,9) 4 (100) 
Tiểu nhĩ phải, n (%) 1 (3,6) 0 
Không rõ, n (%) 1 (3,6) 0 
Phát triển qua rãnh nhĩ thất và nằm trước thất phải, n (%) 11 (39,3) 0 
Huyết khối trong lòng túi thừa 5 (17,9) 0 
Chèn ép các cấu trúc xung quanh 
Chèn ép vòng VBL và TP, n (%) 9 (32,1) 0 
Chèn ép thất trái, n (%) 1 (3,6) 0 
VBL: van ba lá; TP: thất phải 
Phẫu thuật được chỉ định ở 60,7% trường 
hợp bệnh nhân có một túi thừa và 100% trường 
hợp bệnh nhân có nhiều túi thừa với lý do chèn ép 
các cấu trúc xung quanh, nguy cơ nhồi máu não, 
vỡ túi phình và đột tử. Tất cả những trường hợp 
này đều sử dụng đường mổ cưa toàn bộ xương 
ức. Ở nhóm bệnh nhân có một túi thừa, 17/17 
trường hợp cắt túi thừa phải sử dụng hệ thống 
tuần hoàn ngoài cơ thể, có thể liệt tim [21, 26, 27] 
hoặc tim đập [4, 11, 16]. Ở nhóm nhiều túi thừa, 
2/4 bệnh nhân không phải sử dụng hệ thống tuần 
hoàn ngoài cơ thể [7, 9] và 1 bệnh nhân được cắt 
túi thừa kết hợp đốt nhịp trong mổ để điều trị 
cuồng nhĩ [8]. 
Can thiệp đốt nhịp được thực hiện ở 2 bệnh 
nhân có hội chứng WPW [5, 17] và 2 bệnh nhân 
có nhịp nhanh thất [14, 15]. Trong đó, dấu hiệu 
túi thừa chèn ép chỉ được ghi nhận ở một bệnh 
nhân [14]. 
Điều trị nội khoa được chỉ định ở 4 bệnh 
nhân, bao gồm: một bệnh nhân có túi thừa không 
gây chèn ép, triệu chứng rung nhĩ được kiểm soát 
bằng thuốc nhưng thất bại [22], một bệnh nhân sơ 
sinh và hai bệnh nhân lớn tuổi mặc dù túi thừa có 
kích thước lớn và gây chèn ép vòng VBL và thất 
phải [6, 20, 28]. Chi tiết về các phương pháp điều 
trị được trình bày trong bảng 6. 
TÚI THỪA NHĨ PHẢI 
 33 
Bảng 6: Các lựa chọn điều trị 
Triệu chứng Một túi thừa (n=28) Nhiều túi thừa (n=4) 
Phẫu thuật, n (%) 17 (60,7) 4 (100) 
Cưa xương ức, n (%) 17 (100) 4 (100) 
Chạy máy + liệt tim, n (%) 14 (82,4) 2 (50) 
Chạy máy + tim đập, n (%) 3 (17,6) 0 
Không chạy máy, n (%) 0 2 (50) 
Cắt bán phần túi thừa, n (%) 1 (5,9) 1 (25) 
Vá cổ túi phình, n (%) 3 (17,6) 0 
Đốt nhịp trong phẫu thuật, n (%) 0 1 (25) 
Mô bệnh học, n (%) 12 (70,6) 1 (25) 
Can thiệp đốt nhịp, n (%) 4 (14,3) 0 
Điều trị nội khoa, n (%) 4 (14,3) 0 
3.8. Hiệu quả của các phương pháp điều 
trị đối với các loại rối loạn nhịp: 
Trong nghiên cứu có 18 bệnh nhân rối loạn 
nhịp nhanh, bao gồm 16 bệnh nhân rối loạn nhịp nhĩ 
và 2 bệnh nhân rối loạn nhịp thất. Phẫu thuật là 
phương pháp điều trị ở 9/18 bệnh nhân, có tác dụng 
chuyển nhịp ở những bệnh nhân rung nhĩ, cuồng nhĩ 
và nhịp nhanh trên thất [18, 21, 23]. Bệnh nhân hội 
chứng WPW bị tái phát sau mổ [16]. 
Phẫu thuật kết hợp đốt nhịp trong mổ được 
chỉ định ở một bệnh nhân nhiều túi thừa bị cuồng 
nhĩ, nhịp tim chuyển về xoang sau mổ [8]. Can 
thiệp đốt nhịp thành công ở 2 bệnh nhân hội 
chứng WPW [5, 17] và 2 bệnh nhân nhịp nhanh 
thất [14, 15]. Trong khi đó, điều trị nội khoa thất 
bại trong chuyển nhịp ở một bệnh nhân rung nhĩ 
[22] và kiểm soát nhịp ở một bệnh nhân có hội 
chứng WPW [6]. Hiệu quả của các phương pháp 
điều trị đối với các loại rối loạn nhịp được trình 
bày chi tiết trong bảng 7. 
Trong 6 bệnh nhân được thăm dò điện sinh 
lý, vòng vào lại được xác định ở chân túi thừa 
(chỗ nối giữa túi thừa và thành tự do nhĩ phải) ở 4 
bệnh nhân [9, 14, 16, 17]; ngoài ra đường dẫn 
truyền phụ có thể ở thành tự do nhĩ phải [5] và ở 
phần sau bên của rãnh nhĩ thất [15]. 
Bảng 7: Hiệu của của các phương pháp điều trị đối với các loại rối loạn nhịp 
Các loại rối loạn 
nhịp 
Phẫu thuật 
Phẫu thuật 
+ đốt nhịp 
Đốt nhịp Nội khoa Không biết 
Một 
túi 
thừa 
Rung nhĩ 
3 nhịp xoang 
1 không biết 
1 rung nhĩ 
1 không biết 
1 không biết 
Cuồng nhĩ 2 nhịp xoang 
Hội chứng WPW 1 tái phát 2 nhịp xoang 1 tái phát 
Nhịp nhanh thất 2 nhịp xoang 
Nhiều 
túi 
thừa 
Rung nhĩ 1 nhịp xoang 
Cuồng nhĩ 1 nhịp xoang 
Nhịp nhanh trên thất 1 nhịp xoang 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 27 - THÁNG 12/2019 
 34 
IV. BÀN LUẬN 
Nhĩ phải lớn được phân định thành 2 nhóm: 
giãn nhĩ phải và túi thừa nhĩ phải [29]. Giãn nhĩ 
phải thường là thương tổn thứ phát do bệnh lý 
VBL, bệnh lý van động mạch phổi và các bệnh lý 
gây tăng áp lực động mạch phổi (shunt trái – 
phải, tăng áp lực động mạch phổi vô căn) [23]. 
Về đại thể, toàn bộ cấu trúc thành nhĩ phải giãn 
lớn. Ngược lại, trong bệnh túi thừa nhĩ phải, chỉ 
một phần thành tự do nhĩ phải hoặc tiểu nhĩ phải 
bị yếu và phình ra thành khối có kích thước to 
nhỏ khác nhau; giữa túi phình và nhĩ phải ngăn 
cách nhau bởi cổ túi - xác định được bằng siêu 
âm và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác. 
Chẩn đoán phân biệt giữa 2 thể bệnh này đôi khi 
khó khi cổ túi thừa rộng, khi đó phải dựa vào kết 
quả mô bệnh học. Trong giãn nhĩ phải, phần 
thành nhĩ vẫn bao gồm đầy đủ 3 lớp, trong đó có 
lớp cơ trơn. Trong khi đó, hầu hết tác giả ghi 
nhận thành túi thừa được cấu tạo bởi tổ chức liên 
kết xơ và lớp nội mạc, lớp cơ trơn bị thoái triển 
không còn nữa hoặc còn rất ít [1, 11, 23]. Đó là lý 
do khiến túi thừa tăng dần kích thước. 
So với nghiên cứu của Binder cùng cộng sự 
thực hiện năm 2000, nghiên cứu của chúng tôi có 
số lượng ca bệnh một túi thừa tăng (28 ca so với 
12 ca), số lượng ca nhiều túi thừa không thay đổi 
(4 ca). Do đó, tần suất gặp các triệu chứng, 
phương pháp điều trị được áp dụng và kết quả 
trong nghiên cứu tổng hợp của chúng tôi có sự 
khác biệt so với nghiên trước đó. 
Về triệu chứng lâm sàng, 18,75% bệnh 
nhân không có triệu chứng, tình cờ phát hiện 
bệnh bằng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. 
Trong số những bệnh nhân có triệu chứng thì rối 
loạn nhịp nhanh gây cảm giác hồi hộp, đánh trống 
ngực chiếm đa số với 15/26 lượt bệnh nhân 
(57,7%) (bảng 2). Trong đó, rung nhĩ, cuồng nhĩ 
và nhịp nhanh trên thất chiếm đa số với 15/18 
bệnh nhân (83,3%) (bảng 3). 
Dấu hiệu bóng tim to trên phim x-quang 
ngực được ghi nhận với tỉ lệ thấp (53,1%) do dấu 
hiệu này chỉ có khi túi thừa lớn và phát triển về 
phía bên phải tim. Siêu âm tim qua thành ngực có 
tỉ lệ chẩn đoán túi thừa nhĩ phải chỉ là 68,8% 
(bảng 4). Tỉ lệ thấp này có thể được giải thích do 
cửa sổ thành ngực mờ và khả năng bỏ sót những 
túi thừa nhỏ. Thông tim chụp buồng nhĩ phải có 
thể giúp xác định chẩn đoán trong một số trường 
hợp; mặc dù vậy hình ảnh 2 chiều khiến phương 
pháp này có thể bỏ sót thương tổn. MSCT với 
khoảng cách giữa các lớp cắt rất nhỏ là phương 
tiện tốt nhất giúp xác định ngay cả những túi thừa 
nhỏ [8, 13]. Trong khi đó C-MRI bên cạnh việc 
xác định chẩn đoán còn giúp đánh giá chức năng 
thất phải, mức độ chèn ép của túi thừa và mức độ 
hở VBL [3, 21]. 
Rối loạn nhịp không đáp ứng với điều trị 
thuốc, hình thành huyết khối trong túi thừa và 
chèn ép các cấu trúc tim được xác định là chỉ 
định phẫu thuật cắt túi thừa [1]. Ở những bệnh 
nhân không có triệu chứng, chỉ định phẫu thuật 
còn nhiều tranh cãi. Binder cùng cộng sự cho 
rằng bệnh nhân không triệu chứng nên được điều 
trị bảo tồn [29]. Trong khi đó, một số tác giả 
khuyến cáo phẫu thuật phòng biến chứng vỡ túi 
phình [23]. Theo tổng kết của chúng tôi, không 
ghi nhận trường hợp nào vỡ túi phình. Vì vậy 
chúng tôi cho rằng chỉ định bảo tồn nên được đặt 
ra cho những bệnh nhân không có triệu chứng, 
không có dấu hiệu đè ép các cấu trúc tim trên 
MSCT và C-MRI, và không có nguy cơ hình 
thành huyết khối trong lòng túi thừa. 
Túi thừa nhĩ phải lớn có thể làm ảnh hưởng 
tới khả năng co bóp của nhĩ phải dẫn tới tăng 
nguy cơ hình thành huyết khối [23, 25, 30]. Túi 
thừa không có khả năng co bóp, đơn thuần là một 
túi chứa máu, do đó huyết khối hay hình thành 
trong lòng túi thừa. Siêu âm tim qua thực quản 
được khuyến cáo sử dụng để phát hiện huyết khối 
trong lòng túi thừa nhĩ phải [25]. 
Với những túi thừa sát vòng VBL, túi thừa 
thường phát triển qua rãnh nhĩ thất phải và hướng 
về mặt trước thất phải. Trong trường hợp này, 
TÚI THỪA NHĨ PHẢI 
 35 
thành sau túi thừa thường dính chặt vào rãnh nhĩ 
thất và có thể cả mặt trước thất phải khiến cho 
việc phẫu tích và cắt bỏ toàn bộ thành túi thừa mà 
không làm tổn thương ĐMV phải hoặc thất phải 
là rất khó [16, 23]. Iwata cùng cộng sự cắt một 
phần túi thừa để tránh thương tổn ĐMV phải và 
khuyến cáo đánh giá vận động vùng của thất phải 
ngay sau khi ngừng máy để xác định mạch vành 
có bị tổn thương hay không [23]. 
Các dạng rối loạn nhịp nhĩ bao gồm: rung 
nhĩ, cuồng nhĩ và nhịp nhanh trên thất với ổ phát 
nhịp thường nằm ở cổ túi thừa [16], hầu hết sẽ hết 
đi khi túi thừa được cắt bỏ [6]. Trong khi đó, hội 
chứng WPW có vòng vào lại tại cổ túi phình hoặc 
thành tự do nhĩ phải và trạng thái tiền kích thích 
thất do sự tiếp xúc trực tiếp giữa thành túi thừa và 
bề mặt thất [6, 14] đòi hỏi phải thăm dò điện sinh 
lý và triệt đốt bằng can thiệp qua da. Điều trị nội 
khoa thường không kết quả với những trường hợp 
túi thừa kèm theo rối loạn nhịp. 
V. KẾT LUẬN 
Túi thừa nhĩ phải là bệnh lý bẩm sinh hiếm 
gặp, thường đi kèm với rối loạn nhịp nhĩ. Cắt túi 
thừa có tác dụng trong chuyển nhịp nên được chỉ 
định trong hầu hết trường hợp, trừ hội chứng 
WPW và hội chứng tiền kích thích thất. Những 
rối loạn nhịp do vòng vào lại nên được chỉ định 
can thiệp đốt nhịp hoặc hybrid. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agematsu, K., et al., Remarkable giant 
right atrial diverticulum in asymptomatic patient. 
Interact Cardiovasc Thorac Surg, 2009. 8(6): p. 
705-7. 
2. Funabashi, N., T. Sekine, and I. 
Komuro, Idiopathic diverticulum-type 
enlargement of the right atrium demonstrated by 
multislice computed tomography. Heart, 2006. 
92(8): p. 1144. 
3. Kurian, K.C., M. Nguyen, and N. 
Wilke, Images in cardiology: right atrial 
diverticulum--a rare cause of atrial fibrillation. 
Clin Cardiol, 2007. 30(12): p. 631. 
4. Kobza, R., et al., Enlargement of the 
right atrium--diverticulum or aneurysm? Eur J 
Echocardiogr, 2003. 4(3): p. 223-5. 
5. Hasdemir, C., et al., Giant right atrial 
diverticulum associated with Wolff-Parkinson-
White syndrome. J Cardiovasc Electrophysiol, 
2006. 17(4): p. 443. 
6. Shah, K. and K. Walsh, Giant right 
atrial diverticulum: an unusual cause of Wolff-
Parkinson-White syndrome. British heart journal, 
1992. 68(1): p. 58-59. 
7. Varghese, P.J., et al., Multiple saccular 
congenital aneurysms of the atria causing 
persistent atrial tachyarrhythmia in an infant. 
Report of a case successfully treated by surgery. 
Pediatrics, 1969. 44(3): p. 429-33. 
8. Aggarwal, N., et al., Right Atrial 
Diverticulosis and Early-onset Arrhythmia: Rare 
Cause of Incessant Neonatal Arrhythmia. Indian 
Pediatr, 2017. 54(6): p. 503-504. 
9. Miyamura, H., et al., Successful 
surgical treatment of incessant automatic atrial 
tachycardia with atrial aneurysm. Ann Thorac 
Surg, 1990. 50(3): p. 476-8. 
10. Vilacosta, I., et al., Right atrial 
diverticulum and hypertrophic cardiomyopathy. 
Eur Heart J, 1993. 14(5): p. 721-2. 
11. Borgohain, S., et al., Case of single 
right atrial diverticulum and review of etiology 
and management. Asian Cardiovasc Thorac Ann, 
2013. 21(5): p. 592-5. 
12. Tomar, M., et al., Giant congenital 
diverticulum of the right atrium. Indian Heart J, 
2008. 60(4): p. 359-62. 
13. Morishita, Y., et al., Multiple 
diverticula of the right atrium. Am Heart J, 1990. 
120(5): p. 1225-7. 
14. Hayashi, T., et al., Ventricular 
tachycardia associated with a giant right atrial 
diverticulum. J Am Coll Cardiol, 2013. 62(24): p. 
2341. 
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 27 - THÁNG 12/2019 
 36 
15. Hocini, M., et al., Noninvasive 
electrocardiomapping facilitates previously failed 
ablation of right appendage diverticulum 
associated life-threatening accessory pathway. J 
Cardiovasc Electrophysiol, 2013. 24(5): p. 583-5. 
16. Campbell, R.M., et al., Right atrial 
diverticulum presenting as Wolff-Parkinson-
White syndrome. Pacing Clin Electrophysiol, 
1992. 15(8): p. 1101-4. 
17. Gaita, F., et al., Catheter ablation in a 
patient with a congenital giant right atrial 
diverticulum presented as Wolff-Parkinson-White 
syndrome. Pacing Clin Electrophysiol, 1999. 
22(2): p. 382-5. 
18. Morrow, A.G. and D.M. Behrendt, 
Congenital aneurysm (diverticulum) of the 
right atrium. Clinical manifestations and 
results of operative treatment. Circulation, 
1968. 38(1): p. 124-8. 
19. Masuda, S., et al., Surgical treatment of 
congenital right atrial aneurysm in an adult 
patient. Jpn J Thorac Cardiovasc Surg, 2004. 
52(5): p. 254-6. 
20. Staubach, P., [Large right atrial 
aneurysm: rare cause of recurrent pulmonary 
embolism]. Z Kardiol, 1998. 87(11): p. 894-9. 
21. Kinsella, A., et al., Giant right atrial 
aneurysm. Interact Cardiovasc Thorac Surg, 
2019. 28(4): p. 645-646. 
22. Stefil, M. and S. Stefil, Late 
presentation of right atrial diverticulum: surgical 
intervention might not be imperative. Eur Heart J 
Cardiovasc Imaging, 2019. 
23. Iwata, S., M. Nomura, and M. Ozaki, 
Intraoperative Transesophageal Echocardiographic 
Findings in Surgical Resection of a Giant Right 
Atrial Diverticulum That Severely Compressed the 
Right Ventricle. J Cardiothorac Vasc Anesth, 2018. 
32(2): p. 796-800. 
24. Yuan, G., et al., Compressive giant 
right atrial diverticulum. Eur Heart J Cardiovasc 
Imaging, 2016. 17(9): p. 1065. 
25. Sato, Y., et al., Giant right atrial 
diverticulum with thrombus formation. Asian 
Cardiovasc Thorac Ann, 2015. 23(3): p. 314-6. 
26. Kuhn, A., et al., Giant right atrial 
aneurysm in a symptomatic adult-a rare 
congenital malformation. Eur Heart J, 2006. 
27(20): p. 2375. 
27. Streb, W., et al., [Right atrial 
diverticulum in an adult patient]. Kardiol Pol, 
2007. 65(9): p. 1090-3. 
28. Sanchez-Brotons, J.A., et al., Giant 
right atrial diverticulum: utility of contrast-
enhanced ultrasound. Rev Esp Cardiol (Engl Ed), 
2013. 66(3): p. 222-3. 
29. Binder, T.M., et al., Congenital 
malformations of the right atrium and the 
coronary sinus: an analysis based on 103 cases 
reported in the literature and two additional 
cases. Chest, 2000. 117(6): p. 1740-8. 
30. Patterson-Kane, J.C. and L.R. Harrison, 
Giant right atrial diverticulum in a foal. J Vet 
Diagn Invest, 2002. 14(4): p. 335-7. 

File đính kèm:

  • pdftui_thua_nhi_phai.pdf