Túi phình mạch máu não chưa vỡ. Lựa chọn can thiệp hay bảo tồn ?
Túi phình nội sọ chưa vỡ tương đối phổ biến, chiếm khoảng 2-3% dân số nói chung
và được thấy ngày càng nhiều do sự phát triển của hình ảnh học. Vỡ túi phình nội sọ là
nguyên nhân chủ yếu gây xuất huyết dưới nhện, một bệnh lý có tỷ lệ tử vong cao. Tuy
vậy phần lớn các túi phình nội sọ không vỡ và phần lớn người có túi phình nội sọ thì
không có triệu chứng. Các phương pháp can thiệp nội mạch và phẫu thuật có thể xử lý
hiệu quả để phòng ngừa vỡ túi phình, nhưng các phương pháp này cũng có thể gây ra
những biến chứng bất lợi. Nội dung bài viết tập trung vào vấn đề sàng lọc và xử trí các
túi phình nội sọ chưa vỡ
Bạn đang xem tài liệu "Túi phình mạch máu não chưa vỡ. Lựa chọn can thiệp hay bảo tồn ?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Túi phình mạch máu não chưa vỡ. Lựa chọn can thiệp hay bảo tồn ?
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 90 Tóm tắt Túi phình nội sọ chưa vỡ tương đối phổ biến, chiếm khoảng 2-3% dân số nói chung và được thấy ngày càng nhiều do sự phát triển của hình ảnh học. Vỡ túi phình nội sọ là nguyên nhân chủ yếu gây xuất huyết dưới nhện, một bệnh lý có tỷ lệ tử vong cao. Tuy vậy phần lớn các túi phình nội sọ không vỡ và phần lớn người có túi phình nội sọ thì không có triệu chứng. Các phương pháp can thiệp nội mạch và phẫu thuật có thể xử lý hiệu quả để phòng ngừa vỡ túi phình, nhưng các phương pháp này cũng có thể gây ra những biến chứng bất lợi. Nội dung bài viết tập trung vào vấn đề sàng lọc và xử trí các túi phình nội sọ chưa vỡ. UNRUPTURED INTRACRANIAL ANEURYSMS Intervention or conservation ? Summary Unruptured intracranial aneurysms (UIA) are a realatively common finding, oc- curring in about 2-3% of the population, and they are seen more and more because of the widespread use of high-resolution magnetic resonance imaging (MRI) scanning. Rupture of intracranial aneurysm is main cause of the subarachnoid hemorrhage, its mortality is very high. However, most aneurysms do not rupture and patients harboring these lesions often remain asymptomatic. There are effective surgical and endovascular interventions to prevent rupture, but these procedures carry a risk of adverse complica- tions. This article addresses the challenges of screening and management of UIAs. ĐẶT VẤN ĐỀ Túi phình mạch não là những chỗ phình ra của mạch máu. Bệnh nguyên do một điểm thành mạch máu não yếu do cấu TÚI PHÌNH MẠCH MÁU NÃO CHƯA VỠ Lựa chọn can thiệp hay bảo tồn ? Bạch Thanh Thủy1 1 Bệnh viện Quân Y 175 Người phản hồi (Corresponding): Bạch Thanh Thủy (Email: [email protected]) Ngày nhận bài: 03/9/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/9/2016 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2016 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 91 trúc không có đầy đủ các lớp giải phẫu, dẫn tới phình ra hình túi hoặc hình thoi. Phình mạch não thường gặp tại các vị trí phân nhánh của hệ mạch, phát triển lớn lên từ từ. Chính vì vỡ túi phình là nguyên nhân chủ yếu của xuất huyết dưới nhện, một bệnh lý mà tỷ lệ tử vong lên tới 50% nên nhiều khi túi phình được đồng nghĩa với xuất huyết dưới nhện. Điều này tạo một tâm lý lo lắng cho cả thầy thuốc và người bệnh. Chính sự lo lắng này có thể dẫn tới việc xử lý quá mức một túi phình chưa vỡ được phát hiện một cách tình cờ và đôi khi quá trình can thiệp có thể mang đến những biến chứng nặng nề mặc dù tỷ lệ rất thấp. 1. Dịch tễ : Trên thực tế túi phình nội sọ tương đối thông thường, tỷ lệ túi phình rất thay đổi giữa các nghiên cứu, chiếm khoảng 2-3% dân số nói chung [8] và chúng được phát hiện ngày càng nhiều một cách tình cờ do sự việc sử dụng rộng rãi các phương pháp chẩn đoán hình ảnh học khi tầm soát các bệnh lý khác. Phần lớn các túi phình sẽ không bao giờ vỡ, chỉ có khoảng 0,25% các túi phình sẽ bị vỡ tức là khoảng 1/200- 400 túi phình sẽ vỡ. Cụ thể hơn sẽ có khoảng 80 trong 32.000 túi phình sẽ vỡ và gây ra xuất huyết dưới nhện. Khoảng 95% túi phình không được chẩn đoán cho đến khi chúng bị vỡ. Các túi phình thường được chẩn đoán trong khoảng giữa 35-60 tuổi và thường gặp ở phụ nữ. 2. Các yếu tố nguy cơ [1,5]: Đối với các túi phình nội sọ các yếu tố nguy cơ có thể chia làm 3 loại: (1) yếu tố nguy cơ tạo túi phình, (2) Yếu tố nguy cơ làm thay đổi hình dạng và kích thước túi phình, (3) Yếu tố nguy cơ vỡ túi phình. Các bằng chứng quan trọng từ các nghiên cứu hình ảnh học và phẫu thuật tử thi cho thấy có sự tăng tạo thành túi phình trong các bệnh lý như: bệnh thận đa nang, hội chứng Ehlers-Danlos typ IV, hội chứng Marfan, hẹp động mạch chủ, giãn mao mạch xuất huyết di truyền Bệnh thận đa nang di truyền qua nhiễm sắc thể trội làm tăng nguy cơ tạo túi phình từ 3-14 lần. Những tình trạng trên chiếm khoảng 10% việc tạo thành các túi phình, phần còn lại được cho là do các nguyên nhân khác. Phần lớn các nghiên cứu đều thấy rằng tuổi và giới nữ là các yếu tố nguy cơ quan trọng. Túi phình thường gặp ở người lớn. Các trường hợp thấy ở trẻ em thường liên quan với yếu tố di truyền. Yếu tố gia đình và gen: Người ta thấy có sự tăng nhẹ nguy cơ tạo thành túi phình trong những người liên quan gần gũi nhất với những bệnh nhân bị xuất huyết dưới nhện. Anh em ruột của bệnh nhân có nguy cơ cao hơn con cái của họ. Kiểu di truyền thì chưa rõ nhưng người ta nghi ngờ nhiều nhất là di truyền qua nhiễm sắc thể trội. Các yếu tố nguy cơ tạo túi phình khác mà có thể thay đổi được bao gồm: hút thuốc lá, tăng lipid máu, tăng huyết áp, liều cao thuốc ngừa thai, nghiện rượu, ma túy, nhiễm khuẩn huyết, chấn thương sọ não có khoảng 15-30% số người có trên 2 túi phình [4]) Nguy cơ vỡ túi phình: Phần lớn các TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 92 nghiên cứu tập trung vào sự khác biệt về khu vực và kích cỡ của túi phình. Túi phình động mạch thông trước và động mạch quanh thể trai có tỷ lệ vỡ nhiều nhất. Túi phình động mạch não giữa có tỷ lệ vỡ ít hơn. Kích thước lớn cũng có khả năng vỡ cao hơn.Túi phình dạng cổ chai và tỷ lệ giữa túi phình và đường kính mạch máu cũng liên quan với khả năng tái vỡ. Người ta cũng thấy rằng có mối liên quan giữa hình thái túi phình (chiều cao, đường kính cổ túi phình) và tình trạng huyết động (dòng chảy phức tạp, chuyển động không đều) với khả năng vỡ túi phình. Kết hợp những điều này có thể phân biệt túi phình có khả năng vỡ hoặc không. Một nghiên cứu của theo dõi 118 bệnh nhân có túi phình chưa vỡ trong 22 năm đến khi có xuất huyết dưới nhện hoặc chết thấy rằng tỷ lệ xuất huyết dưới nhện trong toàn bộ 22 năm là 29% và như như vậy tỷ lệ vỡ hàng năm/1 bệnh nhân là 1,6%. Nguy cơ xuất huyết dưới nhện là giới nữ, hút thuốc lá và đường kính túi phình >7 mm [9]. 3. Triệu chứng lâm sàng: phần lớn các túi phình không có biểu hiện lâm sàng và chúng chỉ được phát hiện khi vỡ hoặc tình cờ khi tầm soát các vấn đề bệnh lý khác. Một số triệu chứng có thể ghi nhận là: Nhìn đôi Giãn đồng tử Đau trên hoặc phía sau của mắt Đau đầu không cắt nghĩa được Co giật 4. Diễn tiến tự nhiên và sàng lọc: Một nghiên cứu lớn nhất về túi phình mạch máu não-The International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms (ISUIA) [10] đã thực hiện trên 1642 bệnh nhân có túi phình >2 mm không có tiền sử xuất huyết dưới nhện trước đó, theo dõi trong 5 năm. Tỷ lệ vỡ hằng năm là 0,7%, kích thước và vị trí của túi phình là yếu tố quan trọng để tiên lượng nguy cơ vỡ. Một nghiên cứu khác của Nhật thấy tỷ lệ vỡ là 0,95% ở những túi phình có kích thước trên 3 mm. Vì túi phình mạch não là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới xuất huyết dưới nhện – một bệnh lý nặng có tỷ lệ tử vong lên tới 50%, vì vậy các túi phình mạch não nên được sàng lọc cẩn thận. Tuy nhiên phần lớn các túi phình là không triệu chứng, tỷ lệ vỡ thấp và việc can thiệp cũng mang đến nhiều nguy cơ. Thêm nữa có những vấn đề phức tạp của việc sàng lọc các túi phình mạch não đó là gây ra những lo lắng, căng thẳng và có thể dẫn đến những thay đổi trong đời sống hiện tại, bảo hiểm y tế trong khi những nguy cơ mà những túi phình mang lại theo thời gian là rất thấp, vì vậy việc sàng lọc rộng rãi trong các đối tượng nguy cơ thấp thì không chắc mang lại lợi ích gì. Việc sàng lọc chỉ nên tiến hành ở những người nguy cơ cao có túi phình và những bệnh nhân xuất huyết dưới nhện và những người có thể cần phải can thiệp. Như vậy chỉ nên tiến hành sàng lọc cho những người mà trong gia đình có từ TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 93 hai người trở nên có túi phình mạch não hoặc xuất huyết dưới nhện. Với những người chỉ có một thành viên trong gia đình thì việc sàng lọc là không bắt buộc.Cũng nên sàng lọc cho những người mà có tiền sử gia đình bệnh thận đa nang và đặc biệt có kèm túi phình hoặc xuất huyết dưới nhện và những người có hẹp quai động mạch chủ. Nếu kết quả của các xét nghiệm tầm soát là âm tính thì vẫn cần làm lại sau 5 năm [5] 5. Các phương pháp chẩn đoán túi phình [1]: Chụp mạch máu kỹ thuật số xóa nền (Digital Subtraction Angiography-DSA) vẫn luôn là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán túi phình mạch não với hình ảnh không gian 3 chiều với độ phân giải cao đặc biệt cho những túi phình <3mm. Nó có thể có một số bất lợi: tác dụng phụ của thuốc cản quang, nhồi máu não, vỡ túi phình, tổn thương động mạch nhưng nói chung các biến chứng thần kinh có tỷ lệ rất thấp (0,07%). 5.2 Chụp mạch máu cắt lớp vi tính (Computer Tomographic Angiography- CTA): Chụp mạch máu cắt lớp vi tính là một pháp pháp không xâm lấn nên cũng được nhiều bác sỹ ưa thích. So sánh với DSA về độ nhậy, độ đặc hiệu và độ chính xác Chụp mạch máu đạt 96.3%, 100%, and 94.6%. Tuy nhiên với những túi phình<3 mm thì chỉ đạt 81.8%, 100%, and 93.3%. CTA cũng có một số hạn chế như có thể bị nhiễu do xương và các vật liệu kim loại (coil, stent, clip) 5.3 Chụp cộng hưởng từ mạch máu (Magnetic Resonance angiography - MRA): Chụp cộng hưởng từ mạch máu sử dụng phương pháp TOF hoặc tương phản, đây là một phương pháp không xâm lấn. Một túi phình >3mm có thể được phát hiện với với độ nhạy 89%. Người ta cũng thấy rằng đây là một phương pháp giúp sàng lọc ban đầu cho những túi phình có kích thước >3 mm Dù cho phương pháp chẩn đoán hình ảnh nào được dùng, thì về nguyên tắc cũng phái giúp các bác sỹ phân tích được hình ảnh của túi phình (đường kính cổ túi phình, chiều dài từ cổ tới đáy, đường kính túi phình cũng như liên quan của túi phình với các mạch máu lân cận) để xác định phương pháp điều trị tối ưu cũng như tiên lượng cho quá trình can thiệp 6. Xử trí các túi phình: Khi phát hiện một túi phình, cần phải phân tích các đặc điểm như: kích thước, vị trí, diễn tiến và cân nhắc cẩn thận với các yếu tố nguy cơ khi can thiệp xử lý túi phình. Có 3 phương án có thể lựa chọn: phẫu thuật kẹp túi phình, can thiệp nội mạch và điều trị bảo tồn 6.1 Phẫu thuật kẹp túi phình (Microsurgical clipping): Phương pháp này được giới thiệu năm 1937. Bệnh nhân sẽ được mở sọ, tới vị trí và bộc lộ túi phình. Một dụng cụ rất nhỏ sẽ được dùng để kẹp cổ túi phình. Phẫu thuật này nói chung là hiệu quả và theo tác giả David và CS thì kết quả làm tắc hoàn toàn đạt được khoảng 90% [5] TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 94 6.2 Can thiệp nội mạch (Endovascular coiling): Can thiệp nội mạch là một phương pháp điều trị ra đời từ năm 1990. Ngày nay ở Mỹ phương pháp này trở nên rất phổ biến. Trong phương pháp này cuộn dây platinum (coil) được đặt vào trong túi phình gây huyết khối tại chỗ và làm tách biệt túi phình khỏi động mạch. Những trường hợp không thể thực hiện được phương pháp này là túi phình cổ rộng, tỷ lệ cổ/túi cao và những trường hợp mà tình trạng chung khó thực hiện can thiệp nội mạch. Một số kỹ thuật can thiệp nội mạch khác gồm stent chuyển dòng và chất lỏng làm tắc thường dùng trong những túi phình cổ rộng. Đối với can thiệp nội mạch, kết quả kém thường khoảng 4-5% và tỷ lệ tử vong là 1-2% [3,5]. Nguy cơ kết quả kém thường cao trong các trường hợp túi phình có đường kính lớn hơn 12 mm và ở khu vực tuần hoàn sau. Không có thử nghiệm ngẫu nhiên so sánh trực tiếp giữa các lựa chọn điều trị túi phình chưa vỡ. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh giữa phẫu thuật và can thiệp nội mạch trên những bệnh nhân xuất huyết dưới nhện do vỡ túi phình [6] thấy nguy cơ tử vong và tàn phế trong nhóm điều trị nội mạch thấp hơn (23,5%) có ý nghĩa thống kê so với nhóm can thiệp phẫu thuật (30,9%) trong khuyến cáo về điều trị túi phình mạch não của hiệp hội tim mạch Mỹ khuyến cáo rằng: can thiệp nội mạch làm giảm nguy cơ tử vong và tàn phế hơn phẫu thuật trong những nhóm bệnh nhân nhất định nhưng có nguy cơ tái phát cao hơn [2] 6.3. Điều trị bảo tồn: Cần theo dõi hình ảnh học thường xuyên và điều trị tích cực các yếu tố nguy cơ: kiểm soát tốt huyết áp, ngưng thuốc lá và giảm uống rượu. Có thể dùng aspirin để phòng vỡ túi phình do có liên quan tới vai trò chống viêm [10] 7. Lựa chọn điều trị [2,5]: Vấn đề này thường phức tạp. Người ta thấy rằng nhiều người có túi phình không triệu chứng và vẫn không không có triệu chứng trong một thời gian dài và không biết đến bao giờ. Can thiệp có tỷ lệ thành công cao nhưng cũng có những nguy cơ Hình minh họa: Kẹp cổ túi phình TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 95 tàn phế hoạc tử vong ngay lập tức mặc dù rất thấp [7]. Dựa trên nguy cơ và lợi ích, phần lớn túi phình có triệu chứng và những túi phình có đường kích trên 12 mm nên được can thiệp trừ khi bệnh nhân có tình trạng bệnh lý khác không cho phép. Túi phình động mạch cảnh trong đoạn xoang hang không đòi hỏi can thiệp trừ khi chúng có triệu chứng. Đối với các túi phình đường kính dưới 7 mm, tiếp tục theo dõi và kiểm tra hình ảnh học nhắc lại thì phù hợp hơn trừ khi bệnh nhân trẻ và đặc biệt là có các yếu tố nguy cơ như: tiền sử có xuất huyết dưới nhện, túi phình khu trú tại tuần hoàn sau hoặc động mạch thông sau. Đối với các túi phình đường kính từ 7-12 mm chưa có lựa chọn rõ ràng, cần cân nhắc cẩn thận dựa trên tuổi bệnh nhân, lựa chọn can thiệp và các yếu tố nguy cơ. Đối với tất cả các bệnh nhân, việc tư vấn kỹ càng về lựa chọn phương pháp can thiệp, lợi ích và nguy cơ, tiên lượng xa và gần và chi phí điều trị là cực kỳ quan trọng. Đối với các túi phình không có chỉ định can thiệp, cần chụp lại hình ảnh không xâm lấn 6 tháng sau chẩn đoán và nhắc lại sau hàng năm trong 3 năm và sau đó giảm dần nếu túi phình ổn định. Nếu trong quá trình theo dõi kích thước túi phình lớn hơn so với ban đầu thì cần can thiệp để phòng ngừa xuất huyết dưới nhện KẾT LUẬN Túi phình nội sọ là tương đối thông thường với tỷ lệ vỡ thấp. Cần tiến hành tầm soát ở những người có yếu tố nguy cơ cao: trong gia đình có từ hai người trở nên có túi phình hoặc xuất huyết dưới nhện, những người có tiền sử gia đình bệnh thận đa nang, hẹp quai động mạch chủ Nếu kết quả âm tính nên làm lại sau 5 năm. Khi phát hiện túi phình: với những túi phình có triệu chứng và những túi phình có đường kích trên 12 mm nên được can thiệp. túi phình đường kính từ 7-12 mm chưa có lựa chọn rõ ràng, cần cân nhắc cẩn thận dựa trên tuổi bệnh nhân, lựa chọn can thiệp và các yếu tố nguy cơ. Đối với các túi phình đường kính dưới 7 mm, tiếp tục theo dõi và kiểm tra bằng hình ảnh học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn lưu Giang, Trần Chí Cường (2016). “Chẩn đoán, điều trị phình động mạch não” . Chẩn đoán và điều trị bệnh mạch máu thần kinh-đột quỵ. Nhà xuất bản y học. Tr 218-178. 2. ASA-AHA guideline (2015). “Guidelines for the Management of Patients With Unruptured Intracranial Aneurysms”. Stroke.; 46: 2368-2400 3. Cloft HJ, Joseph GJ, Dion JE (1999). “Risk of cerebral angiography in patients with subarachnoid hemorrhage, cerebral aneurysm, and arteriovenous malformation: a meta-analysis”. Stroke; 30:317–320. 4. Korja M, Lehto H, Juvela S. (2014) “Lifelong rupture risk of intracranial aneurysms depends on risk TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 96 factors: a prospective Finnish cohort study”. Stroke;45:1958–1963. 5. Lindsy N. Williams, MD and Robert D. (2013) “Management of unruptured intracranial aneurysms”. Neurol Clin Pract. Apr; 3(2): 99–108. 6. Molyneux AJ, Kerr RS. (2005) “International Subarachnoid Aneurysm Trial (ISAT) Collaborative Group. International subarachnoid aneurysm trial (ISAT) of neurosurgical clipping versus endovascular coiling in 2143 patients with ruptured intracranial aneurysms: a randomised comparison of effects on survival, dependency, seizures, rebleeding, subgroups, and aneurysm occlusion”. Lancet. Sep 3-9; 366(9488):809-17. 7. Pyysalo L, Luostarinen T. (2013) “Long-term excess mortality of patients with treated and untreated unruptured intracranial aneurysms”. J Neurol Neurosurg Psychiatry;84:888–892. 8. Vlak MH, Algra A. (2011) “Prevalence of unruptured intracranial aneurysms, with emphasis on sex, age, comorbidity, country, and time period: a systematic review and meta-analysis”. Lancet Neurol. 2011 Jul; 10(7):626-36. 9. Wermer MJ, van der Schaaf IC. (2007)“ Risk of rupture of unruptured intracranial aneurysms in relation to patient and aneurysm characteristics: an updated meta-analysis”. Stroke;38:1404–1410 10. Wiebers DO, Whisnant JP. (2003) “The International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms Investigators. Unruptured intracranial aneurysms: natural history, clinical outcome, and risks of surgical and endovascular treatment”. Lancet.;362:103
File đính kèm:
tui_phinh_mach_mau_nao_chua_vo_lua_chon_can_thiep_hay_bao_to.pdf

