Tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Không tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ hít chưa đạt là những vấn đề

thường gặp ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Điều này có thể dẫn đến thất bại trong việc

phòng ngừa đợt cấp và đẩy nhanh tốc độ suy giảm chức năng hô hấp. Vì vậy việc khảo sát tỷ lệ tuân thủ điều trị

thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý và điều trị bệnh.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít, tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ đạt và các yếu tố liên

quan ở bệnh nhân COPD đang trong giai đoạn ổn định tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2020.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 323 bệnh nhân

COPD đến khám tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 11/2019 đến tháng 7/2020.

Kết quả: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít là 58,8% và 48% thực hành sử dụng dụng cụ đạt. Qua mô hình

đa biến, các yếu tố liên quan với tuân thủ điều trị thuốc hít được xác định trong nghiên cứu: thay đổi loại dụng

cụ thuốc hít (p=0,009), thực hành sử dụng dụng cụ (p=0,012).

Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít tốt và thực hành sử dụng dụng cụ đạt còn thấp. Có mối liên quan

giữa tuân thủ điều trị thuốc hít và thay đổi loại dụng cụ thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ. Thường xuyên

đánh giá mức độ tuân thủ điều trị và thực hành sử dụng thuốc hít ở bệnh nhân COPD nhằm giúp có được quá

trình điều trị tối ưu nhất

pdf 7 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh

Tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 15
TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ THUỐC HÍT VÀ THỰC HÀNH SỬ DỤNG DỤNG CỤ 
Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN 
PHẠM NGỌC THẠCH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Nguyễn Đình Phương1, Ngô Nguyễn Hải Thanh2, Trịnh Thị Hoàng Oanh1 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Không tuân thủ điều trị thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ hít chưa đạt là những vấn đề 
thường gặp ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Điều này có thể dẫn đến thất bại trong việc 
phòng ngừa đợt cấp và đẩy nhanh tốc độ suy giảm chức năng hô hấp. Vì vậy việc khảo sát tỷ lệ tuân thủ điều trị 
thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý và điều trị bệnh. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít, tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ đạt và các yếu tố liên 
quan ở bệnh nhân COPD đang trong giai đoạn ổn định tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch năm 2020. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thực hiện trên 323 bệnh nhân 
COPD đến khám tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Phạm Ngọc Thạch từ tháng 11/2019 đến tháng 7/2020. 
Kết quả: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít là 58,8% và 48% thực hành sử dụng dụng cụ đạt. Qua mô hình 
đa biến, các yếu tố liên quan với tuân thủ điều trị thuốc hít được xác định trong nghiên cứu: thay đổi loại dụng 
cụ thuốc hít (p=0,009), thực hành sử dụng dụng cụ (p=0,012). 
Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít tốt và thực hành sử dụng dụng cụ đạt còn thấp. Có mối liên quan 
giữa tuân thủ điều trị thuốc hít và thay đổi loại dụng cụ thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ. Thường xuyên 
đánh giá mức độ tuân thủ điều trị và thực hành sử dụng thuốc hít ở bệnh nhân COPD nhằm giúp có được quá 
trình điều trị tối ưu nhất. 
Từ khóa: bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, tuân thủ điều trị thuốc hít, sử dụng dụng cụ 
ABSTRACT 
INHALER ADHERENCE AND TECHNIQUE IN PATIENTS OF CHRONIC OBSTRUCTIVE 
PULMONARY DISEASE AT PHAM NGOC THACH HOSPITAL, HO CHI MINH CITY 
Nguyen Dinh Phuong, Ngo Nguyen Hai Thanh, Trinh Thi Hoang Oanh 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 15 - 21 
Background: Non-adherence and using incorrect inhaler technique are common problems in chronic 
obstructive pulmonary disease (COPD) that caused for inefficient preventing acute exacerbation and prompt 
progression of disease. 
Objective: To determine the prevalence of adherence to inhaler, correct inhaler technique as well as 
associated factors in COPD patients at Pham Ngoc Thach hospital in 2020. 
Methods: Patients with stable period of COPD visit the outpatient clinic at Pham Ngoc Thach hospital during 
the period from November 2019 to July 2020. Cross-sectional study, examine in 323 stable COPD patients. 
Results: The percentage of optimal adherence to inhaler accounted for 58.8%; approximately 48% of patients 
correctly used inhaler technique. Associated factors have been found between adherence with change type of 
inhaler (p=0.009) and correct inhaler technique (p=0.012). 
1Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
2Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Đình Phương ĐT: 0792125694 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 16
Conclusions: poor medication adherence and using inhaler technique, sub-optimal patients are associated 
with the incorrect inhaler technique. 
Keywords: COPD, adherence to inhaler, inhaler technique 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Không tuân thủ điều trị thuốc hít ở bệnh 
nhân bệnh phổi tắt nghẽn mãn tính (COPD) là 
tình trạng khá phổ biến ở các quốc gia trên 
toàn cầu với tỷ lệ còn cao, từ 40% đến 60%(1,2,3). 
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy các nguyên 
nhân dẫn đến việc không tuân thủ điều trị 
thuốc hít trên đối tượng COPD chủ yếu như: 
người bệnh quên liều, bỏ liều khi cảm thấy 
khỏe, ngưng thuốc hít vì lo sợ tác dụng phụ và 
thực hành sử dụng dụng cụ không đúng(4,5,6). 
Các kết quả cũng cho thấy thực hành sử dụng 
dụng cụ chưa đạt thường chỉ được phát hiện 
khi bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp của bệnh, 
với tỷ lệ từ 20% đến 40%(7,8). Ngoài ra, một số 
nghiên cứu khác cũng nhận thấy bệnh nhân 
COPD có thực hành sử dụng dụng cụ chưa đạt 
thì thường đi kèm tuân thủ điều trị kém, từ đó 
làm tăng tỷ lệ bỏ điều trị và diễn tiến của bệnh 
ngày càng trầm trọng hơn(9). 
Tại Việt Nam, COPD có tỷ lệ hiện mắc của 
bệnh là 6,7%, cao nhất khu vực Đông Nam Á và 
hơn một nửa số ca đều đã trải qua ít nhất 1 đợt 
cấp của bệnh(10,11). Một nghiên cứu tại bệnh viện 
Bạch Mai trên bệnh nhân vào đợt cấp COPD cho 
kết quả chỉ có 25% đối tượng thực hành đạt và 
30% tuân thủ điều trị thuốc hít tốt. Tuy nhiên, 
nghiên cứu này chỉ khảo sát ở bệnh nhân đang 
có đợt cấp nên chưa thật sự phản ánh hết tỷ lệ 
tuân thủ điều trị thuốc hít và mẫu cũng chưa đại 
diện trong dân số bệnh COPD. Có thể thấy 
nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam còn hạn 
chế. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
nhằm tìm hiểu mức độ tuân thủ sử dụng thuốc 
hít và tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ đạt cũng 
như các yếu tố liên quan trên đối tượng bệnh 
nhân COPD trong giai đoạn ổn định. 
Câu hỏi nghiên cứu: 
(i) Tỷ lệ bệnh nhân COPD tuân thủ điều trị 
thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ đạt là 
bao nhiêu? 
(ii) Các yếu tố nào ảnh hưởng đến tuân thủ 
điều trị thuốc hít? 
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định 
tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ, tuân thủ điều 
trị thuốc hít và các yếu tố liên quan trên bệnh 
nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong giai 
đoạn ổn định đến khám ngoại trú tại bệnh viện 
Phạm Ngọc Thạch năm 2020. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chọn mẫu thuận tiện trên 323 bệnh nhân đã 
được (i) chẩn đoán xác định COPD (chỉ số 
FEV1/FVC sau nghiệm pháp giãn phế quản <0,7) 
đến khám tại phòng khám ngoại trú bệnh viện 
Phạm Ngọc Thạch từ ngày 01/09/2019 – 
31/07/2020. 
Tiêu chuẩn chọn vào 
Bệnh nhân COPD có kết quả chức năng hô 
hấp đã đo với FEV1/FVC <0,7. 
Bệnh nhân COPD đang sử dụng dụng cụ 
thuốc hít như MDI, Breezhaler, Respimat. 
Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân không có khả năng hiểu và trả lời 
câu hỏi như bị câm, điếc hoặc có bệnh lý tâm 
thần kèm theo. 
Bệnh nhân đang ở đợt cấp COPD hoặc trong 
tình trạng khác cần cấp cứu tại thời điểm diễn ra 
nghiên cứu. 
Bệnh nhân được chẩn đoán COPD do di 
chứng của lao phổi. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Phương pháp tiến hành 
Bệnh nhân thỏa các tiêu chí và đồng ý tham 
gia nghiên cứu được thu thập số liệu bằng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 17
phỏng vấn trực tiếp dựa trên bộ câu hỏi có cấu 
trúc soạn sẵn. Nội dụng câu hỏi bao gồm 3 phần 
chính: thông tin về đặc điểm dân số xã hội, đặc 
điểm lâm sàng và bộ câu hỏi về tuân thủ điều trị 
thuốc hít (TAI). Sau đó bệnh nhân được kiểm tra 
kỹ thuật sử dụng dụng cụ bằng bảng đánh giá 
soạn sẵn và được bác sĩ tại phòng khám nhận xét 
kết quả. 
Phân tích số liệu 
Nhập liệu bằng Epidata và xử lý số liệu bằng 
Stata 14. 
Thống kê mô tả: tần số và tần suất được sử 
dụng để mô tả đặc điểm của nhóm nghiên cứu 
(giới, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, hút 
thuốc lá và tình trạng sử dụng rượu bia), đặc 
điểm lâm sàng (thời gian bệnh, số lần vào đợt 
cấp trong 12 tháng qua, mMRC, nhóm nguy cơ, 
giai đoạn bệnh, bệnh kèm theo, sự thay đổi loại 
dụng cụ, loại dụng cụ thuốc hít đang sử dụng). 
Ngoài ra tỷ lệ và khoảng tin cậy 95% được sử 
dụng để mô tả tỷ lệ tuân thủ thuốc hít và thực 
hành sử dụng dụng cụ hít. Số trung bình (SD) 
hoặc trung vị (khoảng tứ vị) được sử dụng để 
mô tả các biến tuổi, số gói thuốc, số lần đợt cấp 
và thời gian bệnh. 
Thống kê phân tích 
Tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR (KTC 95%) được sử 
dụng để ước lượng mối liên hệ giữa các đặc 
điểm nền, đặc điểm lâm sàng với sự tuân thủ 
điều trị thuốc hít thông qua mô hình Poisson 
đơn biến và đa biến với ngưỡng ý nghĩa p=0,05. 
Bộ câu hỏi tuân thủ điều trị thuốc hít 
Nghiên cứu sử dụng phiên bản tiếng Việt 
của TAI để đánh giá mức độ tuân thủ điều trị 
thuốc hít. TAI là bộ câu hỏi đánh giá tuân thủ 
điều trị cho bệnh nhân COPD hoặc Hen thông 
qua phỏng vấn trực tiếp đối tượng(12). Bộ TAI-10 
gồm 10 câu hỏi đầu với tổng điểm trả lời từ 10 
(tối thiểu) đến 50 (tối đa). Bệnh nhân được đánh 
giá mức độ tuân thủ thuốc hít dựa trên điểm số 
theo bảng đánh giá TAI: 
Tổng điểm 10 câu hỏi bằng hoặc nhỏ hơn 45: 
Tuân thủ kém. 
Tổng điểm 10 câu hỏi từ 46 đến 49: Tuân thủ 
trung bình. 
Tổng điểm 10 câu hỏi bằng 50: Tuân thủ tốt. 
Biến số tuân thủ điều trị thuốc hít tốt khi 
bệnh nhân có tổng điểm TAI 10 câu hỏi đầu đạt 
50 điểm. 
Bộ TAI-12 với thêm 2 câu hỏi 11 và 12 trong 
bảng đánh giá TAI được sử dụng để tìm hiểu các 
đối tượng không tuân thủ điều trị thuốc hít. Hai 
câu này được các chuyên gia chăm sóc sức khỏe 
sử dụng, cho điểm từ 1 (hiểu biết chưa tốt về 
điều trị bệnh và/hoặc thực hành sử dụng dụng 
cụ chưa đạt) đến 2 (kiến thức tốt và/hoặc thực 
hành sử dụng dụng cụ đạt), được phân loại như 
sau(2,12): 
Từ câu hỏi 1 đến câu hỏi 5 có tổng điểm nhỏ 
hơn 25: “Không thường xuyên tuân thủ” *. 
Từ câu hỏi 6 đến câu hỏi 10 có tổng điểm 
nhỏ hơn 25: “Cố ý không tuân thủ” **. 
Từ câu hỏi 11 đến câu hỏi 12 có tổng điểm 
nhỏ hơn 4: “Hoàn toàn không tuân thủ” ***. 
*Do quên, thay đổi lịch trình hoặc lối sống 
bận rộn. ** Cố ý ngưng sử dụng thuốc hít. 
*** Thất bại trong việc hiểu được phương 
pháp và hiệu quả của điều trị thuốc hít. 
Thực hành sử dụng dụng cụ 
Thực hành sử dụng dụng cụ đạt khi bệnh 
nhân không mắc tất cả các lỗi nghiêm trọng 
như sau: 
Thở ra hết sức. 
Ngậm kín miệng dụng cụ thuốc hít. 
Ấn bình xịt đồng thời hít vào chậm và kéo 
dài (MDI). 
Hít vào chậm, mạnh và đều đặn 
(Breezhaler). 
Ấn cò đồng thời hít vào chậm và kéo dài 
(Respimat). 
Nín thở khoảng 10 giây sau khi hít thuốc. 
Y đức 
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội 
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học bệnh 
viện Phạm Ngọc Thạch, số 314/HĐĐĐ-PNT, 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 18
ngày 10/3/2020 và Đại học Y Dược TP. HCM số 
83/HĐĐĐ, ngày 16/01/2020. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm thông tin chung của đối tượng 
(n= 323) 
Đặc điểm Tần số % 
Tuổi* 64,6 8,9 
Tuổi nhỏ nhất – lớn nhất** 42 – 90 
Giới 
Nữ 43 13,3 
Nam 280 86,7 
Trình độ học vấn 
Dưới tiểu học 38 11,8 
Tiểu học 99 30,6 
Trung học cơ sở 110 34,1 
≥ Trung học phổ thông 76 23,5 
Nghề nghiệp 
Nội trợ 34 10,5 
Buôn bán 17 5,3 
Nông dân 64 19,8 
Công nhân 15 4,6 
Hưu trí 130 40,3 
Khác 63 19,5 
Hút thuốc lá 
Chưa từng 59 18,3 
Hiện tại có 64 19,8 
Đã cai thuốc lá (≥12 tháng) 200 61,9 
Thuốc lá gói-năm*** 30 20,5 – 43,5 
Sử dụng rượu bia 
Có sử dụng rượu bia 67 20,7 
Không sử dụng rượu bia 256 79,3 
*Trung bình ± độ lệch chuẩn **đơn vị: tuổi 
***Trung vị (khoảng tứ phân vị) 
Nghiên cứu được tiến hành trên 323 bệnh 
nhân kết quả cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nam 
chiếm đa số tới 86,7%, độ tuổi trung bình của 
bệnh nhân COPD là 64,6 ± 8,99 tuổi và có tới 
91,7% bệnh nhân có hút thuốc lá. Tuy nhiên, 
trong số bệnh nhân có hút thuốc lá thì tỷ lệ bệnh 
nhân đã cai thuốc lá cũng tương đối cao (61,9%). 
Số trung vị thuốc lá gói năm là 30, khoảng tứ 
phân vị 20,5 – 43,5. Bên cạnh đó, nghiên cứu 
cũng cho thấy có 20,7% bệnh nhân COPD có sử 
dụng rượu bia trong vòng 1 tháng qua (Bảng 1). 
Thời gian mắc bệnh trung vị của đối tượng 
nghiên cứu là 3 (1-6) năm, kết quả nghiên cứu 
này cũng ghi nhận trung vị số lần đợt cấp xảy ra 
trong vòng 12 tháng qua ở các bệnh nhân COPD 
là 1 (1 – 2) lần. Dựa trên thang điểm mMRC để 
đánh giá triệu chứng khó thở của bệnh nhân 
COPD, đa số bệnh nhân ở mức độ 0 và 1, tỷ lệ 
lần lượt là 31,3% và 36,5%, thấp nhất là mức độ 4 
chỉ 1,5%. Giai đoạn bệnh chủ yếu của đối tượng 
nghiên cứu là GOLD 2 và GOLD 3 (44,9% và 
35,6%). Nghiên cứu cũng tìm thấy có hơn một 
nửa (55,1%) đối tượng tham gia nghiên cứu có 
mắc một bệnh kèm theo, nổi bật bao gồm các 
bệnh như ACO (15,8%) và tăng huyết áp (14,9%), 
đái tháo đường (4,6%) và các bệnh khác như gút, 
thoái hóa khớp, viêm gan B mạn, rối loạn tiền 
đình (7,7%) (Bảng 2). 
Về các loại dụng cụ thuốc hít thì tỷ lệ ở 
những bệnh nhân COPD sử dụng dụng cụ MDI 
chiếm 23,2%, sử dụng dụng cụ Respimat là 26% 
và 50,8% sử dụng dụng cụ Breezhaler. Trong đó, 
có tới gần 58% bệnh nhân đã từng thay đổi loại 
dụng cụ thuốc hít (Bảng 2). 
Bảng 2: Đặc điểm thông tin lâm sàng của đối tượng 
(n= 323) 
Đặc điểm lâm sàng Tần số % 
Thời gian bệnh (năm)* 3,0 1 - 6 
Số lần vào đợt cấp trong 12 tháng qua* 1 1 - 2 
mMRC 
Điểm 0 101 31,3 
Điểm 1 118 36,5 
Điểm 2 37 11,5 
Điểm 3 62 19,2 
Điểm 4 5 1,5 
Nhóm nguy cơ 
Nhóm A 154 47,7 
Nhóm B 39 12,1 
Nhóm C 65 20,1 
Nhóm D 65 20,1 
Giai đoạn bệnh theo GOLD 
GOLD 1 25 7,7 
GOLD 2 145 44,9 
GOLD 3 115 35,6 
GOLD 4 38 11,8 
Bệnh kèm theo 
Không bệnh kèm theo 145 44,9 
ACO** 51 15,8 
Viêm dạ dày tá tràng 30 9,3 
Tăng huyết áp 48 14,9 
Đái tháo đường 15 4,6 
Bệnh khác 34 10,5 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 19
Đặc điểm lâm sàng Tần số % 
Có thay đổi loại dụng cụ thuốc hít 
Có 187 57,9 
Không 136 42,1 
Dụng cụ thuốc hít đang sử dụng 
MDI 75 23,2 
DPI (Breezhaler) 164 50,8 
SMI (Respimat) 84 26,0 
*Trung vị (khoảng tứ phân vị) 
**Hen- Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính chồng lấp (ACO) 
Bảng 3: Tỷ lệ sử dụng đúng kỹ thuật dụng cụ thuốc 
hít và các lỗi nghiêm trọng (n= 323) 
Thực hành sử dụng dụng cụ Tần số % KTC 95% 
Thực hành sử dụng dụng cụ đạt 155 48,0 42,6 – 53,5 
Chưa đạt hoặc mắc ít nhất 1 lỗi 
nghiêm trọng 
168 52,0 46,5 – 57,4 
Các lỗi nghiêm trọng 
MDI 
Tổng cộng chưa đạt 43 57,3 45,7 – 68,2 
Chưa thở ra hết sức 31 41,3 30,6 – 53,0 
Không ngậm kín miệng dụng cụ 15 20,0 12,2 – 30,8 
Phối hợp ấn bình xịt đồng thời 
hít vào chậm và kéo dài chưa 
đúng 
12 16,0 9,2 – 26,4 
Chưa nín thở đủ 10 giây 20 26,7 17,7 – 38,0 
Breezhaler 
Tổng cộng chưa đạt 87 53,1 45,3 – 60,6 
Chưa thở ra hết sức 64 39,0 31,8 – 46,8 
Không ngậm kín miệng dụng cụ 10 6,1 3,3 – 11,0 
Chưa hít vào, chậm, mạnh và 
đều đặn 
15 9,2 5,6 – 14,7 
Chưa nín thở đủ 10 giây 43 26,2 20,0 – 33,6 
Respimat 
Tổng cộng chưa đạt 38 45,2 34,8 – 56,2 
Chưa thở ra hết sức 29 34,5 25,0 – 45,5 
Không ngậm kín miệng dụng cụ 3 4,8 1,8– 12,2 
Chưa ấn cò đồng thời hít vào 
chậm và kéo dài 
2 2,4 0,6 – 9,3 
Chưa nín thở đủ 10 giây 13 15,5 9,1 – 25,1 
Trên tổng 3 loại dụng cụ nghiên cứu khảo sát 
(MDI, Breezhaler và Respimat), có 48% bệnh 
nhân thực hành thực hành sử dụng dụng cụ đạt. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trong 3 loại 
dụng cụ MDI, Breezhaler và Respimat thì đối 
tượng sử dụng dụng cụ MDI thường mắc lỗi 
nghiêm trọng nhất, với tỷ lệ đến 57,3%, tiếp theo 
là Breezhaler với 53,1%, thấp nhất là đối tượng 
sử dụng Respimat với 45,2%. Đối với cả ba loại 
dụng cụ thuốc hít, nghiên cứu cũng tìm ra bước 
thực hành thường mắc lỗi nhất là “chưa thở ra 
hết sức”, tỷ lệ 41,3% đối với MDI, 39% đối với 
Breezhaler và thấp nhất là Respimat, với 34,5%. 
Tuy nhiên, ở các bước riêng biệt cho từng loại 
dụng cụ như “phối hợp ấn bình xịt đồng thời hít 
vào chậm và kéo dài chưa đúng” với dụng cụ 
MDI, “chưa hít vào chậm, mạnh và dều đặn” 
của dụng cụ Breezhaler và “chưa ấn cò đồng 
thời hít vào chậm và kéo dài” của dụng cụ 
Respimat đều có tỷ lệ dưới 20% (Bảng 3). 
Bảng 4: Mức độ tuân thủ điều trị thuốc hít theo TAI 
(n= 323) 
Tuân Thủ Điều Trị Thuốc Hít Tần số % KTC 95% 
TAI-10 
Tuân thủ kém (≤45 điểm) 68 21,1 16,9 – 25,9 
Tuân thủ trung bình (46-49 điểm) 65 20,1 16,1 – 24,9 
Tuân thủ tốt (=50 điểm) 190 58,8 53,3 – 64,1 
TAI-12 
Câu 1-
5 
Không thường xuyên 
tuân thủ (<25 điểm) 
118 36,5 31,4 – 42,0 
Tuân thủ thường xuyên 
(=25 điểm) 
205 63,5 58,0 – 68,6 
Câu 6-
10 
Cố ý không tuân thủ (<25 
điểm) 
80 24,8 20,3 – 29,8 
Không cố ý (=25 điểm) 243 75,2 70,2 – 79,7 
Câu 
11-12 
Hoàn toàn không tuân 
thủ (<4 điểm) 
176 54,5 49,0 – 59,9 
Có tuân thủ (=4 điểm) 147 45,5 40,1 – 51,0 
Dựa vào bộ câu hỏi TAI, tỷ lệ “không 
thường xuyên tuân thủ”, “cố ý không tuân thủ” 
và “hoàn toàn không tuân thủ” trong nhóm 
không tuân thủ điều trị thuốc hít lần lượt là 
36,5%, 24,8% và 54,5%. Ngược lại, tỷ lệ bệnh 
nhân có tuân thủ điều trị thuốc hít tốt là 58,8% 
(Bảng 4). 
BÀN LUẬN 
Tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ đạt 
Với tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ đạt 
chiếm gần một nửa (48%), kết quả trong 
nghiên cứu thấp hơn các kết quả tại Brazil 
(70%), Hà Lan (76%)(13,14). Tuy nhiên, kết quả 
này lại cao hơn các nghiên cứu khác tại khu 
vực Châu Á như Ấn Độ (18%), Ả Rập Saudi 
(30%) và Thái Lan (26%)(8,15,16). Tại Việt Nam, 
kết quả thực hành kỹ thuật thuốc hít đạt này 
cao hơn nghiên cứu tại bệnh viện Bạch Mai 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 20
(25%)(17). Điều này được giải thích là do nghiên 
cứu của các tác giả Châu Á hầu hết đều chọn 
đối tượng là bệnh nhân nhập viện do đợt cấp 
của bệnh nên tỷ lệ thực hành sử dụng dụng cụ 
đạt thấp hơn nghiên cứu chọn đối tượng là 
bệnh nhân COPD trong giai đoạn ổn định đến 
khám và điều trị bệnh ngoại trú. 
Tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít 
Nghiên cứu này tìm thấy tỷ lệ tuân thủ điều 
trị thuốc hít tốt chiếm hơn một nửa mẫu (58,8%). 
Điều này phù hợp đáng kể so với các nghiên cứu 
trước về tuân thủ điều trị thuốc hít mức độ tốt. 
Cụ thể, một nghiên cứu tại 7 nước khu vực Nam 
Mỹ cũng cho thấy mức độ tuân thủ điều trị tốt ở 
đối tượng COPD gần 55%. Tại Hungary, kết quả 
cũng cho tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít ở 
khoảng 58%(1). Tuy nhiên, kết quả này lại cho tỷ 
lệ cao hơn hai nghiên cứu tại Úc và bệnh viện 
Bạch Mai về mức độ tuân thủ điều trị tốt (42% và 
30%)(3,17). Sự khác biệt của tỷ lệ tuân thủ điều trị 
thuốc hít chủ yếu là do 2 nghiên cứu trên chọn 
đối tượng bệnh nhân COPD nhập viện vì đợt 
cấp, các nghiên cứu còn lại thực hiện trên bệnh 
nhân COPD tại cộng đồng và tại phòng khám 
ngoại trú. 
Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị 
thuốc hít và thực hành sử dụng dụng cụ theo 
mô hình hồi quy đa biến 
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị 
thuốc hít bằng mô hình hồi quy đa biến 
Đặc tính P PR KTC 95% 
Có thay đổi loại dụng cụ thuốc hít 0,009 0,78 0,65 – 0,94 
Thực hành sử dụng dụng cụ đạt 0,012 1,27 1,05 – 1,53 
 Sau khi đã phân tích hồi quy đa biến, nghiên 
cứu của chúng tôi tìm thấy có 2 yếu tố có mối 
liên quan đến tuân thủ điều trị thuốc hít là thay 
đổi loại dụng cụ thuốc hít và thực hành sử dụng 
dụng cụ (Bảng 5). 
Những bệnh nhân có sự thay đổi dụng cụ 
thuốc hít có tỷ lệ về tuân thủ điều trị thuốc hít 
thấp hơn 0,22 lần so với nhóm chỉ sử dụng 1 loại 
dụng cụ thuốc hít từ trước đến nay, khác biệt 
này có ý nghĩa thống kê (p=0,009). Có thể 
nguyên nhân chính là do từ đầu bệnh nhân 
không được dùng đúng loại dụng cụ mà họ có 
kỹ thuật tốt nhất. Điều này làm bệnh nhân gặp 
khó khăn trong sử dụng dụng cụ thuốc hít hằng 
ngày hoặc sử dụng không hiệu quả, từ đó những 
bệnh nhân này sẽ bỏ thuốc. 
Bên cạnh đó, những bệnh nhân có thực 
hành sử dụng dụng cụ đạt thì có tỷ số tỷ lệ 
hiện mắc về tuân thủ điều trị thuốc hít cao hơn 
và gấp 1,27 lần so với nhóm có thực hành sử 
dụng dụng cụ chưa đạt (p=0,012). Điều này là 
hợp lý vì ở nhóm đối tượng tuân thủ điều trị 
thuốc hít tốt thường sẽ đi kèm với thực hành 
sử dụng dụng cụ của họ đạt giúp họ cải thiện 
triệu chứng và duy trì hiệu quả trong việc điều 
trị bệnh và phòng ngừa đợt cấp. 
Nghiên cứu này vẫn tồn tại một số hạn chế 
nhất định như thiết kế nghiên cứu là cắt ngang 
nên chưa thể chưa đánh giá được mối quan hệ 
nhân quả giữa các yếu tố liên quan với mức độ 
tuân thủ điều trị thuốc hít. Phương pháp chọn 
mẫu thuận tiện trong nghiên cứu này có thể làm 
hạn chế tính đại diện của mẫu. Nghiên cứu có 
thể có sai lệch hồi tưởng trong việc nhớ lại số lần 
vào đợt cấp của bệnh nhân trong 12 tháng qua. 
KẾT LUẬN 
Bằng việc sử dụng bộ câu hỏi TAI để đánh 
giá mức độ tuân thủ điều trị thuốc hít ở bệnh 
nhân COPD giai đoạn ổn định, nghiên cứu đã 
tìm thấy tỷ lệ tuân thủ điều trị thuốc hít là tương 
đối cao, chiếm 58,8% và tỷ lệ thực hành sử dụng 
dụng cụ đạt chiếm 48%. 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
tuân thủ điều trị thuốc hít với sự thay đổi loại 
dụng cụ thuốc hít và thực hành sử dụng dụng 
cụ. Đối với những bệnh nhân COPD có thay đổi 
dụng cụ thuốc hít trước đó có tỷ lệ về tuân thủ 
điều trị thuốc hít thấp hơn 22% so với những 
bệnh nhân COPD chỉ sử dụng 1 loại dụng cụ 
thuốc hít từ trước đến nay (p=0,009). Bên cạnh 
đó, đối tượng có thực hành sử dụng dụng cụ đạt 
có tỷ lệ về tuân thủ điều trị thuốc hít cao hơn và 
gấp 1,27 lần so với những đối tượng có thực 
hành sử dụng dụng cụ chưa đạt (p=0,012). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 25 * Số 2 * 2021 
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agh T, Inotai A, Meszaros A (2011). Factors associated with 
medication adherence in patients with chronic obstructive 
pulmonary disease. Respiration, 82(4):328-34. 
2. Plaza V, Giner J, Curto E, Alonso Ortiz MB (2019). Assessing 
Adherence by Combining the Test of Adherence to Inhalers 
with Pharmacy Refill Records. J Investig Allergol Clin Immunol, 
doi:10.18176/jiaci.0461. 
3. Sriram KB, Percival M (2016). Suboptimal inhaler medication 
adherence and incorrect technique are common among chronic 
obstructive pulmonary disease patients. Chron Respir Dis, 
13(1):13-22. 
4. Molimard M, Colthorpe P (2015). Inhaler devices for chronic 
obstructive pulmonary disease: insights from patients and 
healthcare practitioners. J Aerosol Med Pulm Drug Deliv, 
28(3):219-28. 
5. Price D, Keininger DL, Viswanad B (2018). Factors associated 
with appropriate inhaler use in patients with COPD - lessons 
from the REAL survey. Int J Chron Obstruct Pulmon Dis, 
13(1):695-702. 
6. Yawn BP, Colice GL, Hodde R (2012). Practical aspects of 
inhaler use in the management of chronic obstructive 
pulmonary disease in the primary care setting. Int J Chron 
Obstruct Pulmon Dis, 7(1):495-502. 
7. Batterink J, Dahri K, Aulakh A, Rempel C (2012). Evaluation of 
the use of inhaled medications by hospital inpatients with 
chronic obstructive pulmonary disease. Can J Hosp Pharm, 
65(2):111-8. 
8. Pothirat C, Chaiwong W, Phetsuk N (2015). Evaluating inhaler 
use technique in COPD patients. Int J Chron Obstruct Pulmon 
Dis, 10(1):291-8. 
9. Aydemir Y (2015). Assessment of the factors affecting the 
failure to use inhaler devices before and after training. Respir 
Med, 109(4):451-8. 
10. Lim S, Lam DC, Muttalif AR (2015). Impact of chronic 
obstructive pulmonary disease (COPD) in the Asia-Pacific 
region: the EPIC Asia population-based survey. Asia Pac Fam 
Med, 14(1):4. 
11. Regional COPD Working Group (2003). COPD prevalence in 
12 Asia–Pacific countries and regions: Projections based on the 
COPD prevalence estimation model. Respirology, 8(2):192-198. 
12. Plaza V, Fernandez-Rodriguez C, Melero C (2016). Validation 
of the 'Test of the Adherence to Inhalers' (TAI) for Asthma and 
COPD Patients. J Aerosol Med Pulm Drug Deliv, 29(2):142-52. 
13. Hesselink AE, Penninx BW (2001). Determinants of an 
incorrect inhalation technique in patients with asthma or 
COPD. Scand J Prim Health Care, 19(4):255-60. 
14. Dalcin P, Maltz GD, Paganella LP (2014). Factors related to the 
incorrect use of inhalers by asthma patients. J Jornal Brasileiro de 
Pneumologia, 40(1):13-20. 
15. Al Ammari M, Sultana K, Yunus F, Al Ghobain M, Al Halwan 
SM (2016). A cross-sectional observational study to assess 
inhaler technique in Saudi hospitalized patients with asthma 
and chronic obstructive pulmonary disease. Saudi Med J, 
37(5):570-4. 
16. Press VG, Arora VM, Trela KC (2016). Effectiveness of 
Interventions to Teach Metered-Dose and Diskus Inhaler 
Techniques. A Randomized Trial. Ann Am Thorac Soc, 
13(6):816-24. 
17. Chau Quy Ngo, Dung Minh Phan, Giap Van Vu, et al (2019). 
Inhaler Technique and Adherence to Inhaled Medications 
among Patients with Acute Exacerbation of Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease in Vietnam. Int J Environ Res 
Public Health, 16(2):185. 
18. Montes de Oca M, Menezes A, Wehrmeister FC (2017). 
Adherence to inhaled therapies of COPD patients from seven 
Latin American countries: The LASSYC study. PLoS One, 
12(11):e0186777. 
Ngày nhận bài báo: 16/11/2020 
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021 

File đính kèm:

  • pdftuan_thu_dieu_tri_thuoc_hit_va_thuc_hanh_su_dung_dung_cu_o_b.pdf