Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm-Những nguyên lý của triết học tương lai và ý nghĩa của nó

Triết học Ludwig Feuerbach là một sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới,

hình thành vào cuối những năm 30 – những năm đầu thế kỷ XIX. Đánh giá về

nhiệm vụ của triết học mới, L. Feuerbach cho rằng hiệm vụ ủ ỷ ng n

hiện đ i hiện thự h v nh n đ o h h – ự h n đ i v n ủ

 hần họ v o nh n o i họ . inh hần trong tác phẩm Những nguyên lý của triết

học tương lai (1843) đời dựa trên những mong muốn đ . á phẩm là sự

đánh dấu những chuy n đ i ư ưởng trong nhận thức của L. Feuerbach về giá

trị on người – tự do, h nh phúc, khát vọng đượ hương v n ọng trong

một xã hội òn đầy rẫy bất công t i Đứ đương hời

pdf 12 trang phuongnguyen 8740
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm-Những nguyên lý của triết học tương lai và ý nghĩa của nó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach trong tác phẩm-Những nguyên lý của triết học tương lai và ý nghĩa của nó

Tư tưởng cải cách triết học của Ludwig Feuerbach  trong tác phẩm-Những nguyên lý của triết học tương lai và ý nghĩa của nó
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
11 
TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
CỦA LUDWIG FEUERBACH TRONG TÁC PHẨM - 
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC TƯƠNG LAI 
VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ* 
Triết học Ludwig Feuerbach là một sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, 
hình thành vào cuối những năm 30 – những năm đầu thế kỷ XIX. Đánh giá về 
nhiệm vụ của triết học mới, L. Feuerbach cho rằng hiệm vụ ủ ỷ ng n 
hiện đ i hiện thự h v nh n đ o h h – ự h n đ i v n ủ 
 hần họ v o nh n o i họ . inh hần trong tác phẩm Những nguyên lý của triết 
học tương lai (1843) đời dựa trên những mong muốn đ . á phẩm là sự 
đánh dấu những chuy n đ i ư ưởng trong nhận thức của L. Feuerbach về giá 
trị on người – tự do, h nh phúc, khát vọng đượ hương v n ọng trong 
một xã hội òn đầy rẫy bất công t i Đứ đương hời. 
Từ khóa: cải cách triết học, Ludwig Feuerbach, tư tưởng, ý nghĩa, Những nguyên lý 
của triết họ ương lai 
Nhận bài ngày: 15/11/2019; đư v o bi n ập: 19/11/2019; phản biện: 7/12/2019; 
duyệ đăng: 10/2/2020 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cuối những năm 30 – đầu những năm 
40 của thế kỷ XIX, tại Đức, các cuộc 
đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư 
sản và lực lượng phong kiến ngày 
càng lên cao. Tình trạng chia cắt đất 
nước đã cản trở sự phát triển của 
công nghiệp và thương nghiệp. Bên 
cạnh đó, giai cấp tư sản bấy giờ đứng 
trước hai lực lượng mà họ cho là đều 
đáng ngại như nhau – lực lượng của 
“quá khứ” và lực lượng của “tương lai”. 
Trong bối cảnh này tầng lớp tư sản 
trung lưu chọn giải pháp dung hòa với 
chế độ quân chủ - né tránh sự va 
chạm trực tiếp với chế độ hiện hành 
bằng việc phê phán triết học Kitô giáo 
chính thống; một bộ phận khác theo 
khuynh hướng dân chủ tư sản lại 
muốn đưa nước Đức thoát khỏi tình 
trạng hiện có. Trong số những đại 
biểu tiêu biểu của khuynh hướng dân 
chủ tư sản nổi bật là Ludwig 
Feuerbach (L. Feuerbach). Triết học L. 
Feuerbach không nằm ngoài dòng 
chảy của triết học cổ điển Đức được 
hình thành vào cuối những năm 30 – 
đầu những năm 40 của thế kỷ XIX. 
Tác phẩm Những nguyên lý của triết 
họ ương lai được L. Feuerbach viết 
và hoàn chỉnh vào năm 1843, tác 
phẩm là sự tiếp nối của ông trong việc 
phê phán Cơ Đốc giáo và nền chuyên 
* 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
12 
chính tinh thần kết hợp với chế độ 
quân chủ Phổ làm mất tự do, cả tự do 
về tinh thần của con người. 
Tác phẩm Những nguyên lý của triết 
họ ương i (tiếng Đức: Grundsätze 
der Philosophie der Zukunft; tiếng Anh: 
Principles of Philosophy of the Future) 
gồm 65 nguyên lý được chia thành ba 
phần: phần mở đầu đối chiếu, đánh 
giá các học thuyết duy tâm cận đại, 
bởi lẽ, ông muốn trên cơ sở đó giải 
thích ý nghĩa học thuyết của mình như 
bước tiến mới của văn hóa Châu Âu; 
phần thứ hai, trên cơ sở kế thừa có 
phê phán triết học tư biện – hệ thống 
triết học Hegel và chỉ ra những điểm 
hạn chế trong tư tưởng của người 
thầy, L. Feuerbach đi đến quan điểm 
nhân văn, đồng thời muốn cải cách 
triết học mới; phần ba xác nhận hệ 
thống khái niệm mới như: tư tưởng 
nhân văn, nhân bản, chủ nghĩa tự 
nhiên, chủ nghĩa thực nghiệm với 
những đặc trưng của triết học mới để 
giải phóng con người thoát khỏi triết 
học duy tâm tư biện và thần học Kitô 
giáo, mang đến cho con người một 
không gian sống hạnh phúc, tự do 
trong cả đời sống hiện thực lẫn trong 
tư duy. 
2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH 
TRIẾT HỌC CỦA L. FEUERBACH 
TRONG TÁC PHẨM NHỮNG NGUYÊN 
LÝ CỦA TRIẾT HỌC TƯƠNG LAI 
2.1. Tư tưởng của L. Feuerbach về 
tôn giáo 
Trong nội dung này, L. Feuerbach chủ 
yếu tập trung phân tích những khái 
niệm của các thuộc tính tôn giáo như: 
thuyết hữu thần, vô thần, chủ thể và 
khách thể, triết học tư biện, nền tảng 
của chủ nghĩa duy vật cũng như sự 
“thai nghén” của nền triết học mới. 
Trong nội dung đề cập đến tôn giáo, L. 
Feuerbach chỉ rõ cả hai đều là tín đồ 
của Cơ Đốc giáo, mặc dù về hình 
thức họ khác nhau. Giáo phái Tin 
Lành thừa nhận Chúa chỉ là một con 
người. L. Feuerbach (2015: 7) mô tả 
về Chúa: “Ngài là sự sống của đấng 
tối cao hay sự sống đó sẽ trở thành 
đối tượng cho loài người trên thiên 
đàng kia”. Trong khi Chúa của Thiên 
Chúa giáo hoàn toàn trái ngược; 
Thiên Chúa giáo tách Thượng đế của 
họ ra khỏi đời sống của loài người, 
hình thành nên một lý thuyết tư biện, 
tạo cho ngài một “vỏ bọc” đầy phép 
màu và bí ẩn đối với con người và xã 
hội trần tục, xa lánh hiện thực và chối 
bỏ những bất công, mâu thuẫn trong 
cuộc sống của con người, hình ảnh 
của Chúa hơn cả những gì tưởng 
tượng, vượt qua cả lý thuyết thông 
thường, tôn kính Chúa “giống như một 
sự sống riêng biệt từ lý trí” (L. 
Feuerbach, 2015: 8). Dựa trên những 
phân tích của mình, ông cho rằng, nếu 
chủ nghĩa duy lý biến mất hoặc lý 
thuyết về thần học tan rã thì con 
người có xu hướng nhận thức về 
Chúa không giống như một khách thể 
mà chỉ là một điều bí ẩn, vượt lên trên 
tự nhiên, đó là lý thuyết của triết học 
tư biện, không phải triết học. Như vậy, 
xét về bản chất, cả hai giáo phái đều 
tôn sùng một đối tượng siêu tự nhiên, 
vượt xa những khả năng của con 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
13 
người. Cùng quan điểm như khi nhận 
định về đạo Cơ Đốc giáo, L. Feuerbach 
cho rằng, Chúa thì không có ý nghĩa 
gì cả nhưng Chúa chính là bản chất lý 
trí của thuyết hữu thần. Con người 
trong xã hội chưa phát triển đã “sáng 
tạo” ra thần của họ bằng cách xây 
dựng những tính cách cho Chúa và tư 
duy về sự thần thánh của họ. 
Trạng thái tôn sùng lực lượng siêu 
nhiên, theo L. Feuerbach cũng là một 
trạng thái tinh thần, thần linh - một đối 
tượng trừu tượng, vô biên, không xác 
định và không nhận thức rõ. L. 
Feuerbach cũng chỉ ra rằng, giống 
như bản chất của lý trí, thần thánh chỉ 
là một dạng của duy lý, triết học tư 
biện vì thế “cũng cần được nghỉ ngơi”, 
cần được thay thế bởi một hệ thống 
triết học khác hoàn bị hơn. Bản chất 
của thần thánh là bản chất phi lý tính, 
ý thức ở trạng thái tinh thần, Chúa 
được hiểu là sự thông thái không xác 
định của các giác quan, một sự tưởng 
tượng thể hiện trong năng lực của lý 
trí. Ngay khi nói về đối tượng của 
nhận thức, L. Feuerbach (2015: 8) nói 
rõ “Chúa là sự sống không giới hạn 
hoặc không có bất cứ giới hạn nào” 
Chúa không phải là đối tượng tồn tại 
một cách rõ ràng trong đời sống hiện 
thực, sự sống của Chúa nằm ngoài sự 
tồn tại của con người, mà sự tồn tại 
đó không bao gồm triết học, sự sống 
dành cho một đấng tối cao ở trên 
thiên đàng. Nơi đó chỉ tồn tại trong 
duy lý, không thực, đó là tôn giáo, triết 
học tư biện. Để minh chứng cho 
những nhận định của mình, L. 
Feuerbach nhấn mạnh, con người có 
thể nhận thức thuyết hữu thần bằng lý 
trí hay bằng chính giác quan của họ, 
Chúa có tồn tại hay không đều không 
ảnh hưởng gì đến cuộc sống của con 
người, nhưng sự tưởng tượng về 
đấng tối cao làm cho ngài vượt lên 
trên con người. Và trong thực tế, ngài 
tồn tại từ một thực thể riêng biệt, độc 
lập hoàn toàn với lý trí. Tinh thần, một 
trạng thái bên trong của con người, 
một giác quan, là khả năng của con 
người nhưng thuyết hữu thần thì cho 
rằng nó là một sự tưởng tượng, “ 
bản chất thần thánh là bản chất của lý 
trí hay sự thông thái dối trá trong sự 
thật là sự á nhận h năng ự ủ 
 h , theo như họ thì h ự 
 h ng hái và không định nghĩa của 
các giác quan hoặc sự tưởng tượng là 
năng ự ủ ” (L. Feuerbach, 
2015: 5). Như vậy, những người theo 
thuyết hữu thần đã gián tiếp xác nhận 
rằng, năng lực tư duy, khả năng nhận 
thức, hay cụ thể đó là lý trí chỉ là sự 
tưởng tượng, tồn tại tách biệt một cơ 
thể sống. Và, nếu Chúa tồn tại như 
một sinh thể bình thường thì Chúa 
phải có lý trí, có giác quan như bao 
nhiêu sinh thể bình thường khác. 
Nhưng theo L. Feuerbach, Chúa 
không có một cuộc sống như những 
sinh thể bình thường khác, Chúa tồn 
tại vượt lên trên cuộc sống bình 
thường của “loài”. Lý trí, nhận thức 
của con người luôn bị giới hạn bởi sự 
phát triển của khoa học và cuộc sống. 
Trong thực tế, sự sống của con người 
có giới hạn về mặt không gian và thời 
gian, con người không thể tồn tại 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
14 
trong thời gian và không gian không 
xác định. Nhưng, trong tác phẩm Bản 
chất Kitô giáo, L. Feuerbach (2012: 8) 
chỉ rõ, theo Chúa thì “Lý trí, theo Chúa 
quan niệm là sự sống không giới hạn, 
hiểu biết vô tận của chính nó trong 
Thiên Chúa”. Bản thân thuyết hữu 
thần được xây dựng trên những lập 
luận đầy mâu thuẫn. Một mặt, họ cho 
rằng Chúa tồn tại vĩnh viễn, vô điều 
kiện và tồn tại xuyên qua chính bản 
thân nó. Mặt khác, họ lại tuyên bố 
Chúa có sự sống và tồn tại như một 
bản thể, có thể là một tư duy sống, 
cũng có thể là một điều xấu xa; và 
Chúa là một khách thể sống thì tồn tại 
bên ngoài giác quan, không phụ thuộc 
vào giác quan. Điều này đã tác động 
đến tư duy của L. Feuerbach, ông cho 
rằng: con người không thể tồn tại nếu 
tách khỏi tự nhiên, bởi một lẽ giản 
đơn là “Tôi không thể hiểu sự sống 
mà không có không khí, hoặc là nhìn 
thấy sự sống mà không có ánh sáng” 
(L. Feuerbach, 2015: 10). Theo ông, 
cuộc sống của con người cần có sự 
tác động qua lại giữa họ với tự nhiên, 
họ không thể tồn tại bên ngoài tự 
nhiên mà không cần những điều cơ 
bản như không khí để thở, ánh sáng 
để nhìn và nguồn thức ăn để duy trì 
sự trao đổi chất trong cơ thể. 
Trong quan điểm về thuyết thần học 
và triết học tư biện, L. Feuerbach đã 
chỉ ra sự giống nhau là thuyết thần 
học “xoay quanh quan điểm của con 
người đi vào quan điểm của Chúa”, 
đồng thời, lý thuyết của triết học tư 
biện xoay quanh quan điểm của Chúa 
đi vào quan điểm của con người. 
Theo cách diễn đạt của L. Feuerbach, 
lý thuyết tư biện của thuyết thần học 
chỉ xoay quanh quan điểm của Chúa, 
từ đó diễn đạt lại thành quan điểm của 
con người, con người chỉ có thể có 
nhận thức khi đã được Chúa “gạn lọc” 
qua nhận thức của Chúa mà không có 
tư duy của riêng mình. Còn theo triết 
học tư biện, Chúa đã nỗ lực để trở 
thành người nhưng không phải là con 
người bình thường với những cảm 
xúc đời thường mà là một con người 
siêu nhiên, phi thực tế, một con người 
trừu tượng khó lý giải, Chúa vượt qua 
mọi giới hạn của sự sống, “là ranh 
giới của sự tưởng tượng, không cụ 
thể, mù mịt và tách biệt” (L. 
Feuerbach, 2012: 13). Và câu hỏi mà 
L. Feuerbach đặt ra: nếu Chúa của 
thuyết thần học hay lý thuyết tư biện 
tạo ra mọi vật theo yêu cầu và tiêu 
chuẩn cho phép thì sự thông minh, 
bản chất của Chúa có khác gì con 
người không, và như vậy, giữa sự 
thông minh của Chúa và toán học của 
con người có sự thần bí không, cái 
nào cụ thể và cái nào thần bí hơn. Đó 
là những nhận định sắc sảo ban đầu 
của L. Feuerbach khi chỉ ra cái vỏ 
ngụy tạo của triết học tư biện và 
thuyết thần học là tương đồng, và 
không khác gì hơn khi chính những 
nhận thức đó làm giảm đi khả năng 
nhận thức của con người về họ và về 
thế giới xung quanh họ. 
Theo L. Feuerbach xét đến cùng, thần 
học là nhân học, vì nó tìm hiểu cái mà 
con người suy tôn thành đấng sáng 
thế, hơn nữa thông qua đó con người 
suy tôn chính mình. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
15 
2.2. Tư tưởng của L. Feuerbach về 
triết học tư biện của G.W.F. Hegel 
Đánh giá sự đóng góp của Hegel cho 
nền triết học Đức, L. Feuerbach nhấn 
mạnh triết học Hegel như sự kết thúc 
của nền triết học hiện thời, đỉnh cao 
của triết học hiện đại, nên ông gắn kết 
tính tất yếu và sự luận chứng cho học 
thuyết duy vật của mình với việc phê 
phán học thuyết duy tâm của Hegel. 
Một trong những nội dung đầu tiên 
của triết học mới, hay triết học cải 
cách, là vạch ra những hạn chế của 
triết học tư biện - tức triết học Hegel, 
để từ đó xác lập những nguyên tắc 
của triết học dấn thân, hướng đến con 
người và cơ sở tự nhiên của tồn tại 
người. Triết học dấn thân đó phải tập 
hợp, liên kết tất cả những gì tốt đẹp 
trong quá khứ, tạo nên sức mạnh thu 
hút con người, vạch cho họ một con 
đường vươn tới “vương quốc của con 
người”, nơi mà con người không còn 
bị ám ảnh bởi những xiềng xích vô 
hình và hữu hình. Tuy nhiên, triết học 
của Hegel cũng là sự mâu thuẫn của 
thuyết phiếm thần từ quan điểm thần 
học hoặc lặp lại chính thuyết thần học. 
Hegel khẳng định, trong triết học hiện 
đại, vật chất vô hình, như một khách 
thể thuần khiết của trí tuệ, một sự tồn 
tại tuyệt đối không gì khác hơn là 
Chúa, là Thượng đế. Khi nói về sự 
giải thoát, theo các nhà thần học đã 
gán cho thần linh niềm hạnh phúc, 
đức hạnh của con người. Hegel biến 
hoạt động của chủ thể có nhận thức 
thành hoạt động của thần linh, phép 
màu. Và như thế, Chúa cũng được 
Hegel xem như một chủ thể có được 
tự do tuyệt đối từ vật chất. Bằng cách 
đó – vật chất không phải là sự tương 
phản với cái tôi và linh hồn – vật chất 
mâu thuẫn với linh hồn. Tuy nhiên, 
Hegel cũng đưa ra những nguyên lý 
trái ngược là, chính vật chất ấn định sự 
tồn tại không thực tế, với những điều 
hư vô, là di chuyển vật chất và giải 
phóng sự duy cảm từ chính nó, nghĩa 
là tồn tại chỉ được hiểu là đức tin. Bản 
thể, vật chất và giác quan là những 
yếu tố của tồn tại nhưng được Hegel 
nhận định là những yếu tố siêu giác 
quan. Giác quan và lý trí là hai yếu tố 
tách rời nhau, “phi bản ngã trong bản 
ngã” (L. Feuerbach, 2015: 36). 
Theo L. Feuerbach (2015: 37), vật 
chất là một thuộc tính của tồn tại, chứ 
không phải thuộc tính của Chúa, cái 
mà trong hầu hết nguyên lý cơ bản 
của triết học Hegel là vượt qua những 
nguyên lý, những nguyên tắc và kết 
luận triết lý tôn giáo của Hegel với sự 
tác động của triết học này, thần học bị 
bãi bỏ, chỉ khôi phục sự phủ định của 
thuyết duy lý, “Bí mật của phép biện 
chứng là sự dối trá, đó là nó phủ định 
thần học xuyên qua triết học để mà 
sau đó phủ nhận triết học xuyên qua 
thần học”. L. Feuerbach chỉ ra rằng, 
triết học mới mà Hegel dày công tìm 
kiếm chỉ là sự “lặp lại thần học”. Hegel 
đồng nhất giữa linh hồn và vật chất, 
vô hạn và hữu hạn, thuyết hữu thần 
và loài người để tiến gần với siêu hình 
học. Vì siêu hình học mang tính hai 
mặt, sự thừa nhận niềm tin và không 
niềm tin, thần học và triết học, tôn 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
16 
giáo và vô thần Hegel thừa nhận 
Chúa, nhưng lại xem chủ nghĩa vô 
thần là một thời khắc trong quá trình 
đó, Hegel hiểu Thiên Chúa xây dựng 
lại từ chính mình, là một Thiên Chúa 
thật sự hay đúng hơn là một người tự 
mâu thuẫn, một vị thần nhưng vô thần. 
Suy cho cùng, về mặt nhận thức luận, 
triết học của Hegel là nỗ lực cuối cùng 
để khôi phục Kitô giáo thông qua lý lẽ 
của triết học, vì chính Hegel xem chủ 
nghĩa vô thần là một khoảnh khắc 
trong quá trình tồn tại của Chúa, gián 
tiếp thừa nhận sự tồn tại của Chúa. 
Phê phán Hegel trong quan niệm về 
quan hệ giữa tư duy và tồn tại, L. 
Feuerbach viết: “Triết học Hegel 
khôn ... uerbach trước hết thể hiện 
giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ 
bản của triết học, thoát khỏi những 
luận điểm sai lầm của chủ nghĩa duy 
tâm, đồng thời đem đến cách hiểu 
mới về con người, khác với chủ nghĩa 
duy vật thế kỷ XVII - XVIII, khi công 
thức “con người – cỗ máy” trở thành 
điểm nhấn trong nhân sinh quan của 
R. Descartes, T. Hobbes, La Mettrie... 
L. Feuerbach (2015: 60) chứng minh 
rằng, triết học mới “chỗ đứng của nó 
mang tính duy lý, bản ngã, ý thức 
trong tâm trí họ được hiểu một cách 
đơn giản hoặc trong Chúa, nó cao 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
18 
nhất và cuối cùng của cả nền triết học 
kinh viện”. 
Học thuyết triết học về con người căn 
cứ vào chất liệu của các khoa học 
khác nhau để hình thành cách tiếp cận 
phù hợp, giải thích xác đáng cái căn 
bản nhất trong quan hệ giữa người với 
người, khác hoàn toàn với lối giải thích 
tư biện và thần bí về cái gọi là chiều 
sâu tâm hồn con người. Tư tưởng 
nhân văn của L. Feuerbach gắn kết 
hữu cơ với khoa học tự nhiên, thậm 
chí ông còn xem thuyết nhân bản như 
đỉnh cao của khoa học tự nhiên. Khoa 
học triết học mới theo L. Feuerbach 
thoát khỏi cách tiếp cận tư biện, cố 
gắng lý giải mối quan hệ liên tục giữa 
tư duy với các quá trình vật chất được 
thực hiện trong cơ thể con người, với 
tri giác cảm tính. Đối với L. Feuerbach, 
sự tồn tại là một nhận thức, cảm xúc 
và tình yêu. Ông chỉ ra, bản thân 
Thiên Chúa Kitô cũng chỉ là một sự 
trừu tượng từ tình yêu của con người. 
2.3.2. Yêu thương và quý trọng con 
người 
Thế nào là triết học mới? Theo L. 
Feuerbach, triết học mới phải khác về 
căn bản với triết học cũ bằng việc 
đem đến câu trả lời hoàn bị về bản 
chất chân chính, hiện thực và toàn 
diện về con người, đối lập với quan 
điểm của tôn giáo và triết học tư biện, 
là quan niệm phi nhân, siêu tự nhiên 
về con người. Triết học chân chính 
cần phải tuyệt giao với các nguyên tắc 
tư biện, với các nguyên lý của chủ 
nghĩa duy tâm tuyệt đối. Để điều đó 
được thực hiện, cần xem xét bản chất 
thực sự của con người là nguyên tắc 
chủ đạo. Ông (2015: 167) nói: “Triết lý 
mới như sự phủ định của thần học, 
phủ nhận sự thật của tôn giáo Nhân 
chủng học là tôn giáo của chính nó”. 
Quan điểm đạo đức chiếm vị trí đáng 
kể trong triết học L. Feuerbach nói 
chung, tác phẩm Những nguyên lý 
triết họ ương i nói riêng, và được 
đề cập như phần sống động của tư 
tưởng nhân văn, với những nét đặc 
trưng được trau chuốt cho thích ứng 
với xã hội thời ông. Triết lý tình yêu, 
hạnh phúc, tự do được Feuerbach 
gắn kết với quan niệm về mục tiêu 
tinh thần của nhân loại – tôn giáo của 
tình yêu, tương tự như “nhân đạo 
giáo” của Auguste Comte. 
Con người trong quan điểm của L. 
Feuerbach khác với các nhà triết học 
trước là con người “bằng xương bằng 
thịt”, không phải con người chỉ có ý 
thức mà con người tồn tại, là khách 
thể của sự sống, khách thể của chính 
họ; con người với những giác quan 
của họ, bao hàm trong đó là nhận 
thức, cảm xúc và tình yêu. Chỉ trong 
cảm xúc, con người là tuyệt đối, riêng 
biệt. Để lý giải về tình yêu với con 
người là một sự mê hoặc, riêng biệt, 
một dấu hiệu để phân biệt với “loài” 
nói chung, trong tác phẩm Bản chất 
của Kitô giáo, L. Feuerbach (2012: 8) 
đã từng đặt câu hỏi: “Bằng cách nào 
con người có thể chống lại cảm xúc, 
yêu thương trong yêu thương, một lý 
trí sáng suốt?”. Ông trả lời: cảm xúc là 
dấu hiệu đặc biệt của sự tồn tại ở con 
người, chỉ ở trong cảm xúc, tình yêu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
19 
mới là khách thể của sự đam mê, 
thực tiễn. Tình yêu, nỗi đau, cảm xúc 
là những thuộc tính vốn chỉ tồn tại ở 
con người, con người trần trụi được 
nhận thấy rõ ràng, không trừu tượng, 
bí ẩn. Cảm xúc, sự chứa đựng độ sâu 
chân thành nhất, cái gì vốn có ở con 
người, tự nó đã là thần thánh. Yêu 
con người, yêu chính mình là điểm bắt 
đầu của quá trình vươn ra cộng đồng. 
Yêu bản thân không có nghĩa là chỉ 
yêu bản thân mình. Nói yêu bản thân 
chỉ đơn giản là khẳng định cái Tôi 
trước cái khác. Yêu – đó không phải 
là chủ nghĩa vị kỷ mà là khắc phục nó. 
Con người làm chủ tình yêu, hay tình 
yêu làm chủ con người? L. Feuerbach 
từng hỏi như thế. Và ông nhấn mạnh: 
khi tình yêu kích thích con người với 
niềm vui, thậm chí đi tới cái chết vì 
người mình yêu, thì đó chính là sức 
mạnh cá nhân tự tại hay đúng hơn, 
sức mạnh của tình yêu. Khát vọng 
hạnh phúc cá nhân gắn liền với khát 
vọng hạnh phúc của mọi người – ý 
tưởng ấy cần trở thành mệnh lệnh của 
cuộc sống, thành thông điệp xã hội. 
Khi anh yêu người khác, anh hóa thân 
thành người khác bằng tình yêu của 
mình. Vậy yêu người khác cũng là yêu 
chính anh. Tình yêu – theo L. 
Feuerbach – mới là giá trị tuyệt đối, 
nơi bí mật cuộc sống được tiết lộ, 
tình yêu là sự đam mê, tồn tại, thực 
tế. Nỗi đau của tình yêu là những cảm 
xúc chân thật nhất chứ không siêu 
hình trừu tượng như trong triết học 
cũ. Triết học mới, theo L. Feuerbach 
bắt nguồn từ Tôi – một thực thể có 
thực – tồn tại và có giác quan, có bản 
ngã và nhận thức về chính mình. Triết 
học mới không tách rời trí tuệ khỏi các 
giác quan để tìm ra siêu năng lực mà 
tinh thần và lý trí là những yếu tố của 
giác quan, thuộc tính của giác quan. 
Vấn đề khát vọng hạnh phúc được L. 
Feuerbach xem như phần tất yếu 
trong cuộc sống con người. Mỗi cá 
nhân đều có quyền sống hạnh phúc 
và hướng tới hạnh phúc. “Khát vọng 
hạnh phúc – đó là khát vọng của 
những khát vọng „Tôi muốn‟ có 
nghĩa là „tôi không muốn rơi vào bất 
hạnh, tôi muốn hạnh phúc‟” (L. 
Feuerbach, 2015: 38). Ý chí và “ý chí 
hướng đến hạnh phúc” ở Feuerbach 
đồng nghĩa với nhau. Khái niệm hạnh 
phúc được hiểu khá rộng, nhưng ý 
nghĩa, tính chất của nó chỉ có một – 
tính cá thể. Định nghĩa hạnh phúc như 
trạng thái mà ở đó “thực thể có thỏa 
mãn và thỏa mãn thực sự nhu cầu cá 
nhân đặc trưng của mình, liên quan 
đến bản chất và cuộc sống của mình” 
(L. Feuerbach, 2015: 49), ông nhận 
thấy có nhiều cách hiểu về khái niệm 
này vừa đa nghĩa, vừa có tính cá thể. 
Con người có thể muốn cái mà trong 
hiện thực không đem đến hạnh phúc 
như hệ quả của quan niệm xuyên tạc 
về hạnh phúc, cũng như hệ quả của 
quan niệm sai lầm về phương thức 
dẫn đến mục tiêu. “Chắc hẳn hạnh 
phúc mang tính chủ quan, như quá 
nhiều nhà đạo đức học biết và bàn 
đến, và quả nhiên nó là như thế. 
Hạnh phúc của tôi không tách khỏi cá 
thể tính của tôi” (L. Feuerbach, 2015: 
52). 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
20 
2.3.3. Quan tâm đến đời sống con 
người 
L. Feuerbach hoàn toàn không muốn 
xóa bỏ tôn giáo, bản thân triết học của 
ông cũng hòa vào tôn giáo. Theo L. 
Feuerbach, tôn giáo mà ông đề xuất là 
quan hệ yêu thương giữa người với 
người; mối quan hệ này, cho đến nay 
vẫn đi tìm chân lý của nó ở sự phản 
ánh huyền ảo của hiện thực - ở sự 
trung gian của một hay nhiều ông thần, 
tức là những hình ảnh huyền ảo của 
các thuộc tính con người – nhưng 
ngày nay đã tìm thấy chân lý ấy, một 
cách trực tiếp không cần có trung gian, 
trong tình yêu thương giữa “Tôi” và 
“Anh”. Vì thế mà theo L. Feuerbach 
tình yêu cuối cùng là tình yêu nam nữ 
là một trong những hình thức cao nhất 
của việc thực hành tôn giáo mới của 
ông. Xem xét Kitô giáo dựa trên 
những chất liệu thực tiễn và sự trải 
nghiệm cá nhân, thông qua biểu hiện 
cụ thể của tôn giáo tại Đức và Tây Âu 
trong thời kỳ đầy mâu thuẫn một cách 
phê phán, L. Feuerbach mong muốn 
thay Kitô giáo bằng tôn giáo không có 
Thượng đế, tôn giáo tình yêu vĩnh cửu. 
Tình yêu là quy luật phổ quát của lý 
tính và tự nhiên. Ông thừa nhận: “Triết 
học mới mang đến không gian của tôn 
giáo; nó mang bản chất của tôn giáo; 
trong thực tế, nó là tôn giáo” (L. 
Feuerbach, 2015: 77). Vì thế, nó cần 
phải là quy luật cao nhất và trước nhất 
của con người. Tình yêu là mối liên hệ, 
là bản nguyên kết nối giữa cái hoàn 
thiện và không hoàn thiện, giữa cái tội 
lỗi và cái vô tội, giữa cái phổ biến và 
cái cá thể, giữa luật lệ và con tim, 
giữa thần và người. Tình yêu tự nó là 
Thượng đế, bên ngoài tình yêu không 
có Thượng đế. Tình yêu làm cho con 
người trở thành Thượng đế và 
Thượng đế trở thành con người. Tình 
yêu là sự thống nhất chân chính 
Thượng đế và con người, tinh thần và 
tự nhiên. Với cách hiểu này, ông đem 
ý nghĩa tôn giáo gán cho cả quan hệ 
lứa đôi và hôn nhân. Trong Bản chất 
Kitô giáo (2012: 98) ông nói cụ thể về 
tình yêu bằng quan điểm: “ Tình yêu 
(của người đàn ông) dành cho phụ nữ 
là cơ sở của tình yêu phổ quát. Ai 
không yêu phụ nữ, kẻ đó không yêu 
con người” Như thế là, do chỗ tình 
yêu được tuyên bố như là bản chất 
chân chính của tôn giáo, chủ nghĩa vô 
thần của Feuerbach hiện ra ở đây với 
tính cách là tôn giáo chân chính, tôn 
giáo không hượng đế. 
Đồng thời, ông cũng nhận định, triết 
học mới không hòa tan vào nhân 
chủng học, vào lý trí, hay tình cảm mà 
nó là sự thật về cuộc sống của con 
người. Tức là những cái đang diễn ra 
trong đời sống con người, không trừu 
tượng, thần bí mà trần trụi như bản 
chất của họ. Ở một chỗ khác, ông 
nhận mạnh: “Nghệ thuật, tôn giáo, triết 
học và khoa học chỉ là sự biểu hiện sự 
tồn tại thật của con người. Con người 
là thật và con người hoàn hảo chỉ khi 
anh ta sở hữu óc thẩm mỹ hoặc nghệ 
thuật, tôn giáo hoặc phẩm hạnh, triết 
học hoặc khoa học giác quan là 
lòng nhân đạo” (L. Feuerbach, 2015: 
76). Nền tảng của triết học mới, theo L. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1+2 (257+258) 2020 
21 
Feuerbach, cũng là bản chất triết học 
của con người, nó phù hợp với thực 
tế khách quan. 
3. TẠM KẾT 
Mặc dù, thuyết hữu thần và Thiên 
Chúa giáo có những quan điểm khác 
nhau về Chúa, nhưng quan điểm 
chung họ vẫn thừa nhận sự tồn tại 
của Thượng đế - đối tượng có lý trí 
vượt lên trên con người và tồn tại bên 
ngoài sự tồn tại của con người. Không 
thừa nhận quan điểm đó của thuyết 
hữu thần cũng như Thiên Chúa giáo, 
L. Feuerbach phân biệt tôn giáo và 
thần học. Thần học, thuyết hữu thần, 
triết học duy tâm, đều là sự tư biện đối 
với tôn giáo, chúng chịu sự phê phán 
một cách ngẫu nhiên. Thượng đế là 
sự mặc khải bản chất bên trong của 
con người, sự thể hiện cái Tôi của con 
người. Bản chất của Thượng đế 
không có gì khác hơn là bản chất con 
người, khát vọng được thoát khỏi 
những giới hạn cá thể. Do đó, L. 
Feuerbach (2015: 35) nhấn mạnh: 
“Chúa là khách thể giống như bất cứ 
khách thể nào có giác quan; nhưng, 
tại thời điểm giống nhau, ngài cũng là 
chủ thể của chính nó, và, thay vào đó 
giống như chủ thể của con người. 
Chúa sáng tạo ra mọi sự vật rằng là 
một phần từ chính ngài, ngài quay trở 
lại chính mình trong chính mối quan 
hệ của mình và có liên quan đến 
những sự vật khác tồn tại một phần từ 
chính ngài; ngài có cả tình yêu và sự 
thưởng ngoạn xảy ra cùng lúc và với 
những cái khác” (L. Feuerbach, 2015: 
13). 
Trên cơ sở kế thừa triết học của 
Hegel, L. Feuerbach cũng thừa nhận 
những đóng góp của Hegel cho triết 
học hiện đại, đồng thời, ông cũng chỉ 
ra rằng, Hegel “biến hoạt động chủ thể 
này thành chính hoạt động của thần 
thánh”. Hegel cho rằng, toàn bộ giới 
tự nhiên, thế giới vật chất chỉ là tồn tại 
khác của ý niệm, biến thể của tinh 
thần mà không có sự hiện diện của ý 
thức, và chỉ là sự chuẩn bị cho quá 
trình chuyển hóa của tự nhiên. Phê 
phán Hegel, L. Feuerbach chỉ ra rằng 
chính Hegel đã khôi phục và làm trung 
gian cho thần học thông qua sự phủ 
định của chủ nghĩa duy lý. 
Khẳng định triết học mới là triết học 
của con người, nền tảng của triết học 
phải bắt đầu từ con người và vì con 
người (nhân học), L. Feuerbach nhận 
định, triết học mới là những nguyên lý 
nhận thức, là chủ thể, không phải bản 
ngã, con người cá nhân mới là chủ 
thể của lý trí, là những con người có 
tư duy. L. Feuerbach mong muốn xây 
dựng là một xã hội có sự độc lập, tự 
do dành cho con người không bị 
“giam cầm” bởi nhà thờ Kitô giáo hay 
Thượng đế của chủ nghĩa duy tâm. 
Mặc dù có những tư tưởng cải cách 
triết học mang tính nhân văn, hướng 
đến giải phóng con người nhưng do 
những hạn chế của điều kiện lịch sử 
cũng như trong tư duy nên L. 
Feuerbach chỉ xem con người một 
cách trừu tượng, phi lịch sử, con 
người tự nhiên, sinh học mà chưa gắn 
với những điều kiện hiện thực của xã 
hội loài người, những quan hệ phức 
 NGUYỄN THỊ CẨM TÚ – TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH TRIẾT HỌC 
22 
tạp trong điều kiện đối kháng giai cấp 
nên L. Feuerbach vẫn chưa vượt qua 
được. Trong khi đó, C. Mác - bằng 
những nghiên cứu thực tiễn – đã chỉ 
ra rằng, con người khác rất nhiều với 
con vật, ngoài những bản năng tự 
nhiên, con người có ý thức, con người 
còn có cả hành động mà con vật 
không thể nào có là sản xuất vật chất: 
“Bản thân con người bắt đầu tự phân 
biệt với súc vật ngay khi con người 
bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh 
hoạt của mình” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 2004: 66). 
Minh chứng cho nhận định của mình, 
C. Mác đã phân tích các hình thức sở 
hữu của loài người, nhờ có tái sản 
xuất mà con người trải qua nhiều loại 
hình sở hữu khác nhau trong lịch sử; 
từ “sở hữu bộ lạc” đến “sở hữu công 
xã và sở hữu nhà nước thời cổ” để 
đến “hình thức sở hữu thứ ba là sở 
hữu phong kiến” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 2004: 68, 69, 71). Trong 
quá trình chuyển từ hình thái sở hữu 
này sang hình thái sở hữu tiến bộ hơn, 
con người có ý thức về chính họ và về 
xã hội họ đang sống, họ ý thức được 
các mối quan hệ giữa mình và người 
khác, trong khi đó, loài vật không làm 
được việc này. Theo phân tích của C. 
Mác, con người một mặt có quan hệ 
với đời sống tự nhiên, một mặt họ “tự 
tạo ra chính họ”, đó là quan hệ xã hội 
– trong đó có tình yêu gia đình – điều 
mà trước đó, L. Feuerbach chưa nhìn 
thấy được hoặc chưa được nhắc tới. 
Để nghiên cứu con người, C. Mác nói: 
người ta không chỉ nghiên cứu mặt tự 
nhiên hay chỉ mặt xã hội mà là sự kết 
hợp cả hai. Điều này thì người Đức 
nói chung, L. Feuerbach nói riêng vẫn 
chưa làm được, vì “người Đức không 
những thiếu năng lực hiểu biết và 
thiếu tài liệu mà thiếu cả „sự xác thực 
của cảm giác‟” (C. Mác và Ph. 
Ăngghen, 2004: 82), họ chỉ làm cách 
mạng bằng lý luận, chưa thâm nhập 
vào đời sống thực tiễn. L. Feuerbach 
muốn cải cách xã hội, nhưng ông chỉ 
nghiên cứu mặt tự nhiên của con 
người, làm mọi biện pháp để con 
người được tự do về mặt tinh thần 
như ông nói triết lý mới mang màu sắc 
“tôn giáo của tình yêu”.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Đinh Ngọc Thạch, Doãn Chính (đồng chủ biên). 2018. Lịch sử triết họ phương -
Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. L. Feuerbach. 2012. The Essence of Christianity. General Book LLC. Memphis. 
Printed in the USA. 
3. L. Feuerbach. 2015. Principles of the Philosophy of the Future. New York: Prism Key 
Press. US. 
4. C. á v h. nggh n o n ập. 2002. tập 3. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự 
thật. 
5. C. Mác và Ph.Ăngghen. 2004. Hệ ư ưởng Đức (tái bản). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc 
gia. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cai_cach_triet_hoc_cua_ludwig_feuerbach_trong_tac_p.pdf