Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam

Trong một xã hội phát triển, giá trị chính là động lực và mục tiêu; đồng thời tư duy được xem là giá trị và có ý nghĩa tác động đến sự phát triển của xã hội. Giá trị học là một khoa học có sự

ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống và xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới,

trong đó có khoa học quản lý. Tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá trị là những thành tựu của

khoa học quản lý đương đại; tư duy giá trị đang được ứng dụng trong quản lý ở nhiều lĩnh vực khác

nhau của kinh tế và xã hội bởi nó xây dựng được phương pháp và kỹ thuật cho các nhà quản lý đưa

ra quyết định. Ứng dụng tư duy tập trung vào giá trị có khả năng nâng cao năng lực quản lý giáo dục

ở Việt Nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

pdf 6 trang phuongnguyen 2980
Bạn đang xem tài liệu "Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam

Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
73Ngày nhận bài: 3/2/2018; Ngày phản biện: 7/2/2018; Ngày duyệt đăng: 27/2/2018
(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; e-mail: hocanhhanh@gmail.com
(2) Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; e-mail: nguyenhuule@gmail.com
TƯ DUY TẬP TRUNG VÀO GIÁ TRỊ - ĐỊNH HƯỚNG 
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
Hồ Cảnh Hạnh(1)
Nguyễn Hữu Lễ(2)
Trong một xã hội phát triển, giá trị chính là động lực và mục tiêu; đồng thời tư duy được xem là giá trị và có ý nghĩa tác động đến sự phát triển của xã hội. Giá trị học là một khoa học có sự 
ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống và xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, 
trong đó có khoa học quản lý. Tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá trị là những thành tựu của 
khoa học quản lý đương đại; tư duy giá trị đang được ứng dụng trong quản lý ở nhiều lĩnh vực khác 
nhau của kinh tế và xã hội bởi nó xây dựng được phương pháp và kỹ thuật cho các nhà quản lý đưa 
ra quyết định. Ứng dụng tư duy tập trung vào giá trị có khả năng nâng cao năng lực quản lý giáo dục 
ở Việt Nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Giá trị; tư duy giá trị; tư duy tập trung vào giá trị; khoa học quản lý; quản lý giáo dục.
1. Đặt vấn đề
Khi bàn về Tư duy giá trị (Value in Thinking), 
Jozef Tischner, giáo sư Học viện Thần học Ba Lan 
đã khẳng định “trong một thế giới trật tự, tư duy bao 
giờ cũng được ưu tiên” [8, tr.477]. Giáo dục có chức 
năng định hướng giá trị bằng nhiều hoạt động, trong 
đó tư duy như là một giá trị đặc trưng. Trong bối 
cảnh của một nền giáo dục được quản lý chủ yếu 
bằng hành chính hóa công vụ như nước ta hiện nay, 
tư duy giá trị không những khắc phục những hạn 
chế của cơ chế quản lí hiện hành mà còn tạo ra cơ 
hội để những nhà hoạch định chính sách lựa chọn 
hướng phát triển cho tương lai. Tư duy tập trung 
vào giá trị có khả năng đưa giáo dục và đào tạo Việt 
Nam đi vào quỹ đạo phát triển của giáo dục thế giới, 
khi mà hoạt động quản lý mang tính khoa học, tư 
duy được ưu tiên để ra quyết định, sự sáng tạo được 
coi trọng, tri thức được xem là những tài sản có giá 
trị. Trong bài viết này, chúng tôi khái quát một số 
vấn đề về tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá 
trị để định hướng thông tin, góp phần nâng cao năng 
lực cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) ở nước ta 
trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
2. Tư duy giá trị - những vấn đề tổng quan
Trong thế kỷ XX, có một ngành khoa học mà 
từ khi ra đời đến nay, sức ảnh hưởng và những ứng 
dụng của nó đã đi vào nhiều lĩnh vực khác nhau 
trong đời sống xã hội, đó là Giá trị học (Axiolo-
gy). Giá trị học gắn liền tên tuổi Robert Schirokauer 
Hartman (1910-1973), nhà luân lý học, nhà triết học 
người Đức. Ông có những công trình lý thuyết về 
giá trị như cuốn Cấu trúc của giá trị: cơ sở của giá 
trị và giá trị học (The Structure of Value: Founda-
tions of Scientific Axiology) được đánh giá là một 
tác phẩm vĩ đại và Đo lường giá trị (The Measure-
ment of Value), một tác phẩm gây nhiều tranh luận 
nhưng cũng gợi ra nhiều ý tưởng thú vị.
Hartman không trình bày định nghĩa như những 
người khác thường làm mà ông đi tìm mối liên hệ 
logic của giá trị. Trên cơ sở của các mối liên hệ đó, 
ông trình bày 5 đặc điểm của giá trị: giá trị duy lý 
và giá trị không duy lý, tính khách quan và chủ quan 
của giá trị, giá trị đồng tình và giá trị phản đối, giá 
trị lạc quan và giá trị bi quan, tốt và xấu trong thế 
giới này [5]. 
Bên cạnh những vấn đề lý luận về cấu trúc của 
giá trị, Hartman đặt ra vấn đề đo lường giá trị. Ông 
đã từng mong muốn giá trị được định lượng một 
cách rõ ràng giống như cách làm của khoa học tự 
nhiên để “tìm ra một định nghĩa chính xác về giá trị, 
về sự tốt lành của một trong hai mối quan hệ: hoặc 
toán học hoặc logic có thể áp dụng được và có thể 
phát triển như định nghĩa chuyển động của Galilea” 
[5, tr.3]. Trong cuốn Đo lường giá trị, ông đã xác lập 
các khái niệm và đưa ra công thức đo lường sự cân 
bằng giá trị mà những thế hệ tiếp nối đã mở rộng 
nghiên cứu vấn đề này ở nhiều lĩnh vực khác nhau, 
không chỉ đối với kinh tế, con người mà còn là “một 
bộ phận của văn hóa chính trị trong chính trị học” 
[2, tr.20]. Nếu Hartman tập trung vào đo lường giá 
trị theo hướng khách quan thì Louis L.Thurstone 
(1887–1955), nhà vật lý và nhà tâm lý người Mỹ đã 
nghiên cứu về đo lường giá trị trong lãnh địa của cái 
chủ quan để đo giá trị con người “chừng nào mà các 
nhà khoa học xã hội không thể phân biệt được giữa 
tuyên truyền và khoa học, uy tín của họ sẽ bị hạ thấp 
trong khoa học” [7, tr.58].
Ở phương diện là đối tượng của tâm lý học, giá 
trị tồn tại khách quan thông qua tình cảm, thái độ và 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
74 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
nhận thức của con người với hiện thực, tức là giá 
trị quan. Theo GS. Phạm Minh Hạc, giá trị quan “là 
quan điểm giá trị, nói cụ thể hơn là cách nhìn nhận 
vấn đề dưới góc độ giá trị, giải quyết vấn đề xuất 
phát từ giá trị, nhằm mục tiêu giá trị, từ cấp độ con 
người đến cấp độ cộng đồng, quốc gia - dân tộc” 
[2, tr.20]. Với tư duy nông nghiệp, người Việt Nam 
thường bỏ qua cái ‘lý’ để chọn cái ‘tình’, coi nhẹ giá 
trị, coi trọng thành tích, ưa phô trương, kể cả những 
cái không thuộc về mình. Vì thế mà trong xã hội 
Việt Nam đang tồn tại ‘bệnh thành tích’, một hình 
thức của tư duy phản giá trị (Anti-value Thinking). 
Xã hội công nghiệp coi sự tồn tại của ‘ranh giới’ 
giá trị và phản giá trị là sự cản trở sự vận hành, kìm 
hãm phát triển. Với những ý nghĩa quan trọng đó, 
giá trị học đã và đang trở thành nội dung giáo dục 
và được đưa vào nhà trường ở nhiều quốc gia có nền 
giáo dục phát triển như Mỹ, Anh, Úc,  [2, tr.213].
Tư duy giá trị là sự thể hiện hoạt động tư duy 
bậc cao của con người. Tư duy giá trị có khả năng 
định lượng được những gì được cho là trừu tượng, 
chẳng hạn như đạo đức. Keeny khi xem đạo đức là 
“nguyên tắc được tôn trọng” trong việc lựa chọn 
hoặc phán đoán cho việc ra quyết định. Keeny cho 
rằng, “các mục tiêu này thể hiện giá trị của một 
người” [4, tr. 26], họ cũng có thể đại diện cho một 
tổ chức hay cả xã hội. Với ý nghĩa đó, đạo đức của 
nhóm có thể phản ánh đạo đức của cá nhân. Đạo 
đức của người lãnh đạo trong một tổ chức trở nên 
quan trọng khi những quyết định đưa ra không vi 
phạm các mục tiêu giá trị của đạo đức. 
Giá trị học ngày càng được ứng dụng vào trong 
sản xuất, kinh doanh và quản lý. Với quan niệm 
“giá trị tạo nên động lực cho việc ra quyết định của 
chúng ta” [3, tr.539], tư duy giá trị là phương pháp 
khoa học giúp nhà quản lý có cơ sở vững chắc để 
đưa ra quyết định, tức là lãnh đạo có hiệu quả. Quản 
lý là một hoạt động mang tính khoa học nhưng trong 
thực tế, những nhà quản lý thường đưa ra quyết 
định theo cách “tự nhiên”, bởi vì những nhà quản lý 
“hầu hết không được dạy để đưa ra quyết định” [4, 
tr.6]. Khi đưa ra một quyết định nào đó, nhà quản 
lý thường tư duy về hoàn cảnh và tìm cách thay thế 
quyết định trước đó vì lí do quyết định đó không có 
khả năng thay đổi hoàn cảnh như mong muốn. Tư 
duy giá trị chính là sự thay thế và tìm cách thay thế, 
điều mà đòi hỏi con người phải có nhiều lựa chọn 
và dùng phương pháp tư duy để chọn một trong số 
đó.
3. Tư duy tập trung vào giá trị 
Tư duy tập trung vào giá trị (Value-Focused 
Thinking) là thuật ngữ dùng trong “khoa học quyết 
định” (Decision Sciences) thuộc lĩnh vực khoa học 
quản lý. Đối sánh với thuật ngữ này còn có thuật 
ngữ “tư duy tập trung vào thay đổi” (Alternative – 
Focused Thinking). Hai thuật ngữ này phản ánh hai 
phương pháp quản lý khác nhau. Theo Keeny, “tư 
duy tập trung vào giá trị bao gồm việc bắt đầu từ 
những gì tốt nhất và làm việc để biến nó trở thành 
hiện thực. Tư duy tập trung vào thay đổi bắt đầu 
bằng những gì sẵn có và tận dụng tối đa nó” [4, 
tr.6]. 
Chức năng của hoạt động quản lý là dùng 
phương pháp quản lý để giải quyết tình huống có 
vấn đề hoặc hoàn cảnh thử thách. “Điều những nhà 
quản lý thường làm là quan sát những người khác 
cách mà họ đưa ra quyết định và phân tích hiệu 
quả mang lại từ các quyết định đó, sau đó lựa chọn 
những yếu tố thích hợp với hoàn cảnh và khả năng 
của tổ chức mà mình lãnh đạo để đưa ra quyết định 
phù hợp” [4, tr.24]. Có những sự lựa chọn đơn giản 
như là lựa chọn chiếc áo ngủ màu gì để mặc trong 
đêm khi đi ngủ. Nhưng có những trường hợp lựa 
chọn sinh tử giống như người mắc chứng bệnh nan 
y, nên chọn một trong các liệu pháp: hóa trị liệu, 
điều trị phóng xạ, hoặc phẫu thuật, hoặc có thể kết 
hợp [4, tr.26]. Lúc này, sự lựa chọn phải hướng đến 
một đích duy nhất, đó là sự sống sót. Lựa chọn liệu 
pháp đúng đắn để chữa trị đảm bảo sự sống còn phải 
dựa trên sự hiểu biết và phân tích thông tin. Sự sống 
còn hay tồn tại trở thành giá trị trong một hoàn cảnh 
nhất định đòi hỏi sự lựa chọn liệu pháp chữa trị để 
bảo toàn, duy trì mạng sống là tư duy tập trung vào 
giá trị. Bản thân của tư duy cũng tồn tại như một giá 
trị mà “ngay cả trong thế giới kinh tế thẳng thắn, nơi 
sản xuất và vật chất hữu cơ đã từng là trung tâm, chỉ 
số niềm hạnh phúc, sự sáng tạo và các giá trị phi vật 
chất khác đã có mặt ở trung tâm” [4, tr.33].
Mô hình cấu trúc tư duy tập trung vào giá trị của 
Keeny gồm ba nội dung: làm rõ các giá trị, trình 
bày các giá trị và sử dụng các giá trị. Để làm rõ các 
giá trị thì trước hết phải xác định được chất lượng 
và cấu trúc các giá trị thích hợp cho tình huống để 
đưa ra quyết định. Việc trình bày các giá trị là làm 
cho giá trị đó trở thành hoạt động thích hợp với tình 
huống mang tính quyết định. Đích của tư duy tập 
trung vào giá trị chính là việc đưa ra quyết định 
mà những quyết định này “thường được đặc trưng 
bởi nhiều mục tiêu” vì “các mục tiêu như là bước 
quan trọng trong việc phát triển phương pháp tiếp 
cận chiến lược” [4, tr.126]. Trong quan hệ với chức 
năng quản lý, mục tiêu có thể rõ ràng, có chiều sâu 
và xuất phát từ các tình huống mang tính quyết định. 
Tuy nhiên, cũng có những mục tiêu “nông” (mục 
tiêu hạn chế), những mục tiêu chia nhỏ từ một mục 
tiêu lớn mà không có sự khác biệt với các đối tượng 
cùng loại hoặc mục tiêu kế thừa bất chấp hoàn cảnh 
thay đổi. Theo Keeny, “mỗi mục tiêu là một tuyên 
bố của một cái gì đó mà bạn muốn đạt được trong 
bối cảnh quyết định đó” [3, tr.542], vì thế mà nó 
phải rõ ràng, tức là phải đầy đủ cả ba tính năng: 
bối cảnh quyết định, đối tượng tác động và hướng 
ưu tiên. Ví dụ: mục tiêu của các trường sư phạm là 
“đào tạo đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng 
lực thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong bối cảnh đổi 
mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo”. Với mục 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
75Số 21 - Tháng 3 năm 2018
tiêu này, bối cảnh quyết định là tuyển sinh đủ chỉ 
tiêu và đào tạo đúng chất lượng như cam kết. Đối 
tượng tác động đến mục tiêu này là chất lượng đầu 
vào thấp, tuyển sinh không đủ chỉ tiêu. Hướng ưu 
tiên đặt ra cho mục tiêu là lựa chọn giữa số lượng 
và chất lượng. Tư duy tập trung vào giá trị sẽ xác 
định việc tối ưu hóa cho mục tiêu bằng việc đưa ra 
các mục tiêu khác nhau, kể cả các mục tiêu trước 
đó. Tiếp theo nhà quản lý phải lựa chọn các phương 
án để cân bằng các mục tiêu trong việc xác định 
mục tiêu cơ bản, mục tiêu chiến lược. Chẳng hạn, 
trong trường hợp này, nhà quản lý vẫn duy trì số 
lượng (dự kiến tình huống số lượng giáo viên thiếu 
sau giai đoạn thừa hoặc không được xem là quan 
trọng), thay đổi chất lượng (đưa ra một mô hình đào 
tạo mới hoàn toàn so với trước đó), tập trung chất 
lượng nguồn lực (thuê chuyên gia, cho dù phải chịu 
trả lương cao cho họ). Như vậy, tư duy tập trung vào 
giá trị chính là việc tạo ra giá trị của sản phẩm sau 
khi quá trình đào tạo kết thúc. Những sinh viên này 
khi ra trường phải có sự khác biệt so với những giáo 
viên đang công tác, tức là một “mẫu” giáo viên khác 
với trước đây về mặt giá trị tại thời điểm cần thiết. 
Sự khác biệt đó là giá trị sản phẩm đào tạo đảm bảo 
các tiêu chí cần thiết cho tình huống quyết định (đổi 
mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo) mà sản 
phẩm trước đó có thể không đáp ứng hoặc đáp ứng 
không hoàn toàn đối với tình huống này.
Keeny đã đề xuất hai cách để tạo cơ hội quyết 
định: “Một là, chuyển đổi một vấn đề ra quyết định 
hiện tại thành một cơ hội quyết định (); hai là, để 
tạo cơ hội quyết định từ đầu” [3, tr.545]. Và ông đã 
đưa ra lời khuyên “Hãy sử dụng tài năng sáng tạo 
của bạn, có thể được kích thích tư duy tập trung vào 
giá trị, để kiểm tra xem bạn có thực hiện tốt các mục 
tiêu của mình như thế nào” [3, tr.545], tức là khả 
năng dự đoán hậu quả của quyết định. Điều này có 
ý nghĩa làm tách biệt tính quan điểm và tính tư duy 
trong những quyết định của nhà quản lý.
4. Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị vào 
quản lý giáo dục ở Việt Nam 
4.1. Phát triển nhà trường theo mô hình “Chọn 
trường tốt nhất”
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà quản 
lý giáo dục ở Mỹ đã vận dụng tư duy tập trung vào 
giá trị trong quản lý nhà trường với mô hình “Chọn 
trường học tốt nhất” (Best Choice Schools). Từ việc 
xây dựng một số trang web để cung cấp thông tin 
chọn trường cho người học các nhà quản lý giáo 
dục đã xác lập những mục tiêu hướng đến nhu cầu 
của người học trong sự gắn bó với mục tiêu xây 
dựng nhà trường. Ví dụ như trang web 
bestchoiceschools.com, cung cấp cho người học 
các thông tin mà khi tra cứu trường để học, người 
học chỉ cần đánh dấu và các thông tin phù hợp với 
nhu cầu của mình, danh sách những trường đáp ứng 
nhu cầu của người học hiện ra để người học lựa 
chọn. Khi các thông tin được cam kết có sự bảo hộ 
pháp lý được công khai, đòi hỏi nhà quản lý xác lập 
các giá trị đáp ứng với mục tiêu của trường. Vì thế 
mà các trường cao đẳng, đại học ở Mỹ nằm trong 
một hệ thống được bảo hộ bởi sự phân phối thống 
nhất các nhu cầu. Mỗi nhà trường phải xây dựng và 
quản lý theo cách riêng của mình trong sự đáp ứng 
nhu cầu của từng đối tượng cụ thể mới có khả năng 
tồn tại. Để xây dựng giá trị cho mô hình trường học 
tốt nhất, theo Keeny phải dựa vào các nguyên tắc:
- Bỏ qua kinh nghiệm.
- Tập trung vào cách hành động.
- Xây dựng cây giá trị.
- Tính toán trọng lượng giá trị.
- Đánh giá một sự thay thế.
Vận dụng mô hình này, các nhà quản lý ở các 
cơ sở giáo dục Việt Nam phải chuyển hướng tư duy 
và đặt mình trong hoàn cảnh, tâm lý của người học 
và phụ huynh; đồng thời sử dụng phương tiện ITC 
để định lượng và phân loại nhu cầu của người học 
trong mối tương quan với nhu cầu phát triển xã hội. 
Việc đưa ra quyết định thể hiện trong kế hoạch và 
biện pháp thực hiện các nội dung của kế hoạch như: 
bổ sung, thay thế trang thiết bị theo thị hiếu và nhu 
cầu của người học, tập trung nguồn lực vào các mục 
tiêu quan trọng, xây dựng chương trình đào tạo theo 
hướng năng động, linh hoạt. Trong việc công khai 
giá trị, các nhà quản lí không cần phải phô trương 
thành tích mà công khai các hoạt động tạo ra giá 
trị, công bố các sản phẩm tư duy của đội ngũ giảng 
viên và các chính sách khuyến khích đội ngũ này 
tạo ra giá trị. 
4.2. Phát triển năng lực ra quyết định cho đội 
ngũ cán bộ quản lý giáo dục
Qua các công trình nghiên cứu mang tính học 
thuật về đội ngũ CBQLGD Việt Nam trong những 
năm gần đây, có thể nhận thấy: đội ngũ CBQLGD 
ở Việt Nam chưa chuyên nghiệp, và tính không 
chuyên nghiệp thể hiện trên các phương diện: đào 
tạo, tuyển dụng, lãnh đạo và đánh giá. Điều này 
có nhiều nguyên nhân, trong đó về phía khoa học 
quản lý chưa có những nghiên cứu chuyên biệt, các 
công trình học thuật để đánh giá kết quả đào tạo, 
bồi dưỡng cán bộ quản lý chủ yếu hướng vào tư 
duy cơ bản, chưa chú trọng đến tư duy giá trị, nhất 
là đối với các mục tiêu chiến lược. Trong giải pháp 
nâng cao năng lực cán bộ quản lý, giải pháp bồi 
dưỡng được ưu tiên hơn giải pháp đào tạo. Trong 
đánh giá cán bộ quản lý, đánh giá định tính nhiều 
hơn đánh giá định lượng và không có phương pháp 
kiểm chứng sự đánh giá. Trong điều hành tổ chức, 
đội ngũ CBQLGD Việt Nam nặng về quản lý hành 
chính, điều hành mang tính công vụ. Đội ngũ này 
mang tính đa năng, có khả năng chuyển từ vị trí này 
sang vị trí khác. Trong lãnh đạo, khi đưa ra quyết 
định, các nhà quản lý thường thiếu thông tin và coi 
nhẹ phản hồi, xử lý thông tin. Chính sách để thực 
hiện mục tiêu giáo dục mang tính cào bằng, duy trì 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
76 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng này.
Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị chính là phát triển năng lực ra quyết định dựa vào tư duy của nhà 
quản lý. Trên phương diện kỹ thuật, tư duy tập trung vào giá trị là một cấu trúc của phương pháp đánh giá 
giá trị. Đánh giá giá trị bao gồm một số nhiệm vụ riêng biệt: liệt kê các mục tiêu, phân biệt các mục tiêu, 
xác định các biện pháp cho các mục tiêu, sự ưu tiên. Áp dụng các kỹ thuật này vào phát triển năng lực đội 
ngũ CBQLGD Việt Nam thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Khảo sát các giá trị để xác định mục tiêu
Vấn đề khảo sát các giá trị được Alwin đưa ra trong một bài báo đăng trên tạp chí Công luận hàng quý 
của trường đại học Chicago năm 1985 để “so sánh phương pháp đánh giá và sắp xếp để đo lường các giá 
trị bằng cách sử dụng dữ liệu về định hướng của cha mẹ đối với trẻ em từ một cuộc thử nghiệm chia nhỏ 
ngẫu nhiên được thực hiện trong điều tra xã hội năm 1980” [1, tr. 535]. Vận dụng quan điểm này, chúng 
tôi đưa ra mô hình để làm cơ sở xây dựng hệ thống dữ liệu khảo sát đánh giá các giá trị đội ngũ CBQLGD 
Việt Nam.
Bảng 1: Mô hình hệ thống dữ liệu đánh giá giá trị đội ngũ CBQLGD Việt Nam
Bảng 2: Quy ước các mục tiêu ở Bảng 1
Ứng dụng các tiêu chí nêu trong Bảng 1 giúp nhà quản lý và tổ chức của mình phân định các mục tiêu 
để vừa tự đánh giá năng lực lãnh đạo và công tác quản lý vừa để xác lập các mục tiêu cho việc đưa ra quyết 
định.
Khi đứng trước một tình huống, một hoàn cảnh nào đó, con người thường có các nhu cầu hay nguyện 
vọng và thể hiện nó bằng một quyết định nào đó. Hiện tượng này chính là biểu hiện của mục tiêu xuất phát 
từ cá nhân. Nhà quản lý biết tổ chức, điều hành để mỗi cá nhân, dựa trên phân loại các mục tiêu trên để 
đưa ra mục tiêu, có cả mục tiêu tích cực và mục tiêu hạn chế, theo nhu cầu hoặc nguyện vọng của mình. 
Để có được danh sách các mục tiêu, nhà quản lý phải có các biện pháp khác nhau, chẳng hạn tổ chức các 
cuộc thảo luận với yêu cầu mỗi thành viên đóng góp các ý tưởng hoặc xác định các khó khăn. Để thăm dò 
các cá nhân trong một tổ chức, nhà quản lý “đưa ra danh sách các mục tiêu tiềm năng” [3,tr.539] không có 
sự sắp xếp ưu tiên làm cơ sở để các cá nhân đưa ra quyết định bằng cách lựa chọn. Khi yêu cầu cá nhân 
thể hiện quan điểm lựa chọn mục tiêu, có thể đưa ra các mục tiêu dự phòng bằng cách đặt vấn đề cho mỗi 
cá nhân: “Nếu bạn không thấy các mục tiêu từ danh sách này thì mục tiêu của bạn là gì?” và “Nếu có sự 
cân bằng giữa các mục tiêu thì đó là sự cân bằng nào? Bằng cách nào?”. Sử dụng yếu tố này để kích thích 
tư duy không chỉ của mỗi cá nhân trong tổ chức mà là cách thức tư duy của người quản lý. Sau công việc 
này, nhà quản lý có được danh sách các mục tiêu để phân loại và lựa chọn. 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
77Số 21 - Tháng 3 năm 2018
Bước 2: Xem xét tình huống lựa chọn mục tiêu 
và cân bằng giá trị
Tính huống giúp nhà quản lý xác nhận và trả 
lời các câu hỏi “Tại sao mục tiêu này quan trọng?”, 
“Tại sao phải chọn mục tiêu này mà không chọn 
mục tiêu khác?”. Để đưa ra một quyết định mà 
kết quả của nó phải mang đến giá trị thì nhà quản 
lý phải xác định các mục tiêu khác nhau như: sự 
phát triển, đạo đức, công bằng, tài chính, nhân lực, 
truyền thống và hiện đại,... Mỗi mục tiêu có thể có 
những điểm giao và điểm đối lập với các mục tiêu 
khác đòi hỏi nhà quản lý phải cân bằng giá trị. Để 
cân bằng giá trị, nhà quản lý phải xác định được đâu 
là mục tiêu cơ bản, đâu là mục tiêu chiến lược, đâu 
là quy luật, đâu là chủ quan, những rào cản hoặc rủi 
ro (do khách quan mang lại) có thể xảy ra, đâu là 
sự ưu tiên. Sau đó, nhà quản lý tiến hành phân cấp 
và xây dựng mô hình mục tiêu theo kiểu ma trận và 
dùng thuật toán tư duy để cân bằng giá trị các mục 
tiêu.
Bước 3: Xác định cơ hội để đưa ra quyết định
Khi đạt được hệ thống các mục tiêu và được 
phân cấp, nhà quản lý đứng trước các lựa chọn để 
ra quyết định: lựa chọn hoặc thay thế hoặc lựa chọn 
thay thế. Mỗi mục tiêu đưa ra trong hệ thống phân 
cấp đều mang tính quan trọng trong một tình huống 
quyết định. Do đó, nhà quản lý phải suy nghĩ làm 
thế nào để vừa đạt được những mục tiêu này tốt hơn 
và có thể đề xuất các lựa chọn khác? Việc xem xét 
mục tiêu phải “mỗi lần một mục tiêu và nghĩ đến sự 
lựa chọn thay thế có thể cần thiết nếu đó là mục tiêu 
duy nhất” [3, tr.544]. Bước tiếp theo là xem xét hai 
mục tiêu cùng thời điểm, hoặc tương đương và cố 
gắng tạo ra các lựa chọn thay thế tốt cho cả hai mục 
tiêu này. Những lựa chọn này có thể sàng lọc hoặc 
tạo ra sự kết hợp để nó đại diện cho nhóm mục tiêu. 
Sau đó lấy ba mục tiêu cùng thời điểm hoặc tương 
đương để đưa ra lựa chọn thay thế. Cứ thế, nhà quản 
lý sẽ tạo ra được mục tiêu duy nhất, và đó chính là 
cơ hội để nhà quản lý ra quyết định. Các tình huống 
quyết định phức tạp hơn thì có nhiều mục tiêu hơn 
và cũng có nhiều cách lựa chọn hơn. Mục tiêu bao 
hàm nhiều mục tiêu lựa chọn trong một phạm vi 
rộng được xem là mục tiêu chiến lược. Và ngay cả 
khi đạt được sự lựa chọn thay thế để đưa ra quyết 
định thì người quản lý không được rời khỏi suy nghĩ 
là còn có sự lựa chọn khác và phải tiếp tục, nhất là 
khi có những tình huống mới khó kiểm soát.
4.3. Đo lường giá trị để định vị các chức danh 
khoa học
Đo lường giá trị vừa là một lĩnh vực khoa học 
độc lập, vừa có mối quan hệ sâu sắc đối với tư duy 
tập trung vào giá trị. Mối quan hệ nhân quả này làm 
cho đo lường giá trị mang tính mục đích như là một 
sự phản ánh hệ quả của tư duy giá trị. Những tiêu 
chuẩn sẽ trở nên lỗi thời, thậm chí trở thành rào cản 
của sự phát triển nếu các tiêu chuẩn trộn lẫn với 
phương pháp định tính để tạo ra khoảng cách quá 
lớn với đo lường khách quan và đo lường giá trị. 
Việc định lượng giá trị cho các chức danh khoa 
học dựa trên các công trình đã được xuất bản của 
cá nhân nhà khoa học trên thế giới thường dựa vào 
các công trình đã được xuất bản trên các tạp chí 
và có hai quan điểm đo lường: quan điểm thiên về 
số lượng của các công trình được công bố (Siegel 
and Baveye, 2010; Refinetti, 2011) và quan điểm 
chú trọng vào chất lượng qua sự tác động của tạp 
chí, của cá nhân nhà khoa học (Garfield, 2006). Một 
hướng tiếp cận khác để đo đầu ra cho các chức danh 
khoa học là chú trọng đến “năng suất” lao động 
khoa học (Gabriel Kreiman và John H. R. Maun-
sell, 2011).
Để xác định giá trị tương ứng với một chức danh 
khoa học nào đó (ví dụ: học vị, học hàm cụ thể), 
nhiều người mong muốn có sự thống nhất giữa năng 
lực và hiệu suất hoạt động khoa học tương xứng với 
mỗi chức danh khoa học nhất định. Trong thực tiễn, 
những chuyện không mong muốn thường xuyên 
xảy ra mặc dù việc định danh cho giá trị khoa học 
ở mỗi con người được thực hiện bởi phương pháp 
khoa học. 
Việc xây dựng tiêu chí đánh giá các chức danh 
khoa học cần phá vỡ sự trì trệ của tư duy võ đoán, 
để làm thay đổi quyết định của nhà quản lý (Rob-
ert S. Hartman và Ralph L. Keeney). Những vấn đề 
“vô hình” và “hữu hình” của giá trị khoa học mà 
Hartman đưa ra trong Đo lường giá trị giúp chúng 
ta nhận thức được mục tiêu của việc đo lường ở chủ 
thể sáng tạo là không phải đánh giá bằng sự liệt kê 
thành tích mà là xác định giá trị và các khả năng tạo 
ra giá trị. Mục tiêu của việc công nhận chức danh 
khoa học là xác định khả năng của nhà khoa học để 
thực hiện các nhiệm vụ tương ứng với chức danh 
mà mình được công nhận dựa trên cơ sở của các 
sản phẩm mà nhà khoa học đạt được dựa trên các 
“tham số” cùng với “phép tính” hợp lý. Các “tham 
số” được được hiểu là các tiêu chí và “phép tính” là 
phương pháp đo lường khách quan. 
Hiện nay, các tiêu chí trong các văn bản pháp 
quy về công nhận các chức danh khoa học của nhà 
nước Việt Nam có xu hướng mở ra những phạm vi 
khác nhau và khó thực hiện cho các phép đo khách 
quan như tư tưởng, trình độ ngoại ngữ, hướng dẫn 
nghiên cứu sinh bảo về thành công luận án, Khi 
phạm vi của các tiêu chí quá rộng, người ta có 
thể hoán đổi hoặc đánh tráo giá trị, chưa nói đến 
phương pháp đo lường định tính như các hình thức 
tín nhiệm.
Tiêu chí trong đo lường giá trị khoa học để xác 
định chức danh khoa học phải dựa trên các nguyên 
tắc của tư duy sáng tạo và phát triển năng lực. Ở tư 
duy bậc cao, các yếu tố của sáng tạo thể hiện trên 
các ý tưởng hay phát minh. Bậc thấp hơn của tư duy 
là vận dụng và cải tiến những ý tưởng, phát minh 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ
78 Số 21 - Tháng 3 năm 2018
VALUE-FOCUSED THINKING - ORIENTATION FOR ENHANCING 
THE EDUCATIONAL MANAGEMENT CAPACITY IN VIETNAM
Ho Canh Hanh
Nguyen Huu Le
Abstract: In a developed society, value is the motivation and goal; at the same time, thinking 
is considered as a value and has an impact on the development of the society. Axiology is a science 
that influences many different aspects of the lives and societies of many countries around the world, 
including management science. Valuable thinking and value-focused thinking are the achievements of the 
contemporary management science; It is being applied in the management in many different areas of the 
economy and society because it helps to build the methods and techniques for managers to make decisions. 
Value-focused thinking application can enhance the educational management capacity in Vietnam in the 
age of Industry 4.0.
Keywords: Value; value thinking; value-focused thinking; management science, education 
management.
của người đi trước.
Định lượng giá trị khoa học cho các chức danh 
khoa học rất khó, bởi vì giá trị khoa học chính là 
khoa học về giá trị, nó mang tính lịch sử của sự phát 
triển và mất đi theo thời gian vì sự phát triển hay 
phủ định nó, như Hartman đã nói trong một công 
trình chưa kịp công bố của mình “Nếu bạn nhớ nó 
đã mất từ Galileo đến General Electric, thì bạn sẽ 
hiểu được sự phát triển to lớn của khoa học về giá 
trị”. Mỗi chức danh khoa học nên tồn tại trong một 
khoảng thời gian (được gọi là chu kỳ) nhất định, 
vừa đủ để minh chứng năng lực của một nhà khoa 
học tương ứng với nhiệm vụ của họ và khả năng 
tiếp tục công việc chuyên môn trong thời gian tới. 
Khoa học đích thực phải là sự tiến bộ và phát triển 
chứ không phải là sự cộng dồn các kinh nghiệm. Tư 
duy tập trung vào giá trị có khả năng khắc phục sự 
trì trệ của con người, giúp con người nhận ra những 
khuyết điểm của mình trên con đường phát triển.
5. Kết luận
Những giải pháp công nghệ có khả năng giúp 
con người cảnh giác hơn sự đánh tráo giá trị, khắc 
phục tình trạng dựa vào thể chế quyền lực, núp 
bóng danh nghĩa tập thể, cộng đồng. Sự phát triển 
của ITC đang làm thay đổi về tầm nhìn đối với giá 
trị, thúc đẩy các phát minh, cải tiến công nghệ đáp 
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong xã 
hội hiện đại. Vì thế, xu hướng nhận thức tập trung 
vào giá trị, tập trung vào tư duy sáng tạo ngày càng 
được coi trọng và có khả năng đưa giá trị tri thức, 
hàn lâm vào hàng thứ yếu. Tư duy tập trung vào 
giá trị tạo ra năng lượng cho nhà quản lí trong việc 
hoạch định chính sách và đưa ra quyết định để điều 
hành tổ chức của mình theo kịp sự vận động của xã 
hội và thời đại, chìa khóa thành công của giáo dục 
và đào tạo Việt Nam trong thế kỷ XXI.
Tài liệu tham khảo
[1] Duane F. Alwin and Jon A. Krosnick 
(1985), “The Measurement of Values in Surveys: 
A Comparison of Ratings and Rankings”, Public 
Opinion Quarterly, Vol. 49, No. 4 (Winter, 1985), 
535-552;
[2] Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học – Cơ sở 
lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của 
người Việt Nam thời nay, NXB. Dân trí, Hà Nội;
[3] Keeny R. L. (1996), “Value-focused 
thinking: Identifying decision opportunities 
and creating alternatives”, European Joumal of 
Operational Research, Vol 92, pp. 537-549;
[4] Keeny R. L. (1996), Value-Focused 
Thinking A Path to Creative Decisionmaking, 
Harvard University Press;
[5] Hartman R. S. (1967), The Structure of 
Value: Foundations of Scientific Axiology, Southern 
Illinois University Press;
[6] Schwartz D. J. (1959), The Magic of 
Thinking Big, New York: Simon & Schuster, 1987;
[7] Thurstone L. L. (1954). “The Measurement 
of Value.” Psychological Review 61 (1954): 47-58;
[8] Tischner J. (2002), Myslenie wedlug wartosci 
[Thinking in Values], Krakow: Znak, pp. 477 - 493.

File đính kèm:

  • pdftu_duy_tap_trung_vao_gia_tri_dinh_huong_nang_cao_nang_luc_qu.pdf