Trường hợp xạ trị bảo tồn ung thư vú giai đoạn sớm bằng máy xạ trị trong suất liều cao
Liệu pháp bảo tồn vú, bao gồm phẫu thuật lấy bướu và xạ trị ngoài toàn bộ tuyến
vú là điều trị tiêu chuẩn cho những trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm. Tuy nhiên,
việc xạ trị kéo dài đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống người bệnh. Nhiều năm qua, xạ trị
trong với thời gian điều trị ngắn hơn, kết quả tái phát tại chỗ, tỉ lệ sống còn và kết quả
thẩm mỹ không thua kém xạ trị ngoài toàn bộ vú, là một lựa chọn thích hợp. Bài này mô
tả một trường hợp ung thư vú điều trị bảo tồn được xạ trị bằng máy xạ trị trong suất liều
cao tại Bệnh viện 175.
Bạn đang xem tài liệu "Trường hợp xạ trị bảo tồn ung thư vú giai đoạn sớm bằng máy xạ trị trong suất liều cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trường hợp xạ trị bảo tồn ung thư vú giai đoạn sớm bằng máy xạ trị trong suất liều cao
TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 55 TÓM TẮT Liệu pháp bảo tồn vú, bao gồm phẫu thuật lấy bướu và xạ trị ngoài toàn bộ tuyến vú là điều trị tiêu chuẩn cho những trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm. Tuy nhiên, việc xạ trị kéo dài đã ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống người bệnh. Nhiều năm qua, xạ trị trong với thời gian điều trị ngắn hơn, kết quả tái phát tại chỗ, tỉ lệ sống còn và kết quả thẩm mỹ không thua kém xạ trị ngoài toàn bộ vú, là một lựa chọn thích hợp. Bài này mô tả một trường hợp ung thư vú điều trị bảo tồn được xạ trị bằng máy xạ trị trong suất liều cao tại Bệnh viện 175. Từ khóa: điều trị vú bảo tồn, xạ trị trong suất liều cao (HDR), xạ trị toàn bộ vú (WBRT). RADIATION THERAPY FOR CONSERVATION OF EARLY STAGE BREAST CANCER BY MACHINE HIGH DOSE RATE IN RADIATION THERAPY ABSTRACT Breast - conserving therapy (BCT) which refers to breast conserving surgery (BCS), followed by whole-breast radiation therapy (WBRT) is a standard approach to early breast cancer. However, the long time of WBRT has affected negatively on the quality of life. Many trials and meta-analyses showed that efficacy of high-dose rate (HDR) brachytherapy is equivalent to WBRT in local recurrence, survival and cosmetic results. Moreover, HDR brachytherapy takes shorter treatment course than WBRT. This article describes a breast-conserving case with HDR brachytherapy at 175 Military Hospital. Key words: Breast-conserving therapy, high-dose rate (HDR) brachytherapy, whole-breast radiation therapy (WBRT). TRƯỜNG HỢP XẠ TRỊ BẢO TỒN UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN SỚM BẰNG MÁY XẠ TRỊ TRONG SUẤT LIỀU CAO Phan Thế Nhật1, Đào Tiến Mạnh1, Hồ Ngọc Toàn1, Trần Minh Nghĩa1, Vũ Đức Trung2 (1) Bệnh viện Quân y 175 (2) Sư đoàn 9 Người phản hồi (Corresponding): Phan Thế Nhật ([email protected]) Ngày nhận bài: 02/5/2015; Ngày phản biện đánh giá: 18/5/2015 TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 56 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong hơn ba thập kỷ qua, việc điều trị bảo tồn vú bằng cách phẫu thuật lấy bướu và kết hợp với xạ trị ngoài đã trở thành phương cách điều trị cơ bản cho các trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm. Tuy vậy, bất lợi chính là việc điều trị xạ ngoài sẽ kéo dài từ 3- 6 tuần và có thể có các biến chứng do xạ gây tổn thương cho các vùng lân cận như tim, phổi hoặc vú bên kia. Với sự phát triển của khoa học công nghệ và máy tính, để có thể tăng tối đa liều xạ tại vùng bướu và giảm tối thiểu liều xạ tại các mô lành lân cận ta có thể thực hiện bằng phương pháp xạ trị áp sát (xạ trị trong). TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân nữ, 59 tuổi, nhập bệnh viện Pháp – Việt vì bướu vú (P). Bản thân không mắc các bệnh lý nội ngoại khoa khác. Siêu âm: Vú phải : vị trí 12h, cách quầng vú 1cm, có cấu trúc echo kém, bờ đa cung, dạng cầu gai, có vài nốt vôi hóa trung tâm, tăng sinh mạch máu, kích thước # 19 x 16 mm. hạch nách phải có kích thước 9x8mm, còn rốn hạch. Vú trái : vị trí : 2-3h, cách quầng vú 2cm, có cấu trúc echo kém, bờ đều, giới hạn rõ, kích thước : 8*7mm, không có tín hiệu Doppler FNA: carcinôm tuyến vú Không phát hiện di căn hạch và di căn xa. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt bướu vú (P) vào nạo hạch nách (P) ngày 5/10/2014. Giải phẫu bệnh sau mổ: Carcinôm ống tuyến vú, xâm nhập, dạng NOS, grad 2 ER(++), PR (+++), HER2 (-), Ki67 (+) 30% pT: bướu 2,5 cm pN (-) 12/ 12 hạch Chẩn đoán sau mổ : K vú (P) pT2N0M0 Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện 175 để xạ trị áp sát trong mô vú (P)3,4 Gy x 10 phân liều. Quy trình thực hiện xạ trị trong Bước 1 : Đặt bộ áp Việc đặt các ống dẫn nguồn có thể được thực hiện ngay trong khi phẫu thuật lấy bướu hay ngay sau khi khâu vết mổ. Bệnh nhân được gây mê và bác sĩ xạ trị sẽ đặt vào các hàng ống dẫn nguồn (số lượng ống sử dụng tùy theo đánh giá về thể tích bướu). Nguồn phóng xạ sau đó sẽ được đưa vào theo các ống này. TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 57 Hình 1. Đặt bộ áp trong điêu trị ung thư vú Bước 2 : Mô phỏng và lập kế hoạch điều trị Trong ngày xạ trị đầu tiên, bệnh nhân sẽ được chụp X quang để các kỹ sư vật lý thực hiện mô phỏng, lập kế hoạch điều trị và tính toán phân bố liều lượng bức xạ một cách tối ưu nhất, sau khi bản kế hoạch điều trị được bàn bạc và thống nhất với bác sĩ xạ trị. Hình 2: Mô phỏng và lập kế hoạch điều trị Bước 3 : Tiến hành xạ trị Các đầu ống dẫn nguồn đưa ra phía ngoài mặt da bệnh nhân sẽ được nối với máy xạ trị trong qua các dây dẫn nguồn đủ dài. Nguồn phóng xạ từ trong máy sẽ theo các đường dẫn này đi vào những vị trí chính xác trong vùng bướu theo đúng như chương trình mà hệ thống lập kế hoạch điều trị đã thiết lập, đảm bảo việc phân bố liều xạ y như mô hình xạ trị đã mô phỏng trước đó. Bước 4 : nạp nguồn – tháo nguồn Sau lần xạ trị cuối cùng, bác sĩ xạ trị sẽ rút các ống dẫn nguồn ra. Các ống này sẽ dễ dàng trượt ra và không hề gây đau nhiều. Vết thương tại các đầu ống được rút thường chỉ cần bôi thuốc mỡ kháng sinh và sẽ lành sau vài ngày. Kết quả Thủ thuật thực hiện an toàn, bệnh nhân bây giờ đã có thể xuất viện, trước khi ra về, bệnh nhân sẽ được hướng dẫn tỉ mỉ về cách chăm sóc da và được hẹn để tái khám định kỳ hoặc hẹn thời gian cho các phương án điều trị hỗ trợ. Tái khám sau 4 tháng : Toàn thân : bệnh nhân ổn định , sinh hoạt bình thường, KPS : 90 điểm. Tại chỗ vú (P) : không ghi nhận tổn thương tái phát. Các cơ quan khác bình thường, bệnh nhân vẫn tiếp tục được theo dõi định kỳ theo lịch hẹn. BÀN LUẬN Trong nhiều thập kỉ qua, điều trị bảo tồn ung thư vú (phẫu thuật lấy bướu và xạ trị toàn bộ vú) trở thành xử trí tiêu chuẩn đối với những trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm. Tuy nhiên, thời gian xạ trị ngoài quy ước kéo dài 5 -6 tuần trở thành vấn đề đáng được lưu tâm ở bệnh nhân lớn tuổi, TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 58 phụ nữ đang lao động và những người cư trú ở rất xa trung tâm xạ trị. Điều này trở thành rào cản đối với bệnh nhân hoặc thầy thuốc trước khi quyết định lựa chọn bảo tồn vú. Chứng cứ ủng hộ mạnh mẽ cho việc xạ trị trong ung thư vú dựa trên nhiều nghiên cứu tiền cứu và hồi cứu, cho thấy 44 – 86% tái phát tại chỗ gần nền bướu. Tái phát tại vú mang bướu ở những vị trí khác ngoài nền bướu chỉ chiếm 3 – 4%. Cập nhật nghiên cứu NSABP-06 xác định 75% tái phát tại chỗ gần hoặc ngay nền bướu. Tỉ lệ tái phát tại những vị trí khác trong vú cùng bên tương đương với ung thư nguyên phát thứ 2 ở vú đối bên. Dựa trên những bằng chứng này, xạ trị toàn bộ vú bị “phê phán” là một điều trị “quá tay”. Xạ trị toàn bộ vú, phần thể tích xạ bao gồm cả da vú, hạch nách nhóm thấp, và một phần thể tích phổi và tim, gây nên những độc tính khó tránh khỏi. Lợi ích của xạ trị trong là giảm liều lên mô lành. Với thể tích xạ nhỏ, liều xạ lên tim và phổi sẽ giảm đáng kể, từ đó hạn chế được tỉ lệ biến chứng do xạ lên hai cơ quan này.Giảm liều xạ đến toàn thể phần vú còn lại và mặt da bên ngoàicòn đem lại kết quả thẩm mỹ ưu việt hơn hẳn so với xạ trị ngoài. Xạ trị trong chỉ tiếp cận với phần nền bướu và 1 – 2 cm xung quanh.Sự giảm thể tích xạ trị cho phép chỉ định phân liều trị lớn (>2 Gy) và rút ngắn tổng thời gian xạ trị mà không gây ra độc tính đáng kể, giảm khả năng tái phát đến mức thấpnhất. Tổng thời gian điều trị giảm xuống còn từ 5 đến 7 ngày thay vì mất 5 đến 7 tuần điều trị bằng xạ ngoài.Việc điều trị ngắn ngày đảm bảo các phương thức điều trị phối hợp chẳng hạn như hóa trị (nếu cần thiết) sẽ không bị chậm trễ gây ảnh hưởng đến kết quả điều trị chung. Tại bệnh viện 175, chúng tôi đang áp dụng phác đồ xạ trị trong với 3,4 Gy x 10 phân liều. Có rất nhiều kĩ thuật xạ trị trong: xạ trị mô kẽ đa catheter, xạ trị bằng bóng, 3D CRT (conformal radiation therapy) và xạ trị trong lúc mổ (IORT). Mỗi kĩ thuật xạ trị rất khác biệt về mức độ xâm lấn, phân bố liều xạ, thời gian điều trị. Từ lúc ra đời, đã có nhiều nghiên cứu so sánh hiệu quả điều trị của xạ trị toàn bộ vú và xạ trị trong cho thấy tỉ lệ tái phát tại chỗ và sống còn không bệnh, sống còn toàn bộ, kết quả thẩm mỹ tương đương nhau giữa hai nhóm. Bệnh nhân nên được chọn lựa kĩ lưỡng cho hình thức xạ trị này, một số chỉ định: Tuổi ≥ 45 đối với ung thư vú xâm lấn, và tuổi ≥ 50 đối với carcinôm ống tuyến vú tại chỗ (DCIS). Ung thư vú xâm lấn hay ung thư ống tuyến vú tại chỗ. Kích thước bướu không quá 3cm. Bờ phẫu thuật không còn chứa tế bào ung thư. Hạch lính gác âm tính hoặc không di căn hạch. Tại các quốc gia Âu – Mỹ, hơn 15 năm qua, tỉ lệ bảo tồn vú ở giai đoạn sớm tăng dần kéo theo kỹ thuật xạ trị trongđược triển khai rộng rãi ở rất nhiều trung tâm xạ trị tại Hoa Kì và các nước Châu Âu. Các nước Châu Á cũng đang triển khai tiếp cận với công nghệ mới này từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, việc sử dụng xạ trị trong bước đầu gặp trở ngoại do thể tích tuyến vú của phụ nữ châu Á nhỏ hơn. Chẳng hạn ở Nhật, với diện cắt cách bướu 2cm, trong nhiều trường hợp, không còn mô tuyến vú bên dưới da vú hoặc trên cơ ngực lớn, gây TAÏP CHÍ Y DÖÔÏC THÖÏC HAØNH 175 - SOÁ 3 - 9/2015 59 khó khăn cho kỹ thuật xạ trị. Hạn chế của kỹ thuật là phải lựa chọn bệnh nhân thật kỹ, đúng chỉ định và phụ thuộc máy móc, trang thiết bị. Hiện tại, rất nhiều cơ sở điều trị ung thư có máy xạ trị ngoài nhưng chỉ một số ít cơ sở có máy xạ trị trong suất liều cao. Chi phí cho các ống nguồn đặt trong mô cũng khá cao. Tuy nhiên rút ngắn thời gian điều trị và giảm số phân liều điều trị một phần cũng làm giảm bới chi phí. Tại nước ta, do việc đầu tư thiết bị đòi hỏi tốn nhiều chi phí cũng như việc đào tạo các chuyên gia trong lãnh vực này còn rất thiếu, xạ trị bảo tồn vú bằng máy xạ trong suất liều cao vẫn còn đang là vấn đề mới mẻ. Hy vọng trong vài năm tới, kỹ thuật này sẽ được các cơ sở xạ trị áp dụng rộng rãi, tạo bước phát triển đi lên ngang tầm với khu vực và để người bệnh có cơ hội thừa hưởng được các phương thức tốt nhất trong điều trị bệnh ung thư. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aristei C, Tarducci R, Palumbo I (2009): Computed tomography for excision cavity localization and 3Dtreatmentplanning in partial breast irradiation with high-dose-rateinterstitial brachytherapy. Radiother Oncol , 90:43- 47. 2. Arthur DW, Winter K, Kuske RR, et la (2008), A Phase II trial of brachytherapy aloneafter lumpectomy for select breast cancer: tumor control and survivaloutcomes of RTOG 95-17. Int J Radiat Oncol Biol Phys, 72:467-473. 3. Chen PY, Vicini FA, Benitez P, et la (2006): Long-term cosmetic results and toxicity after acceleratedpartial-breast irradiation: a method of radiation delivery by interstitialbrachytherapy for the treatment of early-stage breast carcinoma. Cancer, 106:991-999. 4. Guinot JL, Roldan S, Maronas M, Tortajada I, et la (2007),Breast- conservative surgery withclose or positive margins: can the breast be preserved with high-doseratebrachytherapy boost? Int J Radiat Oncol Biol Phys ,68:1381-1387. 5. Johansson B, Karlsson L, Liljegren G, Hardell L, Persliden J (2009), Pulsed dose ratebrachytherapy as the sole adjuvant radiotherapy after breast-conserving surgery of T1-T2 breast cancer: first long time results from a clinicalstudy. Radiother Oncol, 90:30-35.
File đính kèm:
truong_hop_xa_tri_bao_ton_ung_thu_vu_giai_doan_som_bang_may.pdf

