Trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ đa khoa trong quá trình thực tập lâm sàng

Trở ngại tâm lý trong giao tiếp là một trong những rào cản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả giao tiếp của

sinh viên y trong các mối quan hệ cũng như kết quả học tập tại cơ sở y tế. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên

433 sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi

sinh viên tự điền nhằm mô tả một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của các em khi đi thực tập lâm sàng. Kết

quả cho thấy đa số sinh viên đều gặp trở ngại này trong tuần đầu tiên đi lâm sàng với các mức độ khác nhau.

Có tới 56,3% thường xuyên lúng túng, không giải thích được khi bệnh nhân hỏi; 39,1% rụt rè, không tự tin

trao đổi với bác sỹ, điều dưỡng, thầy cô; 15 % bất đồng ý kiến với bạn trong học tập. Từ tuần thứ 2 trở đi, các

trở ngại tâm lý đã giảm nhưng vẫn là rào cản giao tiếp với không ít sinh viên. Đề xuất giải pháp khắc phục

những trở ngại này giúp nâng cao hiệu quả giao tiếp và học tập lâm sàng cho sinh viên là hết sức cần thiết.

pdf 10 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ đa khoa trong quá trình thực tập lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ đa khoa trong quá trình thực tập lâm sàng

Trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ đa khoa trong quá trình thực tập lâm sàng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
210 TCNCYH 130 (6) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thu Thủy,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/05/2020
Ngày được chấp nhận: 05/08/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giao tiếp có vai trò hết sức quan trọng đối 
với những ngành nghề mà đối tượng tác động 
trực tiếp là con người, đặc biệt là nghề y. Nhờ 
có giao tiếp mà người thầy thuốc thu thập được 
các thông tin về bệnh tật, thực hiện quá trình 
thăm khám và chăm sóc, điều trị có hiệu quả.1–4 
Tuy nhiên trên thực tế, giao tiếp ứng xử giữa 
nhân viên y tế với người bệnh, với gia đình của 
họ đâu đó cũng còn nhiều vấn đề gây ra những 
xung đột, hiểu nhầm và ảnh hưởng không nhỏ 
đến các mối quan hệ cũng như hiệu quả chăm 
sóc, điều trị. Nhiều nhân viên y tế cũng thừa 
nhận rằng giao tiếp kém là một trong những vấn 
đề phổ biến trong thực hành y khoa.5 Giao tiếp 
kém không chỉ dẫn đến rủi ro, sự cố y khoa mà 
còn là 1 trong những nguyên nhân hàng đầu 
gây tử vong nhưng có thể phòng ngừa được tại 
Bệnh viện.5,6 Đối với sinh viên, nghiên cứu của 
tác giả Đào Văn Long chỉ ra phần lớn sinh viên 
y mới ra trường còn yếu về giao tiếp.7
Ngay từ năm thứ 3, sinh viên hệ bác sỹ 
nói chung và ngành bác sỹ Đa khoa nói riêng, 
Trường Đại học Y Hà Nội bắt đầu đi thực tập 
lâm sàng tại Bệnh viện. Giao tiếp tốt với người 
bệnh, với nhân viên y tế, với sinh viên khác sẽ 
giúp các em thiết lập được các mối quan hệ, nhờ 
đó mà quá trình khai thác thông tin, thăm khám 
bệnh nhân cũng như thực hiện các nhiệm vụ 
học tập thuận lợi hơn. Mặc dù trước khi đi lâm 
sàng, sinh viên được trang bị các kiến thức cần 
thiết về kỹ năng giao tiếp, nhưng khi áp dụng 
vào thực tế đã gặp phải rất nhiều khó khăn, đặc 
biệt là về mặt tâm lý khiến quá trình giao tiếp 
không đạt được hiệu quả cao.8 Nhiều em thiếu 
tự tin khi giao tiếp, e ngại khi tiếp xúc với người 
bệnh, lúng túng khi thăm khám, không linh hoạt 
và nhạy bén khi giải quyết các tình huống xảy 
ra trong quá trình giao tiếp. Điều này có thể 
khiến người bệnh từ chối hợp tác, không cho 
hỏi bệnh, thăm khám. Mặt khác, giao tiếp kém 
TRỞ NGẠI TÂM LÝ TRONG GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN NĂM 
THỨ 3 NGÀNH BÁC SỸ ĐA KHOA TRONG QUÁ TRÌNH 
THỰC TẬP LÂM SÀNG 
Nguyễn Thị Thu Thuỷ , Đặng Thuỳ Dương
Trường Đại học Y Hà Nội
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp là một trong những rào cản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả giao tiếp của 
sinh viên y trong các mối quan hệ cũng như kết quả học tập tại cơ sở y tế. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 
433 sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường Đại học Y Hà Nội. Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi 
sinh viên tự điền nhằm mô tả một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của các em khi đi thực tập lâm sàng. Kết 
quả cho thấy đa số sinh viên đều gặp trở ngại này trong tuần đầu tiên đi lâm sàng với các mức độ khác nhau. 
Có tới 56,3% thường xuyên lúng túng, không giải thích được khi bệnh nhân hỏi; 39,1% rụt rè, không tự tin 
trao đổi với bác sỹ, điều dưỡng, thầy cô; 15 % bất đồng ý kiến với bạn trong học tập. Từ tuần thứ 2 trở đi, các 
trở ngại tâm lý đã giảm nhưng vẫn là rào cản giao tiếp với không ít sinh viên. Đề xuất giải pháp khắc phục 
những trở ngại này giúp nâng cao hiệu quả giao tiếp và học tập lâm sàng cho sinh viên là hết sức cần thiết.
Từ khóa: Trở ngại tâm lý, giao tiếp, sinh viên y, thực hành lâm sàng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
211TCNCYH 130 (6) - 2020
với nhân viên y tế, với các sinh viên khác cũng 
làm cho quá trình thực tập lâm sàng của các 
em gặp nhiều trở ngại và kết quả học tập không 
đạt như mong muốn. Nghiên cứu về khó khăn 
trong giao tiếp của sinh viên trường Y Trabzon 
ở tại các phòng khám cho thấy: sinh viên gặp 
phải những vấn đề trong giao tiếp với các điều 
dưỡng (68%), với bệnh nhân (66%), với người 
hướng dẫn, trợ giúp học tập (59%) và với bác 
sĩ (44%). Ngoài ra, 27% sinh viên cho biết sự tự 
tin của mình giảm đi do các khó khăn trong giao 
tiếp và 20% nói rằng những vấn đề như vậy 
khiến các em khó thích nghi với việc học lâm 
sàng.9 Khảo sát tại Đại học Chicago cho thấy 
hơn 80% sinh viên đã trải qua các tình huống 
trong thực hành lâm sàng như: khó khăn khi 
giao tiếp với bệnh nhân và gia đình của họ, với 
nhân viên y tế và thiếu sự linh hoạt trong hoạt 
động nhóm.10 Tác giả Jianfei Xie khi nghiên cứu 
về khả năng giao tiếp của sinh viên cũng chỉ 
ra: Trong thời gian đầu đi thực hành lâm sàng, 
các em nhận thấy khó khăn nhất là giao tiếp với 
những người không quen biết.11 Tuy nhiên ở 
Việt Nam, các công trình nghiên cứu nhằm phát 
hiện những rào cản tâm lý trong giao tiếp của 
sinh viên y khoa khi đi thực tập lâm sàng chưa 
có nhiều. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề 
tài nghiên cứu: “Trở ngại tâm lý trong giao tiếp 
của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa 
Trường Đại học Y Hà Nội trong quá trình thực 
tập lâm sàng”, với mục tiêu: Mô tả thực trạng 
một số trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh 
viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường 
Đại học Y Hà Nội trong quá trình thực tập lâm 
sàng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu thực hiện trên sinh viên năm thứ 
3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường Đại học Y Hà 
Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn: (1) Sinh viên học năm 
thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường Đại học 
Y Hà Nội năm học 2019 – 2020; (2) Sinh viên 
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Sinh viên từ chối tham 
gia nghiên cứu.
2. Phương pháp
Địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại 
học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 9/2019 
đến tháng 5/2020. Thời gian thu thập số liệu từ 
2-12/3/2020.
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu: Toàn bộ sinh viên năm thứ 3 ngành 
bác sỹ Đa khoa Trường Đại học Y Hà Nội. Sau 
khi thu thập số liệu, chúng tôi thu được 438 
phiếu trả lời của đối tượng nghiên cứu. Trong 
quá trình xử lý số liệu đã loại bỏ 5 phiếu trả lời 
không hợp lệ và cỡ mẫu cuối cùng phân tích 
là 433.
Cách chọn mẫu: Chọn toàn bộ sinh viên 
năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa Trường Đại 
học Y Hà Nội
Các biến số nghiên cứu
Các biến số về thông tin chung của đối 
tượng nghiên cứu:
Giới tính; tính cách cá nhân; môn học đang 
đi thực tập; nơi thực tập; mức độ tự tin khi giao 
tiếp; thái độ đối với tầm quan trọng của kỹ năng 
giao tiếp.
Các biến số theo mục tiêu:
Tỷ lệ sinh viên gặp các trở ngại tâm lý trong 
giao tiếp với: bệnh nhân, thầy cô, nhân viên y 
tế, với các sinh viên khác.
Ảnh hưởng của trở ngại tâm lý đối với bản 
thân, kết quả học tập, các mối quan hệ 
Công cụ thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi điều tra được thiết kế 
dựa vào các biến số đã xây dựng. Bộ câu hỏi 
gồm 3 phần: Thông tin chung về đối tượng 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
212 TCNCYH 130 (6) - 2020
nghiên cứu; Những trở ngại tâm lý trong giao 
tiếp của sinh viên trong quá trình thực tập lâm 
sàng; Ảnh hưởng của những trở ngại này và 
các biện pháp khắc phục (theo ý kiến của sinh 
viên). 
Bộ câu hỏi được xây dựng trên cơ sở: Phân 
tích, tổng hợp các tài liệu, đặc biệt là các tác giả 
trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề này 
trên chính đối tượng sinh viên y khoa để định 
hướng những nội dung cần khảo sát. Tiến hành 
6 cuộc thảo luận nhóm với 32 sinh viên năm 
thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa, Trường Đại học 
Y Hà Nội vào thời điểm sau khi đi lâm sàng nội 
và ngoại để tìm hiểu cụ thể về những trở ngại 
tâm lý trong giao tiếp mà các em gặp phải. Từ 
đó xây dựng bộ câu hỏi điều tra và tiến hành 
điều tra thử trên nhóm sinh viên Y3 ngành bác 
sỹ Đa khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, sau đó 
chỉnh sửa lại dựa trên những góp ý để đảm bảo 
nội dung bộ câu hỏi được hiểu rõ ràng, chính 
xác, đủ ý và logic. Hoàn chỉnh bộ câu hỏi và tiến 
hành điều tra chính thức.
Quy trình thu thập số liệu
Liên hệ phòng Đào tạo Đại học để xem lịch 
học của đối tượng nghiên cứu. Số liệu được thu 
thập vào thời điểm thích hợp trong các buổi học 
lí thuyết để ít ảnh hưởng nhất đến thời gian học 
tập của sinh viên.
Trước khi phát phiếu điều tra, sinh viên 
được giải thích đầy đủ mục đích, tính bảo mật 
của nghiên cứu, xin ý kiến đồng ý tham gia và 
được hướng dẫn trả lời.
Điều tra viên giám sát quá trình điền phiếu, 
nhắc nhở sinh viên kiểm tra đầy đủ thông tin 
tránh bỏ sót trước khi nộp, kiểm tra phiếu sau 
khi hoàn thành cũng như số lượng phiếu phát 
ra và số lượng phiếu thu về.
3. Xử lý số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập liệu bằng 
chương trình EpiData 3.1 và phân tích bằng 
phần mềm STATA 15. Sử dụng phương pháp 
phân tích thống kê mô tả: tần suất, tỷ lệ %.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban giám 
hiệu, Viện Đào tạo Y học dự phòng & Y tế 
công cộng, phòng Quản lý & Đào tạo Đại học, 
Trường Đại học Y Hà Nội.
Việc tham gia nghiên cứu của sinh viên là 
hoàn toàn tự nguyện sau khi được giải thích rõ 
về mục đích và nội dung nghiên cứu.
Thông tin thu thập trung thực, khách quan, 
chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu và hoàn 
toàn được bảo mật.
 III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên 
cứu
Nghiên cứu có 433 sinh viên tham gia, trong 
đó có 195 nam (45%) và 238 nữ (55%). Tỷ lệ 
sinh viên có tính cách hướng nội (61,2%) nhiều 
hơn hướng ngoại (38,8%). Có 41,8% sinh viên 
đang thực tập lâm sàng Nội, 58,2% sinh viên 
thực tập lâm sàng Ngoại. Phần lớn sinh viên 
(71,6%) đều nhận thức được vai trò quan trọng 
của giao tiếp trong thực hành y khoa, đặc biệt 
hơn một nửa số sinh viên (58,4%) cảm thấy 
khá tự tin khi giao tiếp. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
213TCNCYH 130 (6) - 2020
 2. Thực trạng những trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ 3 trong quá trình 
thực tập lâm sàng
Bảng 1. Trở ngại tâm lý mà sinh viên thường xuyên gặp phải trong giao tiếp với bệnh nhân 
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp trong 
tuần đầu tiên
%
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp 
từ tuần thứ 2 trở đi
%
1. Lúng túng, không giải thích được khi 
bệnh nhân hỏi do hiểu biết về các kiến 
thức chuyên ngành còn hạn chế.
56,3
1. Lúng túng, không giải thích được khi 
bệnh nhân hỏi do hiểu biết về các kiến 
thức chuyên ngành còn hạn chế.
27,5
2. Lúng túng, rụt rè khi hỏi bệnh, hỏi 
lộn xộn, không logic.
52,0
2. Lúng túng, rụt rè khi hỏi bệnh, hỏi lộn 
xộn, không logic.
14,5
3. Diễn đạt chưa rõ ràng, chưa biết đặt 
những câu hỏi đơn giản, dễ hiểu, phải 
hỏi đi, hỏi lại nhiều lần.
44,3
3. Kỹ năng thuyết phục, giải thích để 
người bệnh hợp tác với mình còn hạn 
chế.
18,9
4. Nhìn nhận định kiến về người bệnh, 
nhìn hình dáng bên ngoài để đánh giá, 
nhận xét.
43,4
4. Nhìn nhận định kiến về người bệnh, 
nhìn hình dáng bên ngoài để đánh giá, 
nhận xét.
18,5
5. Nhìn nhận thấp bản thân, cho rằng 
mình đi học, có vị trí, vai trò thấp trong 
Bệnh viện.
43,4
5. Nhìn nhận thấp bản thân, cho rằng 
mình là sinh viên đi học, có vị trí, vai trò 
thấp trong Bệnh viện.
26,1
6. Không biết cách tiếp xúc, làm quen 
với người bệnh và phát triển cuộc nói 
chuyện
42,1
6. Lúng túng, sợ, không tự tin giao tiếp, 
hỏi người bệnh khi có mặt của thầy cô/
nhân viên y tế.
15,7
7. Chưa biết cách tạo không khí thân 
mật, gần gũi, động viên, an ủi để tạo 
thiện cảm và hiểu người bệnh hơn.
41,1
7.Chưa biết cách động viên, an ủi để tạo 
thiện cảm và hiểu hơn về người bệnh.
14,0
8. Chưa hiểu biết đầy đủ về người 
bệnh. (Tuổi tác, mong muốn, nhu 
cầu, tâm tư, tình cảm, cảm xúc, hoàn 
cảnh,)
40,2
8. Cảm giác sợ hãi, lo lắng khi tiếp xúc 
với người bệnh nặng/bệnh da liễu hoặc 
khả năng lây nhiễm cao.
14,5
9. Chưa tích cực, chủ động trong giao 
tiếp với người bệnh.
39,5
9. Chưa tích cực, chủ động trong giao 
tiếp với người bệnh.
15,2
10. Chưa có kiến thức, kinh nghiệm 
giao tiếp nên hạn chế, không tự mình 
tiếp xúc, hỏi bệnh khi đi thực tập lâm 
sàng.
34,2
10. Nghe anh chị, bạn bè nói về trải 
nghiệm không tốt nên hạn chế/không 
tiếp xúc với người bệnh
18,0
Trong quá trình thực tập lâm sàng, phần lớn sinh viên đều gặp phải trở ngại tâm lý trong giao 
tiếp ở những khía cạnh nhất định, trong đó phổ biến nhất là các trở ngại tâm lý trong giao tiếp với 
bệnh nhân. Điển hình, có tới 56,3% sinh viên thường xuyên lúng túng không giải thích được khi 
bệnh nhân hỏi do kiến thức chuyên ngành còn hạn chế, 52% sinh viên lúng túng rụt rè khi hỏi/khám 
bệnh, hỏi bệnh lung tung, lộn xộn, không logic. Đây cũng là 2 trở ngại các em gặp phải nhiều nhất 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
214 TCNCYH 130 (6) - 2020
trong tuần đầu tiên đi học. Bên cạnh đó, không ít sinh viên chưa biết cách diễn đạt ý rõ ràng khi hỏi 
bệnh (44,3%), nhìn nhận định kiến về người bệnh (43,4%) hay tự nhìn nhận thấp bản thân (43,4%) 
(Bảng 1).
Từ tuần thứ 2 trở đi, tần suất gặp phải các trở ngại tâm lý trong giao tiếp với bệnh nhân đã giảm 
đi khá nhiều. Tuy nhiên, “Lúng túng không giải thích được khi bệnh nhân hỏi do kiến thức chuyên 
ngành còn hạn chế” vẫn là trở ngại có tỷ lệ sinh viên thường xuyên gặp phải ở mức cao nhất 27,5%. 
Nghe anh, chị/bạn bè nói về trải nghiệm không tốt nên có tới 18% sinh viên hạn chế/không tiếp xúc 
với người bệnh. Ngoài ra, “Sợ hãi lo lắng khi tiếp xúc với người bị bệnh nặng/bệnh da liễu hoặc khả 
năng lây nhiễm cao  cũng là rào cản giao tiếp đối với không ít sinh viên (Bảng 1). 
Bảng 2. Trở ngại tâm lý mà sinh viên thường xuyên gặp phải trong giao tiếp với 
thầy cô, nhân viên y tế 
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp trong 
tuần đầu tiên
%
Trở ngại tâm lý trong giao tiếp 
từ tuần thứ 2 trở đi
%
1. E ngại, rụt rè, không tự tin trao đổi 
các vấn đề trong học tập với các bác 
sỹ, điều dưỡng, thầy cô.
39,1
1. E ngại, rụt rè, không tự tin trao đổi 
các vấn đề trong học tập với các bác sỹ, 
điều dưỡng, thầy cô.
12,7
2. Có suy nghĩ là các bác sỹ, điều 
dưỡng rất bận nên hạn chế hỏi.
35,5
2. Có suy nghĩ là các bác sỹ, điều 
dưỡng rất bận nên hạn chế hỏi.
17,3
3. Nhìn các bác sỹ, điều dưỡng 
nghiêm nghị nên sợ, không dám giao 
tiếp.
27,7
3. Nhìn các bác sỹ, điều dưỡng nghiêm 
nghị nên sợ, không dám giao tiếp.
12,1
4. Cảm thấy mình nhút nhát, kỹ năng 
giao tiếp kém, tâm lý giấu dốt nên 
không trao đổi với thầy cô về các khúc 
mắc khi học lâm sàng.
25,6
4. Cảm thấy mình nhút nhát, kỹ năng 
giao tiếp kém, tâm lý giấu dốt nên không 
trao đổi với thầy cô về các khúc mắc khi 
học lâm sàng.
12,4
5. Có cảm giác thầy cô xa cách nên 
ngại trò chuyện, giao tiếp.
20,5
5. Có cảm giác thầy cô xa cách nên ngại 
trò chuyện, giao tiếp.
10,6
Trong giao tiếp với thầy cô, nhân viên viên 
y tế tại cơ sở thực tập, “E ngại, rụt rè, không tự 
tin trao đổi các vấn đề khó khăn trong học tập” 
là trở ngại tâm lý mà có tới 39,1% sinh viên 
thường xuyên gặp phải trong tuần đầu tiên đi 
học. Bên cạnh đó, vẫn còn khá nhiều sinh viên 
25,6% cảm thấy mình “Nhút nhát, kỹ năng giao 
tiếp kém, tâm lý giấu dốt” nên không dám hỏi 
thầy cô khi gặp khúc mắc trong quá trình học 
lâm sàng (Bảng 2).
Từ tuần thứ 2 trở đi, các trở ngại trong giao 
tiếp mà sinh viên gặp phải đã giảm đi so với 
tuần đầu tiên. Rào cản tâm lý như “E ngại, rụt 
rè, không tự tin trao đổi các vấn đề trong học 
tập”, “Cảm thấy m ...  giải 
thích để 
người bệnh 
hiểu, hợp 
tác với sinh 
viên
Tự trau dồi 
rèn luyện 
kỹ năng 
giao tiếp cá 
nhân, kỹ 
năng làm 
việc nhóm
Thầy cô 
nhắc lại 
các kĩ năng 
giao tiếp 
khi dạy học 
lâm sàng
45,3
67,4
96,1 95,4
89,6
96,5
89,2
%
đến, cảm giác “khó chịu, bực bội, ức chế vì những bất hòa, hiểu nhầm, xung đột với bạn bè” (6% 
thường xuyên gặp phải trong tuần đầu và tỷ lệ này là 3% từ tuần thứ 2 trở đi); “Khó hòa đồng, khó 
tâm sự, chia sẻ với bạn bè khi gặp những vấn đề khúc mắc khi thực tập” (5,1% thường xuyên gặp 
phải trong tuần đầu và vẫn còn 3% gặp phải từ tuần thứ 2 trở đi) cũng là những rào cản giao tiếp đối 
với không ít sinh viên.
3. Ảnh hưởng của những trở ngại tâm lý trong giao tiếp và đề xuất của sinh viên về các biện 
pháp khắc phục trở ngại tâm lý trong giao tiếp 
Biểu đồ 1. Ảnh hưởng của những trở ngại tâm lý trong giao tiếp đối với sinh viên
Kết quả nghiên cứu cho thấy, các trở ngại tâm lý trong giao tiếp đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc 
học tập, rèn luyện các kỹ năng lâm sàng của sinh viên. Cụ thể, rào cản tâm lý đã khiến cho 76,9% 
sinh viên “Không khai thác được hoặc khai thác không đầy đủ các thông tin cần thiết từ bệnh nhân” 
và 72,1% sinh viên “Bị bệnh nhân từ chối tiếp xúc, không hợp tác”, từ đó làm cho buổi học lâm sàng 
“Không đạt được kết quả như mong muốn”. Không những thế, 45,5% sinh viên còn cảm thấy trở ngại 
tâm lý làm cho nhân viên y tế, người bệnh và gia đình của họ không tin tưởng (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 2. Một số biện pháp khắc phục trở ngại tâm lý trong giao tiếp của sinh viên khi đi 
thực hành lâm sàng (theo ý kiến của sinh viên)
0,0 20,0 40,0 60,0 80,0
Khai thác không đầy đủ các thông tin từ bệnh nhân
Bệnh nhân từ chối tiếp xúc gây khó khăn trong việc 
học lâm sàng
Không tiếp xúc được nhiều với bệnh nhân nên các 
kĩ năng không được cải thiện
Không học được nhiều trong các buổi đi lâm sàng, 
lãng phí thời gian.
Tâm trạng chán nản, cảm giác sợ, căng thẳng mỗi 
khi đi lâm sàng
Khó thực hiện, hoàn thành mục tiêu học tập trong 
các buổi học
Kết quả học tập lâm sàng không đạt được như mình 
mong muốn
Chưa tạo được sự tin tưởng của nhân viên y tế, 
người bệnh và gia đình của họ
1,4
3,9
3,5
6,7
9,2
7,2
7,2
9,5
21,7
24,0
31,9
31,4
32,3
34,9
29,8
45,0
76,9
72,1
64,6
61,9
58,4
57,9
63,0
45,5
%
Ảnh hưởng nhiều Ảnh hưởng ít Không ảnh hưởng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
216 TCNCYH 130 (6) - 2020
Để khắc phục trở ngại tâm lý trong giao tiếp, 
hầu hết sinh viên đều cho rằng: Bản thân cần 
tự rèn luyện kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc 
nhóm (96,5%); Được các thầy cô và anh chị 
khóa trên chia sẻ kinh nghiệm khi đi lâm sàng 
(96,1%). Đặc biệt được nhân viên y tế tại cơ 
sở thực hành giải thích cho người bệnh để họ 
nhiệt tình giúp đỡ, hợp tác với sinh viên (89,6%) 
(Biểu đồ 2).
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Lúng túng, 
không giải thích được khi bệnh nhân hỏi do hiểu 
biết về các kiến thức chuyên ngành còn hạn 
chế là khó khăn sinh viên thường xuyên gặp 
nhất khi đi thực tập lâm sàng trong tuần đầu 
tiên (56,3%). Nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa trên sinh viên 
Sư phạm năm thứ 4 cũng cho thấy tỉ lệ sinh viên 
sợ mắc lỗi kiến thức khi giao tiếp ở mức cao, 
40% sinh viên khoa tự nhiên và 35% sinh viên 
khoa xã hội thường xuyên gặp phải.12 Kết quả 
này thấp hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi. 
Điều này có thể do sự khác biệt về đối tượng 
nghiên cứu. Sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ 
Đa khoa bắt đầu học các môn chuyên ngành 
Nội, Ngoại, nên kiến thức của các em còn hạn 
chế, chưa thể giải thích rõ ràng, chính xác khi 
bệnh nhân hỏi. Trong khi đó sinh viên sư phạm 
năm thứ 4 (năm cuối) đã được trang bị đầy đủ 
các kiến thức chuyên môn nên tỉ lệ gặp trở ngại 
này thấp hơn.
Rụt rè, ngại ngùng khi giao tiếp với người 
bệnh (39,5%) hoặc thường xuyên phải đối mặt 
với các áp lực tâm lý do chính bản thân tạo 
ra như căng thẳng, lo lắng thái quá, hồi hộp, 
run khi giao tiếp với bệnh nhân (30,2%) cũng 
là những rào cản nhiều em gặp phải trong tuần 
đầu thực tập lâm sàng. Kết quả này tương đồng 
với kết quả nghiên cứu của Gomes AI: Sợ phải 
tiếp xúc với bệnh nhân, thiếu tự tin và cảm giác 
lo lắng là những nguyên nhân khiến nhiều sinh 
viên trở nên xa cách với bệnh nhân.13 Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng cho thấy có 44,3% sinh 
viên diễn đạt còn chưa rõ ràng, chưa biết đặt 
câu hỏi đơn giản, dễ hiểu, phải hỏi đi, hỏi lại 
nhiều lần. Tỉ lệ trên cao hơn kết quả nghiên cứu 
của Đậu Minh Long trên sinh viên Trường Đại 
học Sư phạm, Đại học Huế: 17,5% có tâm trạng 
hồi hộp, lo lắng; 10% có cảm giác căng thẳng, 
lúng túng, sợ sệt khi giao tiếp và 20 % diễn đạt 
không rõ ràng hoặc không dám trình bày ý đồ 
giao tiếp.14 Sự khác biệt này có thể do đối tượng 
giao tiếp của sinh viên y là những người bệnh ở 
các độ tuổi, giới tính, vùng miền, hiểu biết khác 
nhau mà trên thực tế các em có thể chưa gặp 
và tiếp xúc nhiều, chính vì vậy nhiều em có tâm 
lý lo lắng, mất bình tĩnh khi tiếp xúc cũng là điều 
dễ hiểu, trong khi đối tượng giao tiếp của sinh 
viên sư phạm đơn thuần là học sinh phổ thông.
Từ tuần thứ 2 trở đi, trở ngại tâm lý mà các 
em gặp nhiều nhất là nhìn nhận thấp bản thân, 
cho rằng mình đi học, có vị trí, vai trò thấp trong 
Bệnh viện. Nghiên cứu của tác giả Gilmartin 
cũng cho thấy sinh viên y lo lắng bị bệnh nhân 
và người nhà từ chối vì bản thân chỉ là sinh 
viên.15 Tiếp đến là kỹ năng thuyết phục, giải 
thích để người bệnh hợp tác với mình còn hạn 
chế (18,9% thường xuyên gặp phải). Do kỹ 
năng giao tiếp chưa tốt và thiếu kinh nghiệm 
nên khi gặp tình huống bệnh nhân từ chối tiếp 
xúc nhiều em không biết cách xử lý thế nào 
nên không tiếp xúc với bệnh nhân đó nữa. 
Bên cạnh đó, số lượng sinh viên thực tập tại 
các khoa phòng thường đông nên không tránh 
khỏi việc phải tập trung đi thành nhóm cùng hỏi 
một bệnh nhân, do đó cơ hội tiếp xúc với nhiều 
bệnh nhân cũng bị hạn chế dẫn đến khả năng 
thuyết phục, giải thích để người bệnh hợp tác 
là vấn đề không dễ dàng cải thiện được. Kết 
quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác 
giả Lê Thu Hoà trên sinh viên Trường Đại học Y 
Hà Nội: Khi giao tiếp không hiệu quả và người 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
217TCNCYH 130 (6) - 2020
bệnh không đồng ý cung cấp thông tin đã có 
tới 58,9% sinh viên phải dừng cuộc giao tiếp 
với người bệnh16. Có sự khác biệt này là do 
đối tượng nghiên cứu của tác giả Lê Thu Hoà 
là sinh viên từ năm thứ 3 đến năm thứ 6 năm 
học 2011-2012, tại thời điểm này chương trình 
đào tạo bác sỹ Đa khoa của Trường Đại học Y 
Hà Nội chưa có môn Kỹ năng giao tiếp, điều đó 
khiến các em gặp rất nhiều khó khăn trong giao 
tiếp với người bệnh.
Ngoài ra, trong tuần đầu thực tập 21,3% sinh 
viên cảm thấy ngại, khó khăn khi giao tiếp với 
bệnh nhân khác giới. Kết quả này có sự tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Gul M 
trên các sinh viên Đại học Y Ayub, Abbottabad 
27,3% cho biết họ gặp khó khăn khi giao tiếp 
với bệnh nhân khác giới.17
Bên cạnh đó, có 39,1% sinh viên thường 
xuyên e ngại, rụt rè, không tự tin trao đổi các 
vấn đề trong học tập với các bác sỹ, điều 
dưỡng, thầy cô đây chính là rào cản trong 
quá trình giao tiếp, gây bất lợi cho việc hoàn 
thành mục tiêu học tập. Từ tuần thứ 2 trở đi, tỷ 
lệ này đã giảm còn 12,7%. Tuy nhiên, đây vẫn 
là vấn đề khó khăn mà sinh viên thường xuyên 
gặp phải dù đã thực tập được 2 tuần.
Một trở ngại tâm lý khác cũng làm cản trở 
quá trình giao tiếp giữa sinh viên và thầy cô 
trong tuần đầu thực tập, đó là nhiều em cảm 
thấy mình nhút nhát, kỹ năng giao tiếp kém, 
tâm lý giấu dốt nên không trao đổi với thầy cô 
về các khúc mắc khi học lâm sàng (25,6%). 
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và 
Đinh Thị Kim Thoa trên sinh viên sư phạm cũng 
cho thấy 26% sinh viên khoa Xã hội thường 
xuyên gặp khó khăn trong giao tiếp với giảng 
viên do sợ bị đánh giá là không biết giao tiếp18. 
Từ tuần thứ 2 trở đi, tỷ lệ này đã giảm hơn một 
nửa, còn 12,4%. Điều này cho thấy sinh viên đã 
chú ý hơn trong việc cải thiện kỹ năng giao tiếp, 
khắc phục được tâm lý giấu dốt, nhút nhát và 
đã chủ động, tích cực trao đổi với thầy cô hơn 
về các vấn đề khúc mắc khi học lâm sàng.
Trong thời gian thực tập lâm sàng tại cơ sở 
y tế, bất đồng ý kiến với bạn bè là trở ngại tâm 
lý trong giao tiếp mà sinh viên gặp phải nhiều 
nhất với tỷ lệ 15% trong 1 tuần đầu và 9,7% từ 
tuần thứ 2 trở đi. Tỷ lệ các em cảm thấy e ngại, 
không dám hỏi các anh chị khóa trên khi gặp 
khó khăn cũng giảm từ 7,4% trong tuần đầu 
xuống 3,2% từ tuần thứ 2. Điều này có thể là 
do sau 1 tuần thực tập, các em đã quen dần với 
môi trường học lâm sàng, đã hiểu rõ các công 
việc cần làm trong Bệnh viện, tránh được các 
bất đồng quan điểm với các bạn và cũng xóa đi 
được phần nào cảm giác e ngại, nhút nhát từ 
đó tích cực hơn trong việc trao đổi các vấn đề 
học tập với các anh chị khoá trên và bạn bè.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ gặp phải trở ngại tâm lý trong giao tiếp 
của sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa 
là khá cao, trong đó phổ biến nhất là các trở 
ngại tâm lý trong giao tiếp với bệnh nhân như: 
Lúng túng, không giải thích được khi bệnh nhân 
hỏi (56,3%); Lúng túng khi hỏi bệnh, hỏi lộn xộn, 
không logic (52%). Bên cạnh đó, nhiều em còn 
rụt rè, không tự tin trao đổi với các bác sỹ, điều 
dưỡng, thầy cô (39,1%) và có những bất đồng 
ý kiến với bạn cùng học (15%).
Các rào cản tâm lý đã khiến 76,9% sinh viên 
không thác được/khai thác không đầy đủ các 
thông tin cần thiết từ bệnh nhân và 72,1% bị 
bệnh nhân từ chối tiếp xúc, không hợp tác. Để 
cải thiện kỹ năng giao tiếp khi học lâm sàng, 
biện pháp mà hầu hết sinh viên mong muốn 
là được các thầy cô và anh chị khóa trên chia 
sẻ kinh nghiệm khi đi lâm sàng, đặc biệt là các 
tình huống giao tiếp có thể gặp trong thực tế 
(96,1%).
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
218 TCNCYH 130 (6) - 2020
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám 
Hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo Đại học, Phòng 
Công tác sinh viên, Viện ĐTYHDP & YTCC và 
sinh viên năm thứ 3 ngành bác sỹ Đa khoa năm 
học 2019 - 2020, Trường Đại học Y Hà Nội đã 
tạo điều kiện giúp đỡ chúng tôi hoàn thành 
nghiên cứu này.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Choudhary A, Gupta V. Teaching 
communications skills to medical students: 
Introducing the fine art of medical practice. Int J 
Appl Basic Med Res. 2015;5 (Suppl 1):S41-S44. 
doi:10.4103/2229-516X.162273
2. Hausberg MC, Hergert A, Kröger 
C, Bullinger M, Rose M, Andreas S. 
Enhancing medical students’ communication 
skills: development and evaluation of an 
undergraduate training program. BMC Med 
Educ. 2012;12:16. doi:10.1186/1472-6920-12-
16
3. Bakić-Mirić N, Bakic N. Successful doctor-
patient communication and rapport building as 
the key skills of medical practice. In: Medicine 
and Biology. Vol 15. ; 2008:74-79.
4. Rider EA, Hinrichs MM, Lown BA. A 
model for communication skills assessment 
across the undergraduate curriculum. 
Med Teach. 2006;28 (5):e127-134. 
doi:10.1080/01421590600726540
5. Taran S. An Examination of the Factors 
Contributing to Poor Communication Outside 
the Physician-Patient Sphere. Mcgill J Med. 
2011;13 (1). Accessed November 23, 2019. 
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/
PMC3277343/
6. Sutcliffe KM, Lewton E, Rosenthal 
MM. Communication failures: an insidious 
contributor to medical mishaps. Acad Med. 
2004;79 (2):186-194. doi:10.1097/00001888-
200402000-00019
7. Đào Văn Long, Nguyễn Thị Đoàn Hương. 
Dự án Đẩy mạnh huấn luyện kĩ năng trên lâm 
sàng tại 8 trường/khoa Y Việt Nam. In: Kỹ Năng 
Y Khoa Cơ Bản. Nhà xuất bản Y học; 2009.
8. Huyền Phan. Những trở ngại tâm lý khi 
giao tiếp. Tạp chí Dân trí số. Published online 
1995.
9. Öztürk H, Çilingir T, Şenel P. 
Communication Proplems Experienced by 
Nursing Students in Clinics. Procedia - Social 
and Behavioral Sciences. 2013;93:2227-2232. 
doi:10.1016/j.sbspro.2013.10.194
10. Houpy JC, Lee WW, Woodruff JN, 
Pincavage AT. Medical student resilience and 
stressful clinical events during clinical training. 
Med Educ Online. 2017;22 (1). doi:10.1080/10
872981.2017.1320187
11. Xie J, Ding S, Wang C, Liu A. An 
evaluation of nursing students’ communication 
ability during practical clinical training. Nurse 
Education Today. 2013;33 (8):823-827. 
doi:10.1016/j.nedt.2012.02.011
12. Nguyễn Thị Mỹ Lộc. Những rào cản tâm 
lý trong giao tiếp của sinh viên sư phạm trong 
quá trình triển khai các hình thức dạy học theo 
chế độ tín chỉ. Tạp chí Tâm lý học. 2009; (11):1-
7.
13. Grilo AM, Santos MC, Rita JS, Gomes 
AI. Assessment of nursing students and nurses’ 
orientation towards patient-centeredness. 
Nurse Education Today. 2014;34 (1):35-39. 
doi:10.1016/j.nedt.2013.02.022
14. Đậu Minh Long. Những trở ngại tâm 
lý trong giao tiếp của sinh viên năm thứ nhất, 
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. Tạp 
chí Tâm lý học. 2007; (3):16-19.
15. Gilmartin J. Teachers’ understanding of 
facilitation styles with student nurses. Int J Nurs 
Stud. 2001;38 (4):481-488. doi:10.1016/s0020-
7489 (00)00085-7
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
219TCNCYH 130 (6) - 2020
16. Lê Thu Hòa (2014). Giao tiếp của sinh 
viên với người bệnh trong học lâm sàng. Tạp 
Chí Học Việt Nam, 424 (1), 90–94.
17. Gul M, Rasool A, Khalid LB, et al. 
Isolation of medical students: communication 
barrier and its effect on career. J Ayub Med Coll 
Abbottabad. 2012;24 (3-4):162-165.
18. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa. 
Những rào cản tâm lý trong giao tiếp của sinh 
viên Sư phạm trong quá trình triển khai các 
hình thức dạy học theo tín chỉ. Tạp chí Tâm 
lý học. 2012;11 (128). Accessed May 17, 2020. 
view/5939/5633
Summary
PSYCHOLOGICAL OBSTACLES IN THE COMMUNICATION OF 
THIRD-YEAR GENERAL PRACTITIONERS STUDENTS DURING 
CLINICAL PRACTICE 
The psychological barrier in communication is one of the major issue affecting the effectiveness 
of medical students in relationships as well as academic outcomes at health facilities. This is a 
cross-sectional study of 433 third-year students majoring in General Practitioner at Hanoi Medical 
University. The study used a self - sufficient questionnaire to describe some psychological obstacles 
in their communication during clinical practice. The results showed that most students encountered 
this obstacle during the first week of clinical research to varying degrees. Up to 56.3% are often 
nervous and unable to answer to the patients’ inquiry; 39.1% are timid and lack confidence to discuss 
with the attending doctors, nurses, or teachers; 15% does not get along with their classmates. 
From the 2nd week onwards, psychological obstacles have decreased but still remain as a barrier 
in communication with many students. It is essential to find solutions to help medical students to 
overcome these obstacles to improve the effectiveness of clinical communication and learning.
Keywords: Psychological obstacles, communication, medical students, clinical practice

File đính kèm:

  • pdftro_ngai_tam_ly_trong_giao_tiep_cua_sinh_vien_nam_thu_3_ngan.pdf