Triển vọng gỗ lớn của một số mô hình trồng các loài keo ở Bình Định và Phú Yên

TÓM TẮT

Nếu quan niệm rừng trồng gỗ lớn có đường kính ngang ngực trung bình

(D1,3) ≥ 18cm thì các mô hình trồng Keo lai (A. hybrids) từ 6 - 10 năm tuổi

trồng ở Bình Định và Phú Yên chưa có khả năng cung cấp gỗ lớn, mô hình

tốt nhất cũng chỉ có D1,3 ≈ 16,67cm, mô hình kém nhất có D1,3 ≈ 9,18cm; trữ

lượng gỗ cây đứng (M) cao nhất ≈ 133,51m3/ha, thấp nhất ≈ 57,96m3/ha/năm;

năng suất gỗ (∆M) cao nhất cũng chỉ đạt 19,07m3/ha/năm và thấp nhất là

9,06m3/ha/năm. Keo tai tượng (A. mangium) có hai mô hình điển hình đã có

khả năng cung cấp gỗ lớn, mô hình 10 năm tuổi ở Bình Định, đường kính

trung bình (D1,3) ≈23,38cm, trữ lượng gỗ cây đứng (M) ≈ 231,88m3/ha,

năng suất (∆M) ≈ 23,19m3/ha/năm. Mô hình 20 năm tuổi ở Phú Yên

có đường kính trung bình (D1,3) ≈35,63cm, trữ lượng gỗ cây đứng

(M) ≈ 305,03m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 15,25m3/ha/năm. Keo lá tràm có 04

mô hình trồng thuần loài và 01 mô hình trồng hỗn loài với Sao đen, trong

đó có 01 mô hình 14 năm tuổi, còn lại từ 20 - 21 năm tuổi. Xét về đường

kính thì chỉ có 01 mô hình trồng thuần loài 20 năm tuổi và 01 mô hình

trồng hỗn loài với Sao đen 21 năm tuổi ở Bình Định đã có khả năng cung

cấp gỗ lớn, đường kính (D1,3) ≈ 21,39 - 24,99cm, trữ lượng cây đứng

(M) ≈ 198,27 - 224,89m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 9,44 - 11,24m3/ha/năm.

Các mô hình còn lại có D1,3 ≈ 14,61 - 16,85cm, trữ lượng cây đứng

(M) ≈ 93,36 - 156,06m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 6,67 - 7,43m3/ha/năm. Tuy

nhiên, khả năng tăng trưởng về đường kính của hầu hết các mô hình đều khá

chậm, nếu áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp, các mô hình

này cũng rất có triển vọng cung cấp gỗ lớn trong khoảng từ 5 - 7 năm tới.

pdf 9 trang phuongnguyen 3020
Bạn đang xem tài liệu "Triển vọng gỗ lớn của một số mô hình trồng các loài keo ở Bình Định và Phú Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triển vọng gỗ lớn của một số mô hình trồng các loài keo ở Bình Định và Phú Yên

Triển vọng gỗ lớn của một số mô hình trồng các loài keo ở Bình Định và Phú Yên
Tạp chí KHLN 1/2016 (4199 - 4207) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
TRIỂN VỌNG GỖ LỚN CỦA MỘT SỐ MÔ HÌNH 
TRỒNG CÁC LOÀI KEO Ở BÌNH ĐỊNH VÀ PHÚ YÊN 
Nguyễn Huy Sơn, Phạm Đình Sâm 
Viện Nghiên cứu Lâm sinh, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
Từ khóa: Gỗ lớn, Keo lai 
(Acacia hybrid), Keo tai 
tượng (A. mangium), Keo 
lá tràm (A. auriculiformis), 
Bình Định, Phú Yên 
TÓM TẮT 
Nếu quan niệm rừng trồng gỗ lớn có đường kính ngang ngực trung bình 
(D1,3) ≥ 18cm thì các mô hình trồng Keo lai (A. hybrids) từ 6 - 10 năm tuổi 
trồng ở Bình Định và Phú Yên chưa có khả năng cung cấp gỗ lớn, mô hình 
tốt nhất cũng chỉ có D1,3 ≈ 16,67cm, mô hình kém nhất có D1,3 ≈ 9,18cm; trữ 
lượng gỗ cây đứng (M) cao nhất ≈ 133,51m3/ha, thấp nhất ≈ 57,96m3/ha/năm; 
năng suất gỗ (∆M) cao nhất cũng chỉ đạt 19,07m3/ha/năm và thấp nhất là 
9,06m3/ha/năm. Keo tai tượng (A. mangium) có hai mô hình điển hình đã có 
khả năng cung cấp gỗ lớn, mô hình 10 năm tuổi ở Bình Định, đường kính 
trung bình (D1,3) ≈23,38cm, trữ lượng gỗ cây đứng (M) ≈ 231,88m3/ha, 
năng suất (∆M) ≈ 23,19m3/ha/năm. Mô hình 20 năm tuổi ở Phú Yên 
có đường kính trung bình (D1,3) ≈35,63cm, trữ lượng gỗ cây đứng 
(M) ≈ 305,03m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 15,25m3/ha/năm. Keo lá tràm có 04 
mô hình trồng thuần loài và 01 mô hình trồng hỗn loài với Sao đen, trong 
đó có 01 mô hình 14 năm tuổi, còn lại từ 20 - 21 năm tuổi. Xét về đường 
kính thì chỉ có 01 mô hình trồng thuần loài 20 năm tuổi và 01 mô hình 
trồng hỗn loài với Sao đen 21 năm tuổi ở Bình Định đã có khả năng cung 
cấp gỗ lớn, đường kính (D1,3) ≈ 21,39 - 24,99cm, trữ lượng cây đứng 
(M) ≈ 198,27 - 224,89m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 9,44 - 11,24m3/ha/năm. 
Các mô hình còn lại có D1,3 ≈ 14,61 - 16,85cm, trữ lượng cây đứng 
(M) ≈ 93,36 - 156,06m3/ha, năng suất (∆M) ≈ 6,67 - 7,43m3/ha/năm. Tuy 
nhiên, khả năng tăng trưởng về đường kính của hầu hết các mô hình đều khá 
chậm, nếu áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp, các mô hình 
này cũng rất có triển vọng cung cấp gỗ lớn trong khoảng từ 5 - 7 năm tới. 
Keywords: Sawlog, 
Acacia hybrid, Acacia 
mangium, Acacia 
auriculiformis, Binh Dinh 
and Phu Yen 
The potential sawlog production of acacia plantations in Binh Dinh 
and Phu Yen 
If requirement of diameter at breast height (DBH) for sawlog is greater 
than 18 cm, almost Acacia hybrid plantation within 6 - 10 year - old in 
Binh Dinh and Phu Yen province cannot meet this requirement; DBH, 
standing volume and MAI of the poorest and fastes growth rate 
plantations were 9.18 and 16.67 cm, 57.96 and 133.51 m3/ha, and 9.06 and 
19.07 m3/ha/year, respectively. For Acacia mangium, there are only two 
plantations which were 10 year - old in Binh Dinh province having DBH, 
standing volume and MAI of 23.38 cm, 231.88 m3/ha and 23.19 m3/ha/year, 
respectively. There was a 20 year - old plantation in Phu Yen province 
which had DBH, standing volume and MAI of 35.63 cm, 305.03 m3/ha 
and 15.25 m3/ha/year, respectively. For Acacia auriculiformis, there were 
four single - species plantations (pure A. auriculiformis) and a mixed - 
species plantation (A. auriculiformis + Hopea odorata); one of them was 
14 year - old and the others were 20 - 21 year - old. However, only one 20 
year - old single - species plantation and the 21 year - old mixed - species 
plantation which have timber that can be used for sawlog; DBH, standing 
volume and MAI of 21.39 and 24.99 cm, 198.27 and 224.89 m3/ha and 
9.44 and 11.24 m3/ha/year, respectively. DBH, standing volume and MAI 
of the other plantations were 14.61 - 16.85 cm, 93.36 - 156.06 m3/ha, and 
6.67 - 7.43 m3/ha/year. DBH growth in almost plantation were low. 
Further intervention by silviculture techniques should be applied, so 
timber of these plantations can be used for sawlog in the next 5 - 7 years. 
 4199 
Tạp chí KHLN 2016 Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Một số loài keo đã được nhập vào trồng thử 
nghiệm ở miền Nam nước ta từ những năm 
1960 của thế kỷ trước, những năm 1980 tiếp 
tục nhập nhiều loài về trồng mở rộng trên 
phạm vi cả nước, mục tiêu chủ yếu là phủ 
xanh đất trống đồi trọc, theo đó một loạt các 
khảo nghiệm loài và xuất xứ được tiến hành ở 
nhiều vùng sinh thái khác nhau (Nguyễn 
Hoàng Nghĩa, 2003), và đã xác định được một 
số loài keo phù hợp và có triển vọng để trồng 
rừng kinh tế, trong đó có các loài Keo tai 
tượng (Acacia mangium), Keo lá tràm (Acacia 
auriculiformis) và Keo lá liềm (Acacia 
crassicarpa). Đồng thời đã phát hiện ra loài 
Keo lai (Acacia hybrids) ở nước ta, từ đó các 
nghiên cứu cải thiện giống cho các loài keo đã 
được quan tâm nhiều hơn. Hiện nay đã có 
hàng trăm giống keo được công nhận là giống 
tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia, chủ yếu sử 
dụng để trồng rừng cung cấp gỗ nhỏ làm 
nguyên liệu chế biến dăm và bột giấy với chu 
kỳ kinh doanh từ 6 - 7 năm, năng suất gỗ ở 
nhiều vùng sinh thái đã đạt trung bình từ 20 - 
25m3/ha/năm, thậm chí tới 30m3/ha/năm 
(Nguyễn Huy Sơn et al., 2006). Tuy nhiên, 
việc trồng rừng keo cung cấp gỗ lớn vẫn còn là 
khoảng trống cần được giải đáp trong thời gian 
tới. Để góp phần làm sáng tỏ vấn đề này, việc 
điều tra đánh giá các mô hình trồng keo có triển 
vọng làm gỗ lớn trong sản xuất ở các vùng sinh 
thái là cần thiết, đặc biệt là hai tỉnh Bình Định 
và Phú Yên có diện tích trồng keo tập trung khá 
lớn ở vùng Nam Trung Bộ, và đây cũng là 
trung tâm tiêu thụ gỗ lớn thứ 3 của cả nước, chỉ 
sau Tp. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Rừng trồng các loài Keo lai (Acacia hybrids), 
Keo tai tượng (A. mangium) và Keo lá tràm (A. 
auriculiformis) từ 6 - 21 năm tuổi ở hai tỉnh 
Bình Định và Phú Yên, là rừng sản xuất hoặc 
rừng phòng hộ có triển vọng cung cấp gỗ lớn. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
- Kế thừa 15 mô hình đã có trong sản xuất, 
trong đó có 08 mô hình keo lai, 02 mô hình 
Keo tai tượng, 04 mô hình Keo lá tràm trồng 
thuần loài và 01 mô hình Keo lá tràm trồng 
hỗn loài với Sao đen (Hopea odorata). 
- Điều tra sinh trưởng rừng trồng theo phương 
pháp ô tiêu chuẩn (OTC) điển hình tạm thời, 
diện tích 500m2, mỗi mô hình điều tra 3 OTC, 
đo đếm toàn bộ số cây trong OTC. 
- Các chỉ tiêu đo đếm gồm đường kính ngang 
ngực (D1,3), chiều cao vút ngọn (Hvn), chiều 
cao dưới cành (Hdc), đường kính tán lá (Dt), tỷ 
lệ sống (TLS). 
- Đo đường kính ngang ngực (D 1,3) bằng 
thước đo vanh có độ chính xác tới 1/10mm, đo 
chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới 
cành (Hdc) bằng sào đo cao khắc vạch đến dm, 
tỷ lệ sống xác định theo phương pháp thống kê 
số cây sống trên tổng số cây đã trồng. 
- Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê sinh 
học bằng phần mềm Excel. Thể tích cây đứng 
được tính theo công thức V = GHf. Trong đó, 
G là tiết diện ngang thân cây tại vị trí 1,3m, H 
là chiều cao vút ngọn, f là hệ số độ thon được 
xác định = 0,473 (Nguyễn Trọng Bình, 2003). 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Quan điểm về gỗ lớn 
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về 
gỗ lớn, một số ý kiến cho rằng nguyên liệu gỗ 
dùng để xẻ thì gọi là gỗ lớn, một số ý kiến 
khác lại cho rằng đầu nhỏ của khúc gỗ tròn dài 
2m phải ≥ 25cm mới gọi là gỗ lớn,... Tuy 
nhiên, trong thực tế hiện nay hầu hết các cơ sở 
sản xuất đang trồng rừng cây mọc nhanh gồm 
keo và bạch đàn để cung cấp nguyên liệu gỗ 
làm dăm và bột giấy, chu kỳ từ 6 - 7 năm, 
 4200 
Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) Tạp chí KHLN 2016 
thậm chí chỉ 4 - 5 năm đã khai thác. Ở giai 
đoạn tuổi này nếu được áp dụng các biện pháp kỹ 
thuật thâm canh, đường kính ngang ngực (D1,3) 
cao nhất cũng chỉ đạt từ 13 - 14cm (< 15cm), khi 
khai thác có thể tận thu đoạn gỗ ngọn có 
đường kính đầu nhỏ (Dn) ≥ 4cm, loại nguyên 
liệu này được gọi là gỗ nhỏ. Như vậy, gỗ nhỏ 
là khúc gỗ có đường kính trung bình < 15cm 
và đường kính đầu nhỏ ≥ 4cm. Ngoài ra, còn 
có loại gỗ nhỡ, loại gỗ này có đường kính 
trung bình từ 15cm đến dưới 18cm thường 
dùng để làm xà đỡ, trụ chống lò trong khai 
thác khoáng sản và trong xây dựng. Nếu quan 
niệm như vậy, có thể hiểu khúc gỗ có đường 
kính trung bình ≥ 18cm được gọi là gỗ lớn. 
Điều này cũng đồng nghĩa với đường kính 
ngang ngực (D1,3) của đa số cây trong rừng 
trồng tối thiểu phải đạt ≥ 18cm. Tuy nhiên, 
quan điểm về cách phân chia như vậy cũng chỉ 
là tương đối, vì một phần gỗ ở loại này có thể 
chuyển sang để sử dụng ở loại kia và ngược 
lại. Từ quan điểm này có thể áp dụng làm căn 
cứ để đánh giá khả năng cung cấp gỗ lớn của 
một số mô hình trồng keo có triển vọng ở các 
vùng sinh thái trong phạm vi chuyên đề này. 
3.2. Đặc điểm các mô hình keo có triển vọng 
gỗ lớn ở Bình Định và Phú Yên 
Qua việc khảo sát sơ bộ kết hợp với kết quả 
phỏng vấn các cơ quan quản lý, cụ thể là Chi 
cục Lâm nghiệp các tỉnh, đã xác định 15 mô 
hình trồng 3 loài keo (Keo lai, Keo tai tượng 
và Keo lá tràm) có triển vọng gỗ lớn tại Bình 
Định và Phú Yên. Trong đó có 08 mô hình keo 
lai, 02 mô hình Keo tai tượng, 04 mô hình Keo 
lá tràm trồng thuần loài và 01 mô hình Keo lá 
tràm trồng hỗn loài với Sao đen (Hopea 
odorata). Phần lớn diện tích trồng keo lai và 
Keo tai tượng được trồng trên đất sản xuất từ 6 
- 10 năm tuổi. Riêng các mô hình Keo lá tràm 
được trồng trên đất rừng phòng hộ từ đầu 
những năm 2000 trở về trước, ít nhất là 14 
năm tuổi, nhiều nhất là 21 năm tuổi. Đặc biệt, 
nguồn giống sử dụng để trồng không rõ nguồn 
gốc, mặc dù các giống keo lai các chủ rừng 
đều khẳng định là giống tiến bộ kỹ thuật 
(TBKT), nhưng cũng không cụ thể được là 
giống nào. Mật độ trồng ban đầu (Ntr) của hầu 
hết các mô hình từ 1.660 - 2.000 cây/ha. Tuy 
nhiên, mật độ hiện tại (Nht) giảm sút đáng kể 
so với mật độ trồng ban đầu, nhất là những mô 
hình trên 7 năm tuổi. Điều này có thể lý giải 
rằng, một phần là do tiêu chuẩn cây con và kỹ 
thuật trồng ban đầu chưa đảm bảo nên có một 
tỷ lệ nhất định bị chết ngay từ khi mới trồng, 
theo hồ sơ nghiệm thu tỷ lệ này từ 10 - 15%; 
một phần là do gió bão làm đổ gãy và phần lớn 
rừng trồng từ tuổi 6 trở lên đã diễn ra quá trình 
cạnh tranh không gian sinh dưỡng gay gắt dẫn 
đến tỉa thưa tự nhiên. Riêng mô hình trồng 
Keo lá tràm phòng hộ đầu nguồn ở xã Cát 
Trinh, huyện Phù Cát, Bình Định, trồng năm 
1994, sau 3 năm trồng (1997) mỗi ha được 
trồng bổ sung 500 cây Sao đen vào những chỗ 
trống; năm 2004 tiến hành tỉa thưa Keo lá tràm 
với cường độ khoảng 33%. Hiện tại mật độ 
Keo lá tràm trung bình chỉ còn 380 cây/ha, 
trong đó có một số cây có đường kính (D1,3) 
đạt từ 40 - 60 cm, mật độ của Sao đen trung 
bình còn 420 cây/ha (bảng 1). 
Hầu hết các mô hình được trồng ở địa hình 
không quá dốc, độ dốc đều nhỏ hơn 20 độ; độ 
cao hầu hết dưới 500m so với mực nước biển, 
riêng mô hình trồng Keo tai tượng ở Hoài 
Nhơn (Bình Định) trên độ cao 613m so với 
mực nước biển, nhưng khả năng sinh trưởng 
cũng khá tốt. Đất chủ yếu phát triển trên các 
loại đá mẹ granit, poocfia, gabrô, sỏi sạn kết, 
độ dày tầng đất đều > 100cm (bảng 1). Với 
điều kiện đất đai và địa hình như đã nêu trên 
đây là khá phù hợp với các loài keo để trồng 
rừng gỗ lớn. 
 4201 
Tạp chí KHLN 2016 Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) 
Bảng 1. Đặc điểm các mô hình keo có triển vọng gỗ lớn (Số liệu thu thập năm 2015) 
Số 
OTC Địa điểm 
Loài 
cây 
Tuổi 
(năm) 
Ntr 
(cây/ha) 
Nht 
(cây/ha) 
Nguồn 
giống 
Độ cao 
(m) 
Độ dốc 
(độ) 
Tầng đất 
(m) 
1 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Kl 6 2000 1280 TBKT 172 ≈15 > 100 
2 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Kl 6 2000 1262 TBKT 172 15 - 20 > 100 
3 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Kl 6 1660 1360 TBKT 106 10 - 15 > 100 
4 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Kl 10 1660 860 TBKT 106 ≈15 > 100 
5 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Ktt 10 1660 680 Không rõ 138 ≈15 > 100 
6 Hoài Châu, Hoài Nhơn, BĐ Kl 8 2000 1640 TBKT 613 ≈20 > 100 
7 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Kl 10 1660 820 TBKT 151 ≈15 > 100 
8 Tân Bình, Tây Sơn, BĐ Klt 20 1660 680 Không rõ 30 ≈15 > 100 
9 Cát Trinh, Phù Cát, BĐ 
Klt 21 1660 380 
Không rõ 
51 ≈15 > 100 
S.đen 18 500 420 51 
10 Sơn Định, Sơn Hòa, PY Kl 7 1660 1140 TBKT 371 5 - 10 > 100 
11 Sơn Hội, Sơn Hòa, PY Ktt 20 830 280 Không rõ 267 10 - 15 > 100 
12 Phú Mỡ, Đồng Xuân, PY Klt 14 1660 840 Không rõ 326 15 - 20 > 100 
13 Phú Mỡ, Đồng Xuân, PY Klt 21 1660 860 Không rõ 465 ≈15 > 100 
14 Phú Mỡ, Đồng Xuân, PY Klt 21 1660 960 Không rõ 424 ≈16 > 100 
15 Phú Mỡ, Đồng Xuân, PY Kl 7 2000 1480 TBKT 100 ≈15 > 100 
Ghi chú: - Kl ≈ Keo lai, Ktt ≈ Keo tai tượng, Klt ≈ Keo lá tràm, S.đen ≈ Sao đen, BĐ ≈ Bình Định, PY ≈ Phú Yên. 
Mô hình Keo lá tràm hỗn giao với Sao đen 
ở xã Cát Trinh, Bình Định 
Cây Keo lá tràm trong mô hình hỗn giao 
D1,3≈ 63cm bị gió bão làm đổ 
3.3. Sinh trưởng 
3.3.1. Sinh trưởng của các mô hình Keo lai 
Trong 08 mô hình rừng trồng keo lai ở Bình 
Định và Phú Yên có 03 mô hình 6 năm tuổi, 
02 mô hình 7 năm tuổi, 01 mô hình 8 năm tuổi 
và 02 mô hình 10 năm tuổi. Số liệu điều tra 
(bảng 2) cho thấy các mô hình từ 6 - 8 năm 
tuổi mật độ còn khá cao, dao động từ 1.140 - 
1640 cây/ha, các mô hình 10 năm tuổi còn từ 
820 - 860 cây/ha. Khả năng sinh trưởng của các 
mô hình khá chậm, ở giai đoạn 6 năm tuổi đường 
kính (D1,3) chỉ đạt từ 9,18 - 10,38cm, tăng trưởng 
bình quân (∆d) chỉ đạt từ 1,53 - 1,73cm/năm; 
chiều cao (Hvn) đạt từ 10,93 - 11,72m, tăng 
 4202 
Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) Tạp chí KHLN 2016 
trưởng bình quân (∆h) đạt từ 1,82 - 1,95m/năm. 
Giai đoạn 7 - 8 năm tuổi, khả năng sinh trưởng 
đường kính (D1,3) chỉ đạt từ 12,53 - 14,28cm, tăng 
trưởng bình quân (∆d) đạt từ 1,60 - 2,04cm/năm; 
chiều cao (Hvn) đạt từ 12,25 - 14,63m, tăng 
trưởng bình quân (∆h) đạt từ 1,55 - 2,09m/năm. 
Giai đoạn 10 năm tuổi, đường kính (D1,3) đạt 
từ 13,72 - 16,67cm, tăng trưởng bình quân (∆d) 
đạt từ 1,37 - 1,67cm/năm; chiều cao (Hvn) đạt 
từ 14,30 - 19,66m, tăng trưởng bình quân (∆h) 
đạt từ 1,43 - 1,97m/năm (bảng 2 và 5). Riêng 
chiều cao dưới cành (Hdc) của tất cả các mô 
hình đều đạt trên 50% so với chiều cao vút 
ngọn (Hvn). Điều này cho thấy tỷ lệ đoạn gỗ 
dưới cành để làm gỗ lớn của rừng trồng ở mức 
trung bình khá. 
Bảng 2. Sinh trưởng của các mô hình keo lai 
Số 
OTC Địa điểm Loài 
Tuổi 
(năm) 
Nht 
(c/ha) 
D1,3 (cm) Hvn (m) Hdc (m) 
Xtb S% Xtb S% Xtb S% 
1 Bình Định Kl 6 1280 10,38 27,08 11,72 13,08 6,09 18,20 
2 Bình Định Kl 6 1262 9,18 24,25 10,93 14,22 5,69 21,09 
3 Bình Định Kl 6 1360 9,69 25,95 11,57 14,11 5,76 17.40 
4 Bình Định Kl 10 860 13,72 31,34 14,30 10,82 7,92 16,42 
6 Bình Định Kl 8 1640 12,82 33,54 12,40 14,06 6,66 19,48 
7 Bình Định Kl 10 820 16,67 21,28 19,66 21,05 12,04 38,51 
10 Phú Yên Kl 7 1140 14,28 23,64 12,25 9,08 6,49 15,46 
15 Phú Yên Kl 7 1480 12,53 23,87 14,63 8,00 7,62 15,88 
Đặc biệt, hệ số biến động của các chỉ tiêu 
sinh trưởng đều khá cao, nhất là ở các mô 
hình từ 8 - 10 năm tuổi. Điều này cũng khá 
phù hợp với quy luật sinh trưởng của cây 
rừng, khi tuổi cây càng lớn, nhu cầu không 
gian sinh dưỡng đòi hỏi càng cao và sự cạnh 
tranh nhau ngày càng gay gắt dẫn đến sự phân 
hóa ngày càng cao. 
3.3.2. Sinh trưởng của các mô hình Keo 
tai tượng 
Kết quả điều tra hai mô hình trồng Keo tai 
tượng cho thấy mặc dù mật độ trồng ban đầu 
của mô hình ở Bình Định là 1.660 cây/ha và ở 
Phú Yên là 830 cây/ha (bảng 1), nhưng mật độ 
hiện tại của mô hình 10 năm tuổi ở Bình Định 
chỉ còn 680 cây/ha và mô hình 20 năm tuổi ở 
Phú Yên chỉ còn 280 cây/ha. Hiện tại, cả 02 
mô hình đều đã đạt tiêu chí gỗ lớn về đường 
kính (D1,3 ≥ 18cm). Mô hình 10 năm tuổi ở 
Bình Định có đường kính trung bình (D1,3) đạt 
23,38cm, tăng trưởng bình quân (∆d) đạt 
2,34cm/năm; chiều cao trung bình (Hvn) đạt 
15,88m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt 
1,59m/năm; chiều cao dưới cành (Hdc) trung 
bình đạt 11,29m, chiếm 71% chiều cao vút 
ngọn. Tương tự như vậy, mô hình ở Phú Yên 
20 năm tuổi có đường kính (D1,3) trung bình 
đạt 35,63cm, tăng trưởng bình quân (∆d) đạt 
1,78cm/năm; chiều cao trung bình (hvn) đạt 
21,85m, tăng trưởng bình quân (∆h) đạt 
1,09m/năm; chiều cao dưới cành (Hdc) đạt 
14,23m, chiếm 65% chiều cao vút ngọn (bảng 
3 và 5). 
 4203 
Tạp chí KHLN 2016 Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) 
Bảng 3. Sinh trưởng của các mô hình trồng Keo tai tượng 
Số 
OTC Địa điểm Loài 
Tuổi 
(năm) 
Nht 
(c/ha) 
D1,3 (cm) Hvn (m) Hdc (m) 
Xtb S% Xtb S% Xtb S% 
5 Bình Định Ktt 10 680 23,38 29,23 15,88 25,65 11,29 33,24 
11 Phú Yên Ktt 20 280 35,63 19,57 21,85 8,68 14,23 14,39 
Rõ ràng 02 mô hình này hiện tại đã có thể 
cung cấp gỗ lớn cho sản xuất với tỷ lệ gỗ lớn 
khá cao. Tuy nhiên, hệ số biến động của cả hai 
mô hình tương đối cao, nhất là mô hình 10 
năm tuổi ở Bình Định. 
3.3.3. Sinh trưởng của các mô hình Keo lá tràm 
Trong khoảng 10 năm trở lại đây Keo lá 
tràm ít được trồng ở Bình Định và Phú Yên 
nói riêng và vùng Nam Trung bộ nói chung. 
Các mô hình đã điều tra đều là rừng phòng 
hộ được trồng từ những năm 2000 trở về 
trước (bảng 4). Hầu hết đều trồng thuần 
loài, riêng mô hình Keo lá tràm trồng ở Cát 
Trinh, Phù Cát, Bình Định được trồng hỗn 
loài với Sao đen. 
Bảng 4. Sinh trưởng của các mô hình trồng Keo lá tràm 
Số 
OTC Địa điểm Loài 
Tuổi 
(năm) 
Nht 
(c/ha) 
D1,3 (cm) Hvn (m) Hdc (m) 
Xtb S% Xtb S% Xtb S% 
8 Bình Định Klt 20 680 21,39 19,23 18,41 15,28 10,95 31,63 
9 Bình Định 
(hỗn giao) 
Klt 21 380 24,99 38,13 21,50 22,53 12,80 29,21 
S.đen 18 420 15,17 18,73 14,98 14,11 6,42 31,39 
12 Phú Yên Klt 14 840 14,61 28,90 13,26 10,94 5,67 21,80 
13 Phú Yên Klt 21 860 16,85 34,65 16,28 6,26 9,29 11,91 
14 Phú Yên Klt 21 960 16,43 23,63 14,56 9,60 7,63 14,35 
Số liệu tổng hợp ở bảng 4 cho thấy mật độ 
hiện tại (Nht) các mô hình đều khá thấp, dao 
động từ 680 - 960 cây/ha, kể cả mô hình hỗn 
giao với Sao đen tính cả hai loài mật độ cũng 
chỉ còn 800 cây/ha. Ở các loại mật độ này là 
tương đối phù hợp cho việc phát triển của rừng 
trồng gỗ lớn. Tuy nhiên, khả năng sinh trưởng 
của chúng rất khác nhau, nếu so sánh một cách 
tương đối ở giai đoạn 20 - 21 năm tuổi thì khả 
năng sinh trưởng của Keo lá tràm trồng ở Bình 
Định khá hơn hẳn so với ở Phú Yên. Các mô 
hình trồng ở Bình Định có đường kính trung 
bình (D1,3) đạt từ 21,39 - 24,99cm, tăng trưởng 
bình quân đạt (∆d) đạt từ 1,07 - 1,19cm/năm; 
chiều cao (Hvn) đạt từ 18,41 - 21,50m, tăng 
trưởng bình quân (∆h) đạt từ 0,92 - 1,02m/năm. 
Trong khi đó các mô hình trồng ở Phú Yên 
sinh trưởng về đường kính trung bình (D1,3) 
chỉ đạt từ 16,43 - 16,85cm, tăng trưởng bình 
quân đạt (∆d) đạt từ 0,78 - 0,80cm/năm; chiều 
cao (Hvn) đạt từ 14,56 - 16,28m, tăng trưởng 
bình quân (∆h) đạt từ 0,0,69 - 0,78m/năm 
(bảng 5). Với kích thước như vậy, các mô hình 
trồng ở Bình Định đã có thể khai thác để cung 
cấp gỗ lớn cho sản xuất. Nhưng các mô hình ở 
Phú Yên chưa đảm bảo yêu cầu gỗ lớn theo 
quan điểm đã nêu ở trên. Ngoài ra, hệ số biến 
động của các chỉ tiêu sinh trưởng khá lớn, nhất 
là hệ số biến động của chỉ tiêu đường kính. Vì 
thế, chất lượng rừng chưa cao, điều này có thể 
 4204 
Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) Tạp chí KHLN 2016 
giải thích rằng vì giai đoạn đó giống Keo lá 
tràm chưa được cải thiện và chưa ứng dụng 
các tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh rừng 
trồng, mục tiêu khi trồng là phủ xanh đất 
trống để phòng hộ nguồn nước cho các hồ 
đập thủy lợi của địa phương. 
3.4. Trữ lượng và năng suất gỗ cây đứng 
của các mô hình 
3.4.1. Trữ lượng và năng suất gỗ cây đứng 
của các mô hình keo lai 
Số liệu ở bảng 5 cho thấy trữ lượng cây đứng 
và năng suất gỗ của các mô hình trồng keo lai 
rất khác nhau. Các mô hình 6 năm tuổi có trữ 
lượng gỗ cây đứng (M) không cao và chỉ đạt từ 
57,96 - 63,50m3/ha, năng suất (∆M) trung bình 
đạt từ 9,09 - 10,58m3/ha/năm. Các mô hình từ 
7 - 8 năm tuổi có trữ lượng gỗ (M) cao hơn và 
dao động từ 111,82 - 133,51m3/ha, năng suất gỗ 
(∆M) trung bình đạt từ 15,97 - 19,07m3/ha/năm. 
Mặc dù các mô hình này được đánh giá là có 
triển vọng gỗ lớn, nhưng khả năng sinh trưởng 
và năng suất gỗ khá thấp, nhiều mô hình chỉ 
đạt từ 9 - 10m3/ha/năm. Điều này có thể lý giải 
là do nguồn gốc giống chưa rõ ràng, chưa đảm 
bảo tiêu chuẩn về giống khi đem trồng, các 
biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng có thể chưa 
đạt yêu cầu... 
3.4.2. Trữ lượng và năng suất gỗ cây đứng 
của các mô hình Keo tai tượng 
Số liệu điều tra đã tổng hợp được cho thấy cả 
hai mô hình Keo tai tượng hiện tại đã đạt 
được yêu cầu về kích thước gỗ lớn, có thể 
khai sử dụng. Đặc biệt, mô hình trồng ở Bình 
Định mới 10 năm tuổi đường kính trung bình 
đã đạt 23,38cm, do mật độ còn tương đối cao 
(680 cây/ha) nên trữ lượng gỗ cây đứng (M) 
khá cao và đạt hơn 231m3/ha, năng suất gỗ 
cây đứng (∆M) đạt hơn 23m3/ha/năm. Trong 
khi đó, mô hình trồng ở Phú Yên tuy đường 
kính trung bình đạt 35,63cm, trữ lượng gỗ cây 
đứng đạt hơn 305m3/ha, nhưng do mật độ còn 
lại thấp (280 cây/ha) và tuổi rừng lại cao (20 
năm tuổi) nên năng suất gỗ cây đứng (∆M) 
chỉ đạt ≈ 15m3/ha/năm (bảng 5). Tuy nhiên, 
đây là hai mô hình để minh chứng cho loài 
cây này trồng ở hai tỉnh vùng Nam Trung Bộ 
rất có triển vọng để phát triển thành rừng 
cung cấp gỗ lớn. 
3.4.3. Trữ lượng và năng suất gỗ cây đứng 
của các mô hình Keo lá tràm 
Keo lá tràm tuy xếp vào nhóm cây mọc nhanh, 
nhưng sinh trưởng chậm hơn keo lai và Keo tai 
tượng khá nhiều. Tuy nhiên, chất lượng gỗ lại 
tốt hơn các loài keo kể trên và được ưa chuộng 
để sản xuất đồ mộc gia dụng và trang trí nội 
thất. Kết quả điều tra 05 mô hình Keo lá tràm 
cho thấy mô hình trồng thuần loài ở Bình Định 
20 năm tuổi, mật độ trung bình toàn lâm phần 
là 820 cây/ha, đường kính trung bình (D1,3) đạt 
21,39cm, trữ lượng gỗ cây đứng đạt hơn 
224m3/ha, nhưng năng suất bình quân chỉ đạt 
11,24m3/ha/năm. Mô hình trồng hỗn loài với 
Sao đen, nếu tính mật độ chung cả 2 loài hiện 
tại có 800 cây/ha, nhưng nếu tính riêng mật độ 
của Keo lá tràm chỉ có 380 cây/ha, đường kính 
trung bình (D1,3) đạt 24,99cm, trữ lượng cây 
đứng riêng cho Keo lá tràm là 198,27m3/ha, 
nhưng năng suất gỗ bình quân chỉ đạt 
9,44m3/ha/năm, nếu cộng cả năng suất của Sao 
đen cũng chỉ đạt gần 13m3/ha/năm. Nhìn 
chung với đường kính trung bình đạt từ 21,39 - 
24,99cm là đủ tiêu chuẩn gỗ lớn theo quan 
điểm đã đề cập ở trên. Như vậy, ngoài việc 
trồng thuần loài thì Keo lá tràm có thể trồng 
hỗn loài với Sao đen để cung cấp gỗ lớn ở 
vùng Nam Trung bộ nói chung và Bình Định 
nói riêng. 
 4205 
Tạp chí KHLN 2016 Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) 
Bảng 5. Năng suất gỗ cây đứng của các mô hình 
Số 
TT Địa điểm Loài 
Tuổi 
(năm) 
Nht 
(c/ha) 
D1,3 
(cm) 
∆d 
(cm/n) Hvn (m) 
∆h 
(m/n) 
M 
(m3/ha) 
∆M 
(m3/ha/n) 
1 Bình Định Keo lai 6 1280 10,38 1,73 11,72 1,95 63,50 10,58 
2 Bình Định Keo lai 6 1262 9,18 1,53 10,93 1,82 58,62 9,77 
3 Bình Định Keo lai 6 1360 9,69 1,62 11,57 1,93 57,96 9,66 
4 Bình Định Keo lai 10 860 13,72 1,37 14,30 1,43 90.86 9,09 
5 Bình Định Keo tt 10 680 23,38 2,34 15,88 1,59 231,88 23,19 
6 Bình Định Keo lai 8 1640 12,82 1,60 12,40 1,55 131,36 16,42 
7 Bình Định Keo lai 10 820 16,67 1,67 19,66 1,97 175,87 17,59 
8 Bình Định Keo lt 20 680 21,39 1,07 18,41 0,92 224,89 11,24 
9 Bình Định 
(hỗn giao) 
Keo lt 21 380 24,99 1,19 21,50 1,02 198,27 9,44 
S.đen 18 420 15,17 0,84 14,98 0,83 60,42 3,35 
10 Phú Yên Keo lai 7 1140 14,28 2,04 12,25 1,75 111,82 15,97 
11 Phú Yên Keo tt 20 280 35,63 1,78 21,85 1,09 305,03 15,25 
12 Phú Yên Keo lt 14 840 14,61 1,20 13,26 0,95 93,36 6,67 
13 Phú Yên Keo lt 21 860 16,85 0,80 16,28 0,78 156,06 7,43 
14 Phú Yên Keo lt 21 960 16,43 0,78 14,56 0,69 148,19 7,06 
15 Phú Yên Keo lai 7 1480 12,53 1,79 14,63 2,09 133,51 19,07 
Bên cạnh đó, khả năng sinh trưởng và năng 
suất gỗ của Keo lá tràm trồng ở Phú Yên có 
phần kém hơn, sau 14 năm và 21 năm trồng 
thuần loài, mật độ còn từ 840 - 960 cây/ha, 
nhưng khả năng sinh đường kính (D1,3) chỉ đạt 
từ 14,61 - 16,85cm, trữ lượng cây đứng bình 
quân (M) đạt từ 93,36 - 156,06m3/ha, năng suất 
trung bình (∆M) chỉ đạt từ 6,67 - 7,43m3/ha/năm 
(bảng 5). Tuy năng suất thấp và hiện tại chưa 
đủ kích thước về đường kính so với quan điểm 
gỗ lớn, nhưng cũng rất có triển vọng cung cấp 
gỗ lớn trong thời gian tới, hiện tại cũng đã có 
một số cây đạt đường kính > 18cm. Nếu sử 
dụng đã được cải thiện và áp dụng các biện 
pháp kỹ thuật thâm canh, chắc chắn khả năng 
sinh trưởng và năng suất gỗ sẽ cao hơn khá rõ 
rệt so với các mô hình hiện có. 
IV. KẾT LUẬN 
- Quan điểm về gỗ lớn: Trong phạm vi bài báo 
này, quan điểm của người viết cho rằng gỗ lớn 
là cây gỗ phải có đường kính ngang ngực 
(D1,3) ≥ 18cm, rừng trồng gỗ lớn phải có 
đường kính ngang ngực trung bình của lâm 
phần (D1,3) ≥ 18cm. 
- Keo lai: Hầu hết các mô hình keo lai từ 6 - 10 
năm tuổi trồng ở Bình Định và Phú Yên đều 
chưa cung cấp được gỗ lớn (D < 18cm), mô 
hình tốt nhất có đường kính trung bình 
(D1,3) ≈ 16,67cm, kém nhất (D1,3) ≈ 9,18cm; 
trữ lượng gỗ cây đứng (M) cao nhất đạt 
133,51m3/ha, thấp nhất chỉ đạt 57,96m3/ha/năm; 
năng suất gỗ (∆M) cao nhất cũng chỉ đạt 
19,07m3/ha/năm và thấp nhất là 9,06m3/ha/năm. 
- Keo tai tượng: Có 2 mô hình trồng Keo tai 
tượng điển hình, một mô hình 10 năm tuổi ở 
Bình Định và một mô hình 20 năm tuổi ở Phú 
Yên, cả hai mô hình đã đạt tiêu chuẩn cung 
cấp gỗ lớn. Mô hình 10 năm tuổi đường kính 
(D1,3) đạt 23,38cm; trữ lượng gỗ cây đứng (M) 
đạt 231,88m3/ha, năng suất (∆M) đạt 
 4206 
Nguyễn Huy Sơn et al., 2016(1) Tạp chí KHLN 2016 
23,19m3/ha/năm. Mô hình 20 năm tuổi, đường 
kính (D1,3) đạt 35,63cm; trữ lượng gỗ cây đứng 
(M) đạt 305,03m3/ha, năng suất gỗ (∆M) đạt 
15,25m3/ha/năm. 
- Keo lá tràm: Có 04 mô hình Keo lá tràm 
trồng thuần loài và 01 mô hình trồng hỗn loài 
với Sao đen, trong đó có 01 mô hình 14 năm 
tuổi còn lại từ 20 - 21 năm tuổi. Xét về đường 
kính thì chỉ có mô hình trồng thuần loài 20 
năm tuổi và mô hình trồng hỗn loài với Sao 
đen 21 năm tuổi ở Bình Định là đủ tiêu chuẩn 
gỗ lớn, đường kính (D1,3) đạt từ 21,39 - 
24,99cm, trữ lượng cây đứng (M) đạt từ 198,27 
- 224,89m3/ha, năng suất đạt từ 9,44 - 
11,24m3/ha/năm. Các mô hình còn lại có trữ 
lượng cây đứng (M) từ 93,36 - 156,06m3/ha, 
năng suất (∆M) chỉ đạt từ 6,67 - 
7,43m3/ha/năm. 
- Muốn phát triển các loài keo thành rừng kinh 
doanh gỗ lớn, có 4 vấn đề mấu chốt cơ bản 
gồm: i/ Giống đã được cải thiện cả về năng 
suất và chất lượng; ii/ Chọn lập địa phù hợp, 
đặc biệt là độ dày tầng đất phải đạt ≥ 0,8m; iii/ 
Vấn đề kỹ thuật trồng phải đảm bảo yêu cầu 
của rừng kinh doanh gỗ lớn, chú ý nhất là mật 
độ ở từng giai đoạn phát triển; iv/ Cuối cùng là 
chu kỳ kinh doanh, ít nhất phải từ 10 năm trở 
lên đối với keo lai và Keo tai tượng, từ 20 trở 
lên năm đối với Keo lá tràm. 
- Ngoài các mô hình hiện tại đã có thể cung 
cấp gỗ lớn, các mô hình còn lại đều có triển 
vọng phát triển thành rừng cung cấp gỗ lớn, 
nhưng phải tác động bằng các biện pháp kỹ 
thuật lâm sinh thích hợp, sau từ 5 - 7 năm tới 
sẽ có thể cung cấp gỗ lớn cho sản xuất. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Trọng Bình, 2003. Lập biểu cấp đất và biểu thể tích tạm thời rừng keo trồng thuần loài. Tạp chí NN& 
PTNT, số 7. 
2. Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003. Phát triển các loài keo ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 
3. Nguyễn Huy Sơn, 2006. Kỹ thuật trồng rừng thâm canh một số loài cây gỗ nguyên liệu. NXB Thống kê, Hà 
Nội. 
4. Nguyễn Huy Sơn, 2015. Đánh giá sinh trưởng, năng suất gỗ của các mô hình đã có và xác định các mô hình 
trồng keo có triển vọng gỗ lớn ở vùng Nam Trung bộ (Bình Định và Phú Yên). Báo cáo chuyên đề, thuộc đề tài 
cấp Bộ giai đoạn 2015 - 2019. 
Người thẩm định: GS.TS. Võ Đại Hải 
 4207 

File đính kèm:

  • pdftrien_vong_go_lon_cua_mot_so_mo_hinh_trong_cac_loai_keo_o_bi.pdf