Tràn dịch ổ bụng tái phát do lạc nội mạc tử cung Báo cáo một trường hợp bệnh
Bệnh lý lạc nội mạc tử cung là vấn đề khá thường gặp trong thực hành lâm sàng của bác sĩ
sản phụ khoa, chiếm khoảng 30% ở những phụ nữ khảo sát vô sinh và chiếm 30-40% ở phụ
nữ thống kinh, đau vùng chậu [2]. Tuy nhiên, lạc nội mạc tử cung gây tràn dịch ổ bụng lượng
nhiều tái phát thì lại rất hiếm gặp, cơ chế bệnh sinh chưa rõ ràng. Vì vậy chúng tôi muốn giới
thiệu một trường hợp tràn dịch ổ bụng lượng nhiều tái phát ở một phụ nữ khỏe mạnh đã được
điều trị tại bệnh viện chúng tôi. Bệnh nhân 29 tuổi, vô sinh thứ phát, đã được nội soi ổ bụng
thám sát vì dịch ổ bụng lượng nhiều chưa rõ nguyên nhân lần đầu năm 2014, khoảng 1.200
ml dịch ổ bụng dạng máu cũ đã được hút ra từ ổ bụng. Kết quả phân tích tế bào học dịch
ổ bụng không có tế bào ác tính. Sau đó 3 năm, năm 2017, bệnh nhân bị tràn dịch ổ bụng
tái phát chưa rõ nguyên nhân làm bệnh nhân khó chịu, buồn nôn. Chúng tôi tiến hành mổ
thám sát vào tháng 10/2017. Trong bụng dịch đỏ nâu sậm, loãng khoảng 1.500-2.000
ml kèm nhiều sang thương dạng lạc nội mạc ở vùng chậu. Chúng tôi điều trị bảo tồn (hút dịch
ổ bụng, gỡ dính vùng chậu) vì bệnh nhân đang mong con. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ
phù hợp chẩn đoán lạc nội mạc tử cung. Sau mổ, bệnh nhân đang được điều trị triệu chứng
bằng đồng vận GnRH. Hiện lâm sàng ổn, siêu âm chưa ghi nhận dịch tái phát.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tràn dịch ổ bụng tái phát do lạc nội mạc tử cung Báo cáo một trường hợp bệnh
42 TRÀN DỊCH Ổ BỤNG TÁI PHÁT DO LẠC NỘI MẠC TỬ CUNG BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP BỆNH DƯƠNG ÁNH KIM* VÕ MINH TUẤN** TÓM TẮT Bệnh lý lạc nội mạc tử cung là vấn đề khá thường gặp trong thực hành lâm sàng của bác sĩ sản phụ khoa, chiếm khoảng 30% ở những phụ nữ khảo sát vô sinh và chiếm 30-40% ở phụ nữ thống kinh, đau vùng chậu [2]. Tuy nhiên, lạc nội mạc tử cung gây tràn dịch ổ bụng lượng nhiều tái phát thì lại rất hiếm gặp, cơ chế bệnh sinh chưa rõ ràng. Vì vậy chúng tôi muốn giới thiệu một trường hợp tràn dịch ổ bụng lượng nhiều tái phát ở một phụ nữ khỏe mạnh đã được điều trị tại bệnh viện chúng tôi. Bệnh nhân 29 tuổi, vô sinh thứ phát, đã được nội soi ổ bụng thám sát vì dịch ổ bụng lượng nhiều chưa rõ nguyên nhân lần đầu năm 2014, khoảng 1.200 ml dịch ổ bụng dạng máu cũ đã được hút ra từ ổ bụng. Kết quả phân tích tế bào học dịch ổ bụng không có tế bào ác tính. Sau đó 3 năm, năm 2017, bệnh nhân bị tràn dịch ổ bụng tái phát chưa rõ nguyên nhân làm bệnh nhân khó chịu, buồn nôn. Chúng tôi tiến hành mổ thám sát vào tháng 10/2017. Trong bụng dịch đỏ nâu sậm, loãng khoảng 1.500-2.000 ml kèm nhiều sang thương dạng lạc nội mạc ở vùng chậu. Chúng tôi điều trị bảo tồn (hút dịch ổ bụng, gỡ dính vùng chậu) vì bệnh nhân đang mong con. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ phù hợp chẩn đoán lạc nội mạc tử cung. Sau mổ, bệnh nhân đang được điều trị triệu chứng bằng đồng vận GnRH. Hiện lâm sàng ổn, siêu âm chưa ghi nhận dịch tái phát. RECURRENT HEMORRHAGIC ASCITES DUE TO ENDOMETRIOSIS: A CASE REPORT ABSTRACT Endometriosis is a relatively common problem in clinical practice of obstetricians and gynecologists, accounting for about 30% in women who are infertile, and is detected in 30-40% of women with dysmenorrhea and pelvic pain. However, endometriosis causes recurrent hemorrhagic ascites, which is extremely rare and pathogenesis is unclear. Thus, we would like to present a case of recurrent hemorrhagic ascites in a healthy woman who was treated at our hospital. The 29-year-old patient, secondary infertility, who underwent an exploratory laparoscopy for massive ascites at the first time in 2014 and about 1200 ml hemorrhagic ascites were evacuated from her abdomen. The cytological analysis of ascitic fluid failed to detect of any evidence of malignant cells. Three years later, in 2017, she has a recurrent massive ascites which the cause was unknown. This hemorrhagic * ThS. Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** PGS. TS. Bộ môn Phụ Sản, ĐHYD TPHCM. DĐ: 0907271999. Email: [email protected] THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 43 GIỚI THIỆU Dịch ổ bụng liên quan tới lạc nội mạc tử cung được ghi nhận lần đầu vào năm 1954 bởi Brews [3]. Rất hiếm gặp, cho tới năm 2016 thì chỉ có 63 trường hợp được báo cáo [1]. Triệu chứng thường gặp gồm căng tức bụng, sụt cân, chán ăn, đau bụng, thống kinh. Có thể kèm theo tràn dịch màng phổi (38,1%) [1]. Giá trị Ca125 dao động nhiều, có thể tăng rất cao. Vì vậy, đôi lúc lâm sàng có thể khó khăn trong chẩn đoán phân biệt với bệnh lý ác tính. Cơ chế bệnh sinh vẫn chưa rõ. Có giả thuyết cho rằng, do các tế bào nội mạc tử cung cấy ghép vào phúc mạc ổ bụng, kích thích các tế bào phúc mạc này tăng tiết dịch [4]. Hoặc có thể do sự vỡ của các nang lạc nội mạc kích thích các tế bào phúc mạc tăng tiết dịch. Ngoài ra, một số tác giả cho rằng dịch ổ bụng có thể do sự liên quan của nang lạc nội mạc tới gan, kèm theo sự tăng tính thấm thành mạch do các yếu tố tại chỗ [5]. Về dịch tễ, thường gặp ở người da đen nhiều hơn người da trắng [5]. Điều trị triệt để (cắt buồng trứng 2 bên) sẽ không gây tái phát. Nếu chỉ cắt buồng trứng 1 bên hoặc bóc u nang buồng trứng thì tỉ lệ tái phát là trên 50%. Còn nếu điều trị bằng đồng vận GnRH thì sau khi ngưng điều trị sẽ có nguy cơ cao bị tái phát dịch ổ bụng lại. Điều trị bằng Dienogest (đồng vận thụ thể Progesterone chọn lọc) được giới thiệu lần đầu năm 2008, cho tới nay thì hiệu quả tương tự như GnRH đồng vận, ascites made her feel uncomfortable, abdominal distension and nausea. We decided to exploratory laparoscopy again in October 2017. The fluid in the abdomen is reddish brown, diluted about 2000 ml with many endometrial lesions in the pelvic peritoneal. We choosed conservative therapy (abdominal drainage, adhesion excision) because the patient is expecting the baby. The diagnosis was endometriosis which was confirmed by histopathological evaluation. After surgery, gonadotropin-release hormone (GnRH) ana- logues were started to manage symptoms, with good effect. Until now she is clinically stable, ultrasound has not detected recurrent ascites. tuy nhiên ít tác dụng phụ trên xương và vận mạch hơn. BỆNH ÁN Bệnh nhân sinh năm 1988. Tiền sử nội ngoại khoa chưa ghi nhận bệnh lý. Bệnh nhân có kinh lần đầu năm 12 tuổi, kinh nguyệt đều, chu kì 28-30 ngày, không thống kinh. Lấy chồng năm 2008. Para 1001 (sanh thường năm 2009). Ngừa thai bằng thuốc 2 năm. Đến năm 2011, đi khám vì mong con và thống kinh, phát hiện lạc tuyến tử cung, không điều trị. Năm 2014, bệnh nhân thấy nặng bụng và bụng to nhiều nên đi khám chuyên khoa ngoại tổng quát được chọc dò dịch ổ bụng. Kết quả chọc dò dịch chưa ghi nhận bất thường. Bệnh nhân nặng bụng nhiều, lâm sàng chưa phát hiện được nguyên nhân gây tràn dịch ổ bụng lượng nhiều. Bệnh nhân được mổ nội soi thám sát vào 03/06/2014. Quan sát khi mổ, trong bụng có nhiều máu cũ khắp bụng khoảng 1.200 ml, không có máu đông. Lấy dịch gửi thử tế bào học, cell- block, PCR lao. Trực tràng dính chặt vào cùng đồ sau. Tử cung, phần phụ (T) chưa ghi nhận bất thường. Buồng trứng (P) có nang hoàng thể nhỏ xuất huyết đã tự cầm. Phúc mạc trơn láng. Các cơ quan khác trong ổ bụng chưa ghi nhận bất thường đại thể. Kết quả tế bào học dịch ổ bụng gồm hồng cầu, mô bào, bạch cầu đa nhân trung tính, không có tế bào ác tính trên mẫu thử. Bệnh nhân được xuất viện 4 ngày sau mổ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 44 với chẩn đoán nang hoàng thể buồng trứng (P) chảy máu đã tự cầm. Đến tháng 05/2017, bệnh nhân lại thấy nặng bụng. Siêu âm có nang buồng trứng (P) echo trống kích thước 45x31 mm, dịch ổ bụng trung bình. Điều trị Primolut 2 viên/ ngày từ tháng 05/2017 tới tháng 09/2017 với chẩn đoán nang lạc nội mạc buồng trứng (P), dịch ổ bụng lượng trung bình, vô sinh thứ phát. Đến cuối tháng 09/2017, bệnh nhân có kinh nguyệt, thấy khó chịu nhiều, buồn ói, kích thích đi đại tiện nhiều lần, nặng bụng dưới nên đã tới khám và được nhập viện vào 05/10/2017. Lâm sàng: Bệnh nhân tổng trạng trung bình, cân nặng 44 kg, chiều cao 155 cm, BMI: 18,31 Sinh hiệu ổn, niêm hông bụng mềm, ấn đau nhẹ. Khám tử cung kích thước bình thường, 2 phần phụ không sờ chạm, cùng đồ trống, ấn đau nhẹ. Kết quả marker u buồng trứng (22/09/2017): AFP: 0,8 IU/ml; CA125: 60,6 U/ml; beta hCG: âm; HE4: 41,1pmol/L; ROMA 5,26% HCT 39%, Hb 11,6g/dl, Bạch cầu 8.7 K/ uL. Đông máu trong giới hạn bình thường. AST 20U/L, ALT 20 U/L Các xét nghiệm tiền phẫu thường quy trong giới hạn bình thường. Siêu âm (22/09/2017): Tử cung ngả trước, đường kính trước sau 42, cấu trúc cơ đồng nhất, nội mạc 7 mm, buồng trứng (T) không u, buồng trứng (P) không u, sát buồng trứng (P) có cấu trúc echo hỗn hợp nhiều nang, thành mỏng, kích thước 42 mm. Kết quả chụp MRI (23/9/2017): Ghi nhận dịch tự do vùng chậu lượng trung bình; lạc tuyến cơ tử cung; lạc nội mạc buồng trứng 2 bên, buồng trứng (P) kích thước 37x39 mm có vài nang dưới 16 mm, buồng trứng (T) có vài nang dưới 12 mm và lạc nội mạc sâu ở mặt sau tử cung dính với buồng trứng 2 bên và thành trước trực tràng, nang giả phúc mạc cạnh buồng trứng (P) và cạnh (P) trực tràng kích thước 30x25 mm. Phẫu thuật nội soi (10 /10/2017): Trong bụng có khoảng 1500-2000 ml dịch loãng màu hồng nâu. Lấy dịch thử tế bào học, cellblock. Phúc mạc vùng chậu có nhiều nốt nhỏ vài mm, dạng lạc nội mạc. Tử cung kích thước lớn hơn bình thường, mật độ chắc dạng lạc nội mạc trong cơ tử cung, mặt sau dính chặt với thành trước trực tràng. Phần phụ 2 bên chưa ghi nhận bất thường, không u, dính vào mặt sau tử cung. Cạnh sát buồng trứng (P) có nang kích thước 4x4x6 cm, bề mặt trơn láng, dính chặt vào mặt sau tử cung và mặt trước đại tràng. Tiến hành gỡ dính, phá nang giả dính thấy nang có nhiều vách ngăn mỏng, chứa dịch vàng loãng. Lấy vỏ nang gửi giải phẫu bệnh. Siêu âm trước mổ THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018 Kết quả giải phẫu bệnh: Mẫu mô có thành phần tuyến và mô đệm nội mạc tử cung, kèm phản ứng viêm có đại bào và thực bào hemosiderine. Kết luận: Phù hợp nang lạc nội mạc tử cung. Kết quả dịch ổ bụng: Có tế bào hồng cầu, chất dịch, lympho bào, mô bào, không thấy tế bào ác tính trên mẫu thử. Xuất viện sau đó 4 ngày, hậu phẫu ổn. Hiện bệnh nhân đang được điều trị Zola- dex (đã chích 5 mũi), lâm sàng ổn, không đau bụng, siêu âm ghi nhận ít dịch cùng đồ. 45 BÀN LUẬN Lạc nội mạc tử cung thường liên quan tới phúc mạc, buồng trứng, vách ngăn trực tràng âm đạo. Ở bệnh nhân này, phẫu thuật viên mổ lần đầu (năm 2014) là bác sĩ ngoại tổng quát, theo tường trình phẫu thuật thì chưa ghi nhận bất thường gì về phúc mạc, tử cung và 2 phần phụ. Vì vậy trong lần mổ đầu, bệnh nhân được lấy dịch ổ bụng thử tế bào học, cellblock và PCR lao. Có lẽ tổn thương phúc mạc do lạc nội mạc nhỏ nên bị bỏ sót hoặc phẫu thuật viên nghi đó là lao phúc mạc nên cho thử PCR lao. Trong lúc mổ (10/10/2017) NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Trong thực hành lâm sàng, thỉnh thoảng chúng tôi có những trường hợp mổ cấp cứu vì lâm sàng bệnh nhân có đau bụng nhiều, siêu âm dịch ổ bụng lượng nhiều. Khi vào mổ quan sát thấy dịch là máu loãng cũ trong ổ bụng lượng trung bình cho tới nhiều nhưng không rõ nguyên nhân sau khi đã thám sát rất kĩ toàn bộ ổ bụng, không tìm được nguyên nhân nào gây xuất huyết nội. Đứng trước một trường hợp như vậy, ngoài những nguyên nhân thường gặp như bệnh lý gan, suy tim, hội chứng thận 46 hư, bệnh lý do tuyến tụy hay một số bệnh lý phụ khoa như ung thư buồng trứng, lao màng bụng vùng chậu, hội chứng buồng trứng quá kích, hội chứng Meigs thì chúng ta cần phải nghĩ tới một nguyên nhân hiếm gặp khác đó là lạc nội mạc tử cung vùng chậu. Đôi khi vì đó là những sang thương nhỏ trên phúc mạc nên có thể dễ bị bỏ sót trong lúc mổ thám sát. Chẩn đoán dịch ổ bụng do lạc nội mạc thường có được sau khi mổ thám sát hoặc đã loại trừ được những nguyên nhân khác. Bệnh nhân này là một phụ nữ khỏe mạnh, đã sanh thường một năm sau khi lập gia đình. Sau đó, bệnh nhân mới có những biểu hiện của lạc nội mạc tử cung như thống kinh, căng tức vùng bụng, vô sinh thứ phát. Lần trước mổ cũng đã khảo sát tế bào học chưa ghi nhận bất thường. Khảo sát chức năng gan, siêu âm đàn hồi gan, chức năng tim, thận đều chưa ghi nhận bất thường. Kèm theo những ghi nhận trong lúc mổ lần 2, và kết quả giải phẫu bệnh, kết quả tế bào học giúp chúng tôi có thể chẩn đoán nguyên nhân gây tràn dịch ổ bụng ở bệnh nhân này là do lạc nội mạc tử cung. Về hướng điều trị tràn dịch ổ bụng do lạc nội mạc tử cung cũng tương tự như trong TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dun E. C., Wong S., Lakhi N. A., Nehzat C. H. Recurrent massive ascites due to mossy endo- metriosis. Fertil Steril 2016 Nov [cited 106 6]; 2016/08/21:[e14]. Available from: https://www. youtube.com/watch?v=Ms2WCzjkxSs&feature=youtu.be. 2. Gungor T., Kanat-Pektas M., Ozat M., Zayifoglu Karaca M. (2011), “A systematic review: endo- metriosis presenting with ascites”. Arch Gynecol Obstet, 283 (3), pp. 513-8. 3. A. Brews (1954), “Endometriosis including endometriosis of the diaphragm and Meigs’ syndrome”. Proc Roy Soc Med, 47 (461). 4. Bernstein J.S., Perlow V., J. Brenner (1961), “Massive ascites due to endometriosis”. American Journal of digestive disease, 6 (1), pp. 1-6. 5. Ussia Anastasia, Betsas George, Corona Roberta, De Cicco Carlo, Koninckx Philippe R. (2008), “Pathophysiology of Cyclic Hemorrhagic Ascites and Endometriosis”. Journal of Minimally Invasive Gyne- cology, 15 (6), pp. 677-681. điều trị lạc nội mạc tử cung. Thêm vào đó nguy cơ bị tái phát lại dịch ổ bụng là cao. Ở bệnh nhân này vì còn trẻ và đang mong con nên chúng tôi quyết định mổ bảo tồn. Sau mổ chúng tôi hướng sẽ điều trị khoảng 5-6 mũi Zoladex trước khi chuyển bệnh nhân tới khoa hiếm muộn để làm thụ tinh ống nghiệm. Hiện nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu quả cao của điều trị bằng Dienogest (đồng vận thụ thể progesterone chọn lọc), ít ảnh hưởng lên sự loãng xương và ít gây cảm giác nóng bừng như khi dùng đồng vận GnRH lâu dài. Nhưng ở thị trường Việt Nam hiện chưa có sản phẩm này. KẾT LUẬN Tràn dịch ổ bụng lượng nhiều có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do bệnh lý lạc nội mạc tử cung. Đây tuy là nguyên nhân hiếm nhưng vẫn muốn đề cập để nhắc bác sĩ phụ khoa khi thực hành lâm sàng tránh bỏ sót để có hướng điều trị và tư vấn theo dõi cho bệnh nhân tốt nhất. Quản lý lâu dài cho vấn đề tràn dịch ổ bụng tái phát lượng nhiều do lạc nội mạc tử cung vẫn còn nhiều thách thức, nguy cơ tái phát cao. Cá thể hóa từng bệnh nhân để lựa chọn điều trị nội khoa hay ngoại khoa. THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
File đính kèm:
tran_dich_o_bung_tai_phat_do_lac_noi_mac_tu_cung_bao_cao_mot.pdf

