Trầm cảm sau đột quỵ và một số yếu tố liên quan

Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu “Mô tả thực trạng trầm cảm sau đột quỵ trên người bệnh

điều trị tại Viện Y học Cổ truyền Quân đội và Bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2018 – 2019” và “Tìm

hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm sau đột quỵ”. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 111

người bệnh sau đột quỵ đang được điều trị và phục hồi chức năng tại Viện Y học Cổ truyền Quân đội và

Bệnh viện Lão khoa Trung ương bằng bộ công cụ PHQ-9. Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ trầm cảm trên

người bệnh sau đột quỵ là 57,7%. Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tình trạng trầm cảm sau

đột quỵ gồm điều kiện kinh tế, sự thay đổi vai trò của người bệnh trong gia đình sau khi bị đột quỵ, khó khăn

trong giao tiếp, khó nuốt, hiệu quả phục hồi chức năng, mức độ phụ thuộc của người bệnh, nhận thức của

người bệnh về tình trạng đột quỵ, mức độ hỗ trợ xã hội và chất lượng chăm sóc điều dưỡng (p < 0,05).="">

vậy, tỷ lệ mắc trầm cảm sau đột quỵ đang ở mức khá cao. Người bệnh sau đột quỵ tự đánh giá vai trò của

bản thân trong gia đình bị ảnh hưởng (giảm hoặc phụ thuộc), có mức độ hỗ trợ xã hội thấp và nhận định

về tình trạng bệnh đột quỵ một cách tiêu cực có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn những người bệnh khác

pdf 9 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Trầm cảm sau đột quỵ và một số yếu tố liên quan", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trầm cảm sau đột quỵ và một số yếu tố liên quan

Trầm cảm sau đột quỵ và một số yếu tố liên quan
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
119TCNCYH 122 (6) - 2019
Tác giả liên hệ: Phạm Thị Thuận, 
Viện Y học Cổ truyền Quân Đội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 19/08/2019
Ngày được chấp nhận: 29/08/2019
TRẦM CẢM SAU ĐỘT QUỴ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Phạm Thị Thuận1, Trương Quang Trung2, Vũ Thị Thanh Huyền2
1Viện Y học Cổ truyền Quân Đội, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu được thực hiện với hai mục tiêu “Mô tả thực trạng trầm cảm sau đột quỵ trên người bệnh 
điều trị tại Viện Y học Cổ truyền Quân đội và Bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2018 – 2019” và “Tìm 
hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm sau đột quỵ”. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 111 
người bệnh sau đột quỵ đang được điều trị và phục hồi chức năng tại Viện Y học Cổ truyền Quân đội và 
Bệnh viện Lão khoa Trung ương bằng bộ công cụ PHQ-9. Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ trầm cảm trên 
người bệnh sau đột quỵ là 57,7%. Một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến tình trạng trầm cảm sau 
đột quỵ gồm điều kiện kinh tế, sự thay đổi vai trò của người bệnh trong gia đình sau khi bị đột quỵ, khó khăn 
trong giao tiếp, khó nuốt, hiệu quả phục hồi chức năng, mức độ phụ thuộc của người bệnh, nhận thức của 
người bệnh về tình trạng đột quỵ, mức độ hỗ trợ xã hội và chất lượng chăm sóc điều dưỡng (p < 0,05). Như 
vậy, tỷ lệ mắc trầm cảm sau đột quỵ đang ở mức khá cao. Người bệnh sau đột quỵ tự đánh giá vai trò của 
bản thân trong gia đình bị ảnh hưởng (giảm hoặc phụ thuộc), có mức độ hỗ trợ xã hội thấp và nhận định 
về tình trạng bệnh đột quỵ một cách tiêu cực có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn những người bệnh khác. 
Từ khóa: Trầm cảm, đột quỵ, điều dưỡng, yếu tố liên quan
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một trong những hậu quả về 
tâm thần thường gặp nhất trên người bệnh sau 
đột quỵ với tỷ lệ mắc khoảng 1/3 [1 - 2]. Tỷ lệ 
mắc trầm cảm cao nhất ở năm đầu tiên sau đột 
quỵ, sau đó giảm dần vào những năm tiếp theo 
[3]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Văn Tuấn 
và Lê Cao Thái cho kết quả tỷ lệ trầm cảm trên 
người bệnh sau đột quỵ nhồi máu não hiện ở 
mức 37% [4]. Các yếu tố có liên quan đến tình 
trạng trầm cảm sau đột quỵ gồm tuổi, giới, sắc 
tộc, văn hóa, trình độ học vấn, điều kiện kinh 
tế, tiền sử gia đình có người mắc trầm cảm, 
mức độ tàn tật và sự hỗ trợ xã hội [5 - 6]. Trầm 
cảm gây ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả phục 
hồi chức năng, làm tăng nguy cơ tử vong, kéo 
dài thời gian nằm viện, tăng nhu cầu sử dụng 
các dịch vụ chăm sóc y tế cũng như làm giảm 
chất lượng cuộc sống của người bệnh sau đột 
quỵ [3]. Tuy vậy, có tới hơn 50% trường hợp 
trầm cảm sau đột quỵ không được chẩn đoán 
và điều trị kịp thời [7]. Nguyên nhân của việc 
bỏ sót chẩn đoán và điều trị có thể do các biểu 
hiện của trầm cảm dễ bị lẫn với các vấn đề về 
thể chất người bệnh gặp phải sau đột quỵ, nhân 
viên y tế chưa có kinh nghiệm trong việc nhận 
định các triệu chứng trầm cảm hoặc không có 
đủ thời gian để tiếp cận và đánh giá một cách 
hiệu quả khía cạnh sức khỏe tâm thần của 
người bệnh bởi sự ưu tiên quan tâm sức khỏe 
thể chất trước tiên. Việc phát hiện sớm tình 
trạng trầm cảm sau đột quỵ có vai trò vô cùng 
quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả điều trị 
và chăm sóc người bệnh, giúp tiên lượng khả 
năng phục hồi [8]. 
Bệnh viện Lão khoa Trung ương và Viện Y 
học Cổ truyền Quân đội là hai cơ sở y tế trên 
địa bàn thành phố Hà Nội có chức năng điều trị 
và chăm sóc cho người bệnh sau đột quỵ. Tại 
hai cơ sở y tế này, người bệnh đều được kết 
hợp cả y học hiện đại và y học cổ truyền trong 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
120 TCNCYH 122 (6) - 2019
quá trình điều trị và phục hồi chức năng sau đột 
quỵ. Với mục đích nâng cao chất lượng điều trị 
và chăm sóc cho người bệnh, chúng tôi thực 
hiện nghiên cứu với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng trầm cảm sau đột quỵ 
trên người bệnh điều trị tại Viện Y học Cổ 
truyền Quân đội và Bệnh viện Lão khoa Trung 
ương năm 2018 – 2019.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình 
trạng trầm cảm sau đột quỵ.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
 Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được 
tiến hành với 111 người bệnh sau đột quỵ đang 
điều trị, phục hồi chức năng tại Viện Y học Cổ 
truyền Quân đội và Bệnh viện Lão khoa Trung 
ương trong thời gian từ tháng 11 năm 2018 đến 
tháng 08 năm 2019 thỏa mãn tiêu chuẩn chọn 
mẫu: 
- Người bệnh được chẩn đoán xác định là 
đột quỵ não lần đầu trong hồ sơ bệnh án theo 
tiêu chuẩn của tổ chức Y tế thế giới.
- Thời gian tính từ thời điểm khởi phát đột 
quỵ đến thời điểm tham gia vào nghiên cứu ít 
nhất là 14 ngày (2 tuần).
- Độ tuổi từ 18 trở lên.
- Tình trạng ý thức tỉnh táo tại thời điểm 
phỏng vấn.
- Có khả năng giao tiếp và hiểu được tiếng 
Việt.
- Người bệnh đồng ý tham gia vào nghiên 
cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Người bệnh được chẩn đoán là cơn thiếu 
máu não thoáng qua hoặc từng có tổn thương 
não bộ trước đó (ví dụ: chấn thương sọ não); 
- Người bệnh từng bị tàn tật trước khi bị đột 
quỵ.
- Người bệnh có rối loạn ý thức, lú lẫn cấp 
do mọi nguyên nhân.
- Người bệnh có tiền sử rối loạn tâm thần 
trước khi bị đột quỵ như sa sút trí tuệ nặng, 
trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tâm 
thần phân liệt, nghiện chất đã từng được chẩn 
đoán trước đây.
- Người bệnh chuyển viện.
2. Phương pháp
Mô tả cắt ngang 
3. Công cụ nghiên cứu
Bộ câu hỏi gồm 2 phần
Phần I: (Dành cho người bệnh tham gia 
vào nghiên cứu) tự trả lời, gồm các mục: Đặc 
điểm chung về nhân khẩu học và tình trạng sức 
khoẻ, Bộ câu hỏi Nhận thức về bệnh tật tóm tắt 
(Brief – IPQ), Bộ câu hỏi tình trạng sức khỏe 
của người bệnh (PHQ-9), Thang đo đa chiều về 
nhận thức hỗ trợ xã hội (MSPSS), Bộ câu hỏi 
về Sự hài lòng của người bệnh với chất lượng 
chăm sóc điều dưỡng rút gọn (PSNCQQ).
Phần II: Phần dành cho nhóm nghiên cứu, 
thu thập thông tin từ hồ sơ bệnh án và đánh giá, 
hỏi trực tiếp trên người bệnh, gồm các phần: 
Các đặc điểm về bệnh lý liên quan đến đột quỵ 
của người bệnh và Thang điểm Barthel Index.
4. Phân tích số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 
22.0, một số thuật toán thống kê mô tả như 
tỷ lệ phần trăm, trung bình và độ lệch chuẩn, 
và thống kê phân tích như Chi bình phương, 
tương quan Spearman’s rho được sử dụng. 
Ngoài ra phân tích hồi quy logistic đa biến cũng 
được áp dụng.
5. Đạo đức trong nghiên cứu 
Nghiên cứu tuân thủ các quy định về đạo 
đức nghiên cứu. Đồng thời, nghiên cứu được 
sự ủng hộ cho phép tiến hành của Ban lãnh đạo 
2 bệnh viện. Người bệnh được giải thích rõ về 
mục đích nghiên cứu và đồng ý tham gia vào 
nghiên cứu. 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
121TCNCYH 122 (6) - 2019
III. KẾT QUẢ
Sau thời gian thu thập số liệu, có 111 người 
bệnh thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu hoàn thiện 
bộ câu hỏi. Tuổi trung bình của người tham gia 
nghiên cứu 67 tuổi, với người bệnh trẻ nhất là 
31 tuổi và lớn tuổi nhất là 92 tuổi.
1. Trầm cảm trên người bệnh sau đột quỵ
Tình trạng trầm cảm của người bệnh được 
đánh giá qua thang điểm PHQ-9. Điểm dao 
động từ 0 đến 27 với điểm càng cao cho thấy 
mức độ trầm cảm càng trầm trọng. Điểm trung 
bình PHQ-9 trên nhóm người bệnh tham gia 
nghiên cứu là 7,9 ± 6,8, với điểm thấp nhất là 0 
(13 người) và cao nhất là 27 (2 người). Bảng 1 
mô tả mức độ trầm cảm.
Bảng 1. Mức độ trầm cảm theo thang điểm PHQ-9
Điểm PHQ-9 Mức độ trầm cảm n (%)
0 – 4 Không trầm cảm 47 (42,3%)
5 – 9 Trầm cảm mức độ nhẹ 21 (18,9%)
10 – 14 Trầm cảm mức độ trung bình 23 (20,7%)
15 – 19 Trầm cảm nặng mức trung bình 12 (10,8%)
20 - 27 Trầm cảm mức độ nặng 8 (7,2%)
Trong 111 người bệnh tham gia vào nghiên cứu, có 47 người bệnh không mắc trầm cảm (chiếm 
42,3%) và 64 người bệnh mắc trầm cảm ở các mức độ từ nhẹ đến nặng (chiếm 57,7%). Trong đó, 
trầm cảm mức độ nhẹ và trung bình chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt là 18,9% và 20,7%; trầm cảm mức 
độ nặng chiếm tỷ lệ ít nhất (7,2%).
2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm sau đột quỵ
Bảng 2. Tỷ lệ trầm cảm theo các đặc điểm nhân khẩu học
Đặc điểm 
Trầm cảm OR
(CI 95%)
p
Có (n) Không (n)
Độ tuổi
< 65 tuổi 25 22 1,37
(0,64 – 2,94)
0,44
≥ 65 tuổi 39 25
Giới tính
Nam 42 31 1,02
(0,46 – 2,25)
1,00
Nữ 22 16
Nơi sống
Thành phố 34 32 1,88
(0,86 – 4,13)
0,12
Nông thôn 30 15
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
122 TCNCYH 122 (6) - 2019
Đặc điểm 
Trầm cảm OR
(CI 95%)
p
Có (n) Không (n)
Trình độ học vấn
≤ Phổ thông cơ sở 31 21 0,71
(0,40 – 1,83)
0,86
≥ Phổ thông trung học 33 26
Hiện đang làm 
việc
Có 30 19 0,77
(0,36 – 1,65)
0,56
Không 34 28
Tình trạng hôn 
nhân
Sống chung với vợ/chồng 51 42 2,14
(0,71 – 6,50)
0,20
Sống một mình 13 5
Điều kiện kinh tế
Khá giả trở lên 10 17 3,06
1,25 – 7,52
0,015
Trung bình trở xuống 54 30
Vai trò thay đổi 
sau đột quỵ
Không thay đổi 5 17 6,69
(2,25 – 19,88)
< 0,001
Giảm vai trò, phụ thuộc 59 30
Người thân chăm 
sóc khi nằm viện
Có 56 40 0,82
(0,27 – 2,43)
0,78
Không 8 7
Tỷ lệ trầm cảm sau đột quỵ không khác biệt về giới, nhóm tuổi, nơi sống, trình độ học vấn và đặc 
điểm người thân khi chăm sóc. Nhóm người bệnh có điều kiện kinh tế trung bình trở xuống có tỷ lệ 
trầm cảm cao gấp 3,06 lần so với nhóm người bệnh có điều kiện kinh tế khá giả trở lên (p < 0,05); 
nhóm người bệnh có sự thay đổi vai trò – phụ thuộc sau đột quỵ có tỷ lệ trầm cảm cao gấp 6,69 lần 
so với nhóm không có sự thay đổi vai trò sau đột quỵ (p < 0,05).
Bảng 3. Tỷ lệ trầm cảm theo các đặc điểm bệnh lý liên quan đến đột quỵ
Các đặc điểm lâm sàng
Trầm cảm OR
(CI 95%)
p
Có (n) Không (n)
Thời gian từ lúc đột 
quỵ đến phỏng vấn
2 – 4 tuần 33 19 1
5 – 12 tuần 15 14
0,62
(0,25 – 1,55)
0,30
13 – 24 tuần 7 4
1,01
(0,26 – 3,89)
0,99
≥ 25 tuần 8 10
0,46
(0,16 – 1,37)
0,16
Loại đột quỵ
Thiếu máu não 46 38 1,65
(0,67 – 4,10)
0,37
Chảy máu não 18 9
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
123TCNCYH 122 (6) - 2019
Các đặc điểm lâm sàng
Trầm cảm OR
(CI 95%)
p
Có (n) Không (n)
Vị trí tổn thương
Bán cầu não phải 20 20 1,42
(0,64 – 3,16)
0,42
Bán cầu não trái 37 26
Liệt mặt
Không 43 38 2,06
(0,84 – 5,04)
0,11
Có 21 9
Giao tiếp khó khăn
Không 23 29 2,87
(1,32 – 6,26)
0,007
Có 41 18
Khó nuốt
Không 37 39 3,56
(1,44 – 8,82)
0,007
Có 27 8
Liệt nửa người
Không 9 8 1,25
(0,44 – 3,54)
0,79
Có 55 39
Giảm khả năng giữ 
thăng bằng
Không 5 7 2,07
(0,61 – 6,97)
0,35
Có 59 40
Tăng huyết áp
Không 12 13 1,66
(0,68 – 4,06)
0,36
Có 52 34
Đái tháo đường
Không 55 38 0,69
(0,25 – 1,90)
0,60
Có 9 9
Hiệu quả phục hồi 
chức năng
Tốt 11 20 3,57
(1,50 – 8,52)
0,005
Chưa tốt 53 27
Tỷ lệ người mắc trầm cảm sau đột quỵ không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với một số đặc 
điểm lâm sàng của người bệnh. Nhóm người bệnh gặp khó khăn trong giao tiếp, khó nuốt và chưa 
đạt hiệu quả trong phục hồi chức năng có tỷ lệ trầm cảm sau đột quỵ cao hơn nhóm còn lại (2,87 lần; 
3,56 lần và 3,57 lần tương ứng) với p < 0,05.
Một số yếu tố liên quan khác được đánh giá bằng các thang điểm được chuẩn hóa. Thang điểm 
Barthel Index với điểm càng cao người bệnh càng độc lập tốt trong việc thực hiện các hoạt động 
sống thường ngày, thang điểm MSPSS với điểm càng cao người bệnh càng nhận được nhiều sự hỗ 
trợ xã hội, thang Brief – IPQ với điểm càng cao người bệnh càng nhìn nhận tiêu cực về tình trạng 
bệnh đột quỵ của mình và thang PSNCQQ rút gọn với điểm càng cao mức độ hài lòng với chất lượng 
chăm sóc điều dưỡng của người bệnh càng giảm. Bảng 4 trình bày mối tương quan một số thang 
điểm đánh giá với kết quả đánh giá trầm cảm.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
124 TCNCYH 122 (6) - 2019
Bảng 4. Mối tương quan giữa trầm cảm sau đột quỵ và một số đặc điểm khác
Các biến Điểm PHQ 9 p
Sự phụ thuộc của người bệnh (Barthel Index) r = - 0,59* < 0,001
Nhận thức về bệnh (Brief – IPQ) r = 0,80* < 0,001
Hỗ trợ xã hội (MSPSS) r = - 0,59* < 0,001
Hoạt động chăm sóc điều dưỡng (PSNCQQ) r = 0,44* < 0,001
*Tương quan Spearman’s Rho
Người bệnh có mức độ độc lập càng cao, mức độ hỗ trợ xã hội tốt, nhận thức về bệnh tích cực 
và đánh giá tốt về chăm sóc điều dưỡng có kết quả và tỷ lệ trầm cảm thấp hơn so với các nhóm 
khác với p < 0,001.
Mô hình hồi quy Logistic đa biến được áp dụng nhằm phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến 
đánh giá trầm cảm sau đột quỵ (bảng 5).
Bảng 5. Mô hình các yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm sau đột quỵ
Các đặc điểm OR 95% CI p
Điều kiện kinh tế 4,94 0,56 – 43,37 0,149
Thay đổi vai trò trong gia đình 9,97 1,56 – 63,9 0,015
Giao tiếp khó khăn 0,20 0,03 – 1,21 0.081
Khó nuốt 1,69 0,23 – 12,49 0.608
Hiệu quả phục hồi chức năng 1,44 0,21 – 9,82 0,709
Mức độ phụ thuộc (Barthel Index) 1,003 0,98 – 1,03 0,812
Hỗ trợ xã hội (MSPSS) 0,39 0,16 – 0,96 0,04
Chăm sóc điều dưỡng (PSNCQQ) 0,264 0,06 – 1,16 0,077
Nhận thức về bệnh (Brief – IPQ) 4,66 2,21 – 9,81 < 0,001
Trong 9 đặc điểm được đưa vào mô hình hồi quy logistic, có 3 đặc điểm chính dự đoán và có 
nguy cơ chủ yếu với mức độ trầm cảm gồm Nhận thức của người bệnh về tình trạng đột quỵ (OR 
= 4,66; CI 95%: 2,21 – 9,81; p < 0,001). Sự thay đổi vai trò trong gia đình sau khi bị đột quỵ (OR = 
0,1, CI 95%: 0,02 – 0,64; p = 0,015) và Mức độ hỗ trợ xã hội mà người bệnh nhận được (OR = 0,39; 
CI 95%: 0,16 – 0,96; p = 0,04). Mức độ giải thích của mô hình với tình trạng trầm cảm sau đột quỵ 
nằm trong khoảng từ 57,6% (Cox & Snell R2) đến 77,4% (Nagelkerke R2) và dự đoán của mô hình 
chính xác tới 91,9%.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
125TCNCYH 122 (6) - 2019
IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ trầm cảm trên người bệnh sau đột quỵ 
trong nghiên cứu của chúng tôi là 57,7%, cao 
hơn nhiều so với các nghiên cứu của Hackett 
và cộng sự, Ayerber và cộng sự, Lê Văn Tuấn 
và cộng sự [1; 2; 4; 9]. Có sự khác biệt về tỷ lệ 
hiện mắc giữa các nghiên cứu là bởi các nghiên 
cứu khác nhau đã sử dụng các tiêu chuẩn chẩn 
đoán, tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên 
cứu, công cụ chẩn đoán, thời điểm nghiên cứu 
và các quần thể nghiên cứu khác nhau. Đặc 
biệt, quần thể người bệnh trong nghiên cứu của 
chúng tôi là nhóm người bệnh đột quỵ trong giai 
đoạn điều trị nội trú và tập phục hồi chức năng, 
vốn có tỷ lệ mắc trầm cảm sau đột quỵ cao hơn 
hẳn người bệnh đột quỵ trong cộng đồng [10].
Theo kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 
tỷ lệ mắc trầm cảm với các nhóm tuổi, giới tính, 
trình độ học vấn hay tình hình công việc. Tuy 
nhiên, nhóm người bệnh đánh giá điều kiện 
kinh tế của bản thân ở mức độ trung bình trở 
xuống có tỷ lệ mắc trầm cảm cao gấp 3,06 lần 
so với người có điều kiện kinh tế ở mức cao trở 
lên. Đặc biệt, những người sau khi bị đột quỵ bị 
giảm vai trò trong gia đình, thậm chí là trở thành 
người phụ thuộc có tỷ lệ mắc trầm cảm cao gấp 
gần 7 lần so với người không bị giảm vai trò 
trong gia đình. Kết quả này khác biệt với nghiên 
cứu của Yu – Shi và cộng sự khi cho rằng nhóm 
người ở độ tuổi trẻ hơn có nguy cơ bị trầm cảm 
sau đột quỵ cao hơn nhóm người cao tuổi [6]. 
Kết quả này cũng khác biệt với hầu hết nghiên 
cứu trước đây khi cho rằng nữ giới có tỷ lệ mắc 
trầm cảm cao hơn nam giới [8; 11]. Tuy nhiên, 
nghiên cứu cho kết quả khá tương đồng với 
nghiên cứu của Jarosz và cộng sự khi chỉ ra 
không có mối liên hệ giữa trình độ học vấn với 
tỷ lệ mắc trầm cảm và mối liên quan giữa trầm 
cảm và điều kiện kinh tế cũng như sự phụ thuộc 
sau khi bị đột quỵ [12]. 
Giả thiết phổ biến của các nghiên cứu trước 
là tổn thương vùng não trước trái và đột quỵ 
thiếu máu não có liên quan tới trầm cảm [7, 13]. 
Tuy nhiên trong nghiên cứu này cho thấy không 
có sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê giữa tỷ 
lệ trầm cảm với đột quỵ thiếu máu não và đột 
quỵ chảy máu não. Tỷ lệ mắc trầm cảm giữa 
tổn thương não bán cầu não trái và bán cầu 
não phải cũng không có khác biệt có ý nghĩa 
thống kê. Ngoài ra kết quả của nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy 2 yếu tố lâm sàng làm tăng 
tỷ lệ mắc trầm cảm sau đột quỵ là người bệnh 
gặp khó khăn trong giao tiếp và người bệnh có 
khó nuốt với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 
OR = 2,87; CI 95%: 1,32 – 6,26 và OR = 3,56, 
CI 95%:1,44 – 8,82. Có thể giải thích tình trạng 
này bởi sự khó khăn trong giao tiếp khiến người 
bệnh khó thể hiện được hết những suy nghĩ và 
cảm xúc của bản thân. Ngoài ra hoạt động nuốt 
là một giai đoạn trong hoạt động ăn uống – một 
trong những hoạt động sống cơ bản của con 
người. Người bệnh gặp khó khăn trong việc 
nuốt khiến sinh hoạt hằng ngày bị ảnh hưởng, 
giảm lượng dinh dưỡng hấp thu và phải đối mặt 
với các áp lực về nguy cơ nghẹn sặc nguy hiểm 
dẫn đến tăng nguy cơ mắc trầm cảm.
Theo nghiên cứu của chúng tôi, mức độ phụ 
thuộc của người bệnh sau đột quỵ càng cao có 
liên quan tới mức độ trầm cảm sau đột quỵ càng 
cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương 
đồng với các nghiên cứu của Haghgoo và cộng 
sự khi kết luận có mối tương quan nghịch giữa 
khả năng thực hiện các hoạt động sống thường 
ngày với mức độ trầm trọng của trầm cảm sau 
đột quỵ (r = - 0,81) [14]. 
Nghiên cứu tổng quan của Yu-Shi cho kết 
quả mức hộ hỗ trợ xã hội là yếu tố bảo vệ giúp 
hạn chế trầm cảm sau đột quỵ [6]. Nghiên cứu 
của chúng tôi cũng cho kết quả tương tự khi 
người bệnh càng nhận được nhiều sự hỗ trợ xã 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
126 TCNCYH 122 (6) - 2019
hội, mức độ trầm cảm sau đột quỵ càng thấp (r 
= - 0,59, p < 0,001).
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh vai trò 
của các chăm sóc, can thiệp điều dưỡng với 
trầm cảm sau đột quỵ [5]. Theo nghiên cứu của 
chúng tôi, người bệnh có mức độ hài lòng với 
chất lượng chăm sóc điều dưỡng càng thấp 
(điểm PSNCQQ càng cao) có liên quan tới mức 
độ trầm cảm sau đột quỵ càng cao (r = 0,44, p 
< 0,001). 
Đặc biệt, chúng tôi cũng tìm hiểu được đặc 
điểm nhận thức của người bệnh về tình trạng 
đột quỵ là một yếu tố tiên lượng vô cùng quan 
trọng đối với tình trạng trầm cảm sau đột quỵ 
(OR = 4,66, CI 95%: 2,21 – 9,81, p < 0,001. Đột 
quỵ xảy ra đột ngột, nguy hiểm, để lại di chứng 
nặng nề khiến người bệnh hoang mang, lo 
lắng, không rõ tiên lượng phục hồi và tái phát, 
tình trạng này kéo dài làm tăng nguy cơ mắc 
trầm cảm. 
V. KẾT LUẬN 
Tỷ lệ mắc trầm cảm sau đột quỵ ở Viện Y 
học Cổ truyền Quân đội và Bệnh viện Lão khoa 
Trung ương đang ở mức khá cao với tỷ lệ 57,7 
%. Người bệnh sau đột quỵ tự đánh giá vai trò 
của bản thân trong gia đình bị ảnh hưởng (giảm 
hoặc phụ thuộc), có mức độ hỗ trợ xã hội thấp 
và nhận định về tình trạng bệnh đột quỵ một 
cách tiêu cực có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn 
những người bệnh khác. Vì vậy, cần chú ý tới 
các cảm nhận của người bệnh để phát hiện 
sớm tình trạng trầm cảm sau đột quỵ, đồng thời 
tăng cường giáo dục sức khỏe để người bệnh 
hiểu rõ hơn về tình trạng và tiên lượng bệnh 
của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luis A., Salma A., Charles D.A.W., 
et al (2013). Natural history, predictors and 
outcomes of depression after stroke: systematic 
review and meta - analysis. The British Journal 
of Psychiatry. 202,14 – 21.
2. Hackett M.L., Kristen P. (2014). Part 
I: frequency of depression after stroke: an 
updated systematic review and meta - analysis 
of observational studies. Int J Stroke. 9(8), 2017 
- 2025.
3. Towfighi A., Bruce O., Nada E. H. et 
al (2016). Poststroke depression: A scientific 
statement for healthcare professionals from the 
American Heart Association/American Stroke 
Association. Stroke. 47.
4. Lê Văn Tuấn, Lê Cao Thái (2014). 
Đánh giá đặc tính tương đồng giữa giải phẫu 
thần kinh và trầm cảm sau đột quỵ nhồi máu 
não cấp. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. 18(1).
5. Fu - ying Z.,Ying - ying Y., Lei L.,et 
al (2018). Clinical practice guidelines for post - 
stroke depression in China. Brazilian Journal of 
Psychiatry. 00(00).
6. Yu S., Dongdong Y., Yanyan Z. 
et al (2017). Risk factors for Post - stroke 
depression: A meta - analysis. Frontiers in 
Aging Neuroscience. 10.
7. Llorca G. E., Castilla G., Fernandez 
M. et al (2014). Post - stroke depression: an 
update. Neurologia. 30, 23 - 31.
8. Francisco J. C. (2010). Post - stroke 
depression: Can prediction help prevention? 
Future Neurol. 5(4), 569 - 580.
9. Ning S., Qiu - Jie L., Dong - Mei L., 
et al (2014). A Survey on 465 patients with 
post - stroke depression in China. Archives of 
Psychiatric Nursing. 28(6), 368 - 371.
10. Robinson G. R., Ricardo E. J. (2016). 
Post - Stroke Depression: A Review. Am J 
Psychiatry, 173(3). 221 - 231. 
11. Azra A., Jasminka D., Salem A., et 
al (2014). Post Stroke Depression. Med Arh. 
68(1), 47 - 50.
12. Halina S. J., Danuta M., Anna B., et 
al (2010). Predictors of depressive symptoms 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
127TCNCYH 122 (6) - 2019
in patients with stroke – a three - month follow - 
up. Neurologia. 44(1),13 - 20.
13. Robinson G. R., Gianfranco S. 
(2010). Poststroke Depression: A review. The 
Canadian Journal of Psychiatry. 55(6), 341 - 
349.
14. Haghgoo H. A., Elmira S. P., Ali S. H., 
et al (2013). Depression, activities of daily living 
and quality of life in patients with stroke. Journal 
of the Neurological Sciences. 328, 87 - 91.
Summary
POST – STROKE DEPRESSION AND ASSOCIATED FACTORS
The objectives of the study are to describe the post – stroke depression situation among inpatients 
in the Military Institute of Traditional Medicine and National Geriatric Hospital in 2018 – 2019” and to 
examine several factors associated with post – stroke depression”. A cross – sectional study design was 
utilized among 111 post – stroke inpatients who were treated and rehabilitated in the Military Institute 
of Traditional Medicine and National Geriatric Hospital. The study results showed that post – stroke 
depression was found in 57.7% participants. Several factors significantly associated with post – stroke 
depression as are economic status, patient’s role in family changed after stroke, dysphasia, aphagia, 
effectiveness of rehabilitation, the functional independence, patient perception of stroke, perceived 
social support and patient’s satisfaction with nursing care quality (p < 0.05). In conclusion, post – 
stroke depression among inpatients was high. Patients who have high perception of changed in role in 
family, low social support and negative perception of stroke get highly risk of post – stroke depression. 
Keywords: Depression, stroke, nurses, associated factors.

File đính kèm:

  • pdftram_cam_sau_dot_quy_va_mot_so_yeu_to_lien_quan.pdf