Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Trầm cảm, lo âu là những dạng rối loạn tâm thần phổ biến ở phụ nữ mang thai. Hầu hết

nghiên cứu tại Việt Nam về rối loạn tâm thần chu sinh chỉ tập trung vào trầm cảm sau sinh. Nghiên cứu về trầm

cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai còn hạn chế.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại TP. Hồ Chí Minh.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 550 phụ nữ mang thai tại bệnh

viện Từ Dũ và Hùng Vương từ tháng 3-4/2019. Phụ nữ mang thai được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có

cấu trúc. Trầm cảm, lo âu được đánh giá bằng thang đo CES-D và STAI-T đã được chuẩn hóa tại Việt Nam.

Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có dấu hiệu trầm cảm, lo âu là 24,0%, 16,0%. Các yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm

bao gồm áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (PR=2,08; KTC 95%: 1,24-3,48), trải qua sự kiện buồn thai kỳ

(PR=2,16; KTC 95%: 1,47-3,19), gia đình có người rối loạn tâm thần (PR=4,56; KTC 95%: 1,67-12,47) và hỗ trợ

tinh thần từ chồng thấp (PR=1,93; KTC 95%: 1,32-2,83). Các yếu tố liên quan làm tăng tỷ lệ lo âu bao gồm thai

ngoài kế hoạch (PR=1,98; KTC 95%: 1,25-3,14), tiền sử rối loạn tâm thần (PR=3,44; KTC 95%: 1,17-10,10), trải

qua sự kiện buồn thai kỳ (PR=1,93; KTC 95%: 1,23-3,05), hỗ trợ tinh thần từ chồng (PR=2,67-2,80).

pdf 9 trang phuongnguyen 620
Bạn đang xem tài liệu "Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh

Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 64
TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN 
Ở PHỤ NỮ MANG THAI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Phạm Thị Thu Phương*, Đặng Thị Minh Trang*, Thái Thanh Trúc* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Trầm cảm, lo âu là những dạng rối loạn tâm thần phổ biến ở phụ nữ mang thai. Hầu hết 
nghiên cứu tại Việt Nam về rối loạn tâm thần chu sinh chỉ tập trung vào trầm cảm sau sinh. Nghiên cứu về trầm 
cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai còn hạn chế. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại TP. Hồ Chí Minh. 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 550 phụ nữ mang thai tại bệnh 
viện Từ Dũ và Hùng Vương từ tháng 3-4/2019. Phụ nữ mang thai được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi soạn sẵn có 
cấu trúc. Trầm cảm, lo âu được đánh giá bằng thang đo CES-D và STAI-T đã được chuẩn hóa tại Việt Nam. 
Kết quả: Tỷ lệ thai phụ có dấu hiệu trầm cảm, lo âu là 24,0%, 16,0%. Các yếu tố làm tăng tỷ lệ trầm cảm 
bao gồm áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (PR=2,08; KTC 95%: 1,24-3,48), trải qua sự kiện buồn thai kỳ 
(PR=2,16; KTC 95%: 1,47-3,19), gia đình có người rối loạn tâm thần (PR=4,56; KTC 95%: 1,67-12,47) và hỗ trợ 
tinh thần từ chồng thấp (PR=1,93; KTC 95%: 1,32-2,83). Các yếu tố liên quan làm tăng tỷ lệ lo âu bao gồm thai 
ngoài kế hoạch (PR=1,98; KTC 95%: 1,25-3,14), tiền sử rối loạn tâm thần (PR=3,44; KTC 95%: 1,17-10,10), trải 
qua sự kiện buồn thai kỳ (PR=1,93; KTC 95%: 1,23-3,05), hỗ trợ tinh thần từ chồng (PR=2,67-2,80). 
Kết luận: Trầm cảm và lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai. Cần bổ sung các phòng tư vấn tâm lý và có 
chương trình sàng lọc trầm cảm hoặc lo âu cho phụ nữ mang thai, đặc biệt là phụ nữ mang thai có nguy cơ cao. 
Từ khóa: trầm cảm, lo âu, phụ nữ mang thai, CES-D, STAI-T 
ABSTRACT 
DEPRESSION, ANXIETY AND ASSOCIATED FACTORS AMONG PREGNANT WOMEN 
IN HO CHI MINH CITY 
Pham Thi Thu Phuong, Dang Thi Minh Trang, Thai Thanh Truc 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 64 - 72 
Background: Depression and anxiety are prevalent mental disorders in pregnant women. Most studies in 
Vietnam of perinatal mental disorders only focus on postpartum depression. Studies of depression and anxiety 
during pregnancy are limited. 
Objectives: To determine prevalence of depression, anxiety and associated factors in pregnant women in Ho 
Chi Minh City. 
Materials and methods: A cross-sectional study was conducted in 550 pregnant women at Tu Du and 
Hung Vuong Hospital from March to April 2019. Pregnant women were interviewed using a structural 
questionnaire. Depression and anxiety were measured by the CES-D and STAI-T which have already been 
validated in Vietnam. 
Results: The prevalence of depression and anxiety in pregnant women was 24.0%, 16.0%. Factors 
associated with depression included pressure from the expectation of baby sex from husbands (PR=2.08; 95% CI: 
1.24-3.48), experience sad event in pregnancy (PR=2.16; 95% CI: 1.47-3.19), family history of mental disorders 
*Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: CN. Phạm Thị Thu Phương ĐT: 0981861858 Email: [email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 65
(PR=4.56; 95% CI: 1.67-12.47), low level of spiritual support from husband (PR=1.93; 95% CI: 1.32-2.83). 
Factors associated with anxiety included unintended pregnancy (PR=1.98; 95% CI: 1.25-3.14), history of mental 
disorders (PR=3.44; 95% CI: 1.17-10.10), experience sad event in pregnancy (PR=1.93; 95% CI: 1.23-3.05), low 
level of spiritual support from husband (PR=2.67-2.80). 
Conclusion: Depression and anxiety are prevalent in pregnant women during their pregnancy. Maternity 
hospitals should provide psychological consulting services and screening program for depression or anxiety for 
pregnant women, especially those who are at high-risk. 
Key words: depression, anxiety, pregnant women, CES-D, STAI-T. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Mang thai là giai đoạn có nhiều thay đổi về 
mặt thể chất, tinh thần. Phụ nữ mang thai 
thường có nhiều suy nghĩ lo lắng, tâm trạng thay 
đổi thất thường, từ đó có thể dẫn đến các rối 
loạn tâm thần, phổ biến nhất là trầm cảm, lo âu. 
Ước tính tỷ lệ mắc trầm cảm trong thai kỳ dao 
động từ 7 – 15% ở các nước thu nhập cao, tăng 
lên 19 – 25% ở các nước thu nhập thấp và trung 
bình(1). Một số nghiên cứu gần đây thực hiện tại 
Slovenia, Ả-rập Xê-út , Bangladesh cho thấy 
khoảng 19,6 – 37,1% thai phụ mắc trầm cảm và 
12,5 – 54% thai phụ mắc lo âu(2,3,4). Chưa có nhiều 
báo cáo ở các nước khu vực Đông Nam Á, 
nghiên cứu tiến hành tại Malaysia về các rối loạn 
tâm thần chung cho kết quả tỷ lệ thai phụ mắc 
các rối loạn tâm thần ở 3 tháng giữa và ba tháng 
cuối lần lượt là 23,6% và 24,7%(5). 
Có nhiều bằng chứng cho thấy trầm cảm và 
lo âu trong thai kỳ có thể gây nhiều ảnh hưởng 
bất lợi cho cả mẹ và bé. Thai phụ mắc trầm cảm, 
lo âu có nguy cơ sinh non, sinh nhẹ cân, nguy cơ 
tiền sản giật cao hơn những thai phụ không mắc 
trầm cảm, lo âu(6,7). Lo âu trong quá trình mang 
thai của mẹ làm tăng nguy cơ trẻ mắc các bệnh 
như khó thở, phát ban, hen suyễn lúc nhỏ và khi 
trưởng thành, làm chậm sự phát triển trí não và 
hệ thần kinh vận động của trẻ sơ sinh, gây ảnh 
hưởng đến hành vi, cảm xúc của trẻ sau này(8,9). 
Những nghiên cứu trước đây đã tập trung 
tìm ra các yếu tố nguy cơ cho trầm cảm, lo âu 
trong thai kỳ. Cụ thể trầm cảm, lo âu thai kỳ có 
liên quan đến trình độ học vấn thấp thu nhập 
thấp, thai ngoài kế hoạch, tiền sử trầm cảm, mức 
độ hỗ trợ từ chồng kém, bạo lực từ chồng(4,5,10). 
Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ khác như vô sinh 
trước đó, các bệnh lý thai kỳ kèm theo, các sự 
kiện buồn, gia đình có người rối loạn tâm thần 
vẫn chưa được làm rõ(3,4,5,). Đồng thời, sự khác 
biệt về văn hóa, điều kiện kinh tế xã hội thấp có 
thể dẫn đến vấn đề về sức khỏe tâm thần ở thai 
phụ tại Việt Nam. 
Tại Việt Nam, hầu hết nghiên cứu về rối loạn 
tâm thần chu sinh chỉ tập trung vào trầm cảm 
sau sinh, các nghiên cứu về trầm cảm, lo âu ở 
phụ nữ mang thai còn hạn chế. Hai nghiên cứu 
do Fisher J tiến hành tại Hà Nội và Hà Nam cho 
kết quả lần lượt 29,1% thai phụ ở tam cá nguyệt 
cuối (năm 2007), 17,4% thai phụ ở giai đoạn sớm 
và giai đoạn muộn thai kỳ (năm 2010) mắc các 
rối loạn tâm thần phổ biến như trầm cảm, lo 
âu(11,12). Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ thực 
hiện ở khu vực phía Bắc Việt Nam, khoảng thời 
gian các nghiên cứu được thực hiện tính đến 
thời điểm hiện tại khá dài, số liệu báo cáo có thể 
không phù hợp với thời điểm hiện tại. Do đó, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này tại hai bệnh 
viện phụ sản Hùng Vương và Từ Dũ với mục 
tiêu xác định tỷ lệ trầm cảm, lo âu ở phụ nữ 
mang thai và các yếu tố liên quan. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Có 550 phụ nữ mang thai tại hai bệnh viện 
Hùng Vương và Từ Dũ từ tháng 3-4/2019. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu cắt ngang. 
Phương pháp chọn mẫu 
Tại mỗi bệnh viện, chúng tôi chọn 3 phòng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 66
khám ngẫu nhiên, sử dụng kỹ thuật chọn mẫu 
hệ thống, cứ mỗi năm phụ nữ mang thai 
(PNMT) đến khám thai thì một PNMT được tiếp 
cận và mời tham gia vào nghiên cứu. Kỹ thuật 
chọn mẫu đảm bảo rằng mỗi ngày phỏng vấn 
khoảng 28-30 thai phụ, điều này phù hợp với 
nguồn nhân lực của nghiên cứu (2 nghiên cứu 
viên). Mỗi bệnh viện có 269 PNMT thỏa tiêu chí 
(PNMT trên 18 tuổi, có khả năng giao tiếp và đủ 
sức khỏe, hoàn thiện các thang đo trầm cảm, lo 
âu) được đưa vào phân tích. 
Phương pháp thu thập số liệu 
Sau khi được cung cấp thông tin về nghiên 
cứu và thai phụ đồng ý tham gia vào nghiên 
cứu, nghiên cứu viên tiến hành phỏng vấn mặt 
đối mặt thai phụ bằng bộ câu hỏi soạn sẵn trong 
khoảng 30 phút. Bộ câu hỏi sau khi hoàn thành 
được kiểm tra tính đầy đủ thông tin, mã hóa 
theo số và hoàn toàn bảo mật thông tin. Để đảm 
bảo đạo đức nghiên cứu, đối với những thai phụ 
muốn nhận kết quả sàng lọc của họ, chúng tôi sẽ 
gửi trả kết quả qua e-mail sau khi tổng hợp (theo 
thông tin đối tượng cung cấp thêm). Chúng tôi 
cũng hướng dẫn những thai phụ có dấu hiệu 
trầm cảm, lo âu trao đổi với bác sĩ sản khoa 
trong những lần khám tiếp theo để được chẩn 
đoán chính xác hơn. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi bao gồm các đặc điểm về kinh tế - 
xã hội như tuổi, giới, nghề nghiệp, tình trạng 
hôn nhân; các yếu tố liên quan đến thai kỳ hiện 
tại và tiền sử thai kỳ như tuổi thai, số lần khám 
thai, PARA. Đặc điểm tâm lý – xã hội liên quan 
đến thai kỳ như áp lực do mong muốn giới tính, 
trải qua sự kiện buồn, mức độ hỗ trợ từ chồng và 
gia đình về vật chất, tinh thần, công việc nhà; 
bạo lực từ chồng. 
Trầm cảm được đánh giá bởi CES-D gồm 
20 câu, mỗi câu được đánh giá tương ứng với 
thang điểm Likert từ 0 – 3 là 4 mức độ hiếm 
khi, đôi khi, thỉnh thoảng và hầu hết thời gian 
trong 7 ngày(13). Thang đo CES-D đã được 
chuẩn hóa tại Việt Nam với độ nhạy, độ 
chuyên lần lượt là 79,8% và 83,0%, hệ số tin 
cậy nội bộ Cronbach’s alpha là 0,81, được sử 
dụng trong nghiên cứu trước đây sàng lọc 
trầm cảm trong thai kỳ ở phụ nữ mang 
thai(2,14). Tổng số điểm của thang đo dao động 
từ 0 – 60, được tính bằng cách cộng điểm số 
của câu hỏi lại. Điểm cắt 16 phân biệt các thai 
phụ có trầm cảm hay không trầm cảm(2,14). 
Trong nghiên cứu hiện tại, tính tin cậy nội bộ 
của CES-D với hệ số Cronbach alpha là 0,81. 
Lo âu được đánh giá bởi tiểu mục STAI-T 
của thang đo STAI(15). Thang đo STAI gồm hai 
tiểu mục là quy mô đo lường lo âu thời điểm 
hiện tại (STAI-State trạng thái lo âu hiện tại) và 
quy mô đo lường lo âu chung (STAI-Trait đặc 
điểm của lo âu). Mỗi tiểu mục có 20 câu, mỗi câu 
có 4 mức độ trả lời từ hầu như không bao giờ 
đến luôn luôn tương ứng với điểm số từ 1-4. Hệ 
số tin cậy nội bộ cho thang đo dao động từ 0,86 
đến 0,95, độ nhạy, độ đặc hiệu của STAI lần lượt 
là 78,3% và 71,0%(15). STAI đã được chuẩn hóa tại 
Việt Nam, được sử dụng rộng rãi trong các 
nghiên cứu ở phụ nữ mang thai(2,4). Nghiên cứu 
này chỉ sử dụng tiểu mục STAI – Trait của thang 
đo STAI để khảo sát lo âu trong thai kỳ, 
Cronbach’s alpha của STAI-T trong nghiên cứu 
này là 0,85. Điểm cắt 45 được sử dụng để phân 
biệt có lo âu hay không lo âu. 
Phân tích dữ kiện 
Sử dụng tỷ lệ để tóm tắt dữ liệu và kiểm 
định Chi bình phương với mức p<0,05 được 
xem là có ý nghĩa thống kê. Số đo dịch tễ PR 
với khoảng tin cậy 95% được dùng để lượng 
hóa mối liên hệ giữa trầm cảm, lo âu với các 
yếu tố liên quan. Để xác định các yếu tố có liên 
quan độc lập với trầm cảm, lo âu trong thai kỳ 
thì dùng đến phương pháp phân tích đa biến, 
trong đó sử dụng cách tiếp cận BMA (Bayesian 
model averaging). 
Y đức 
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng 
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y 
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 34/ĐHYD-HĐĐĐ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 67
ngày 01/3/2019. 
KẾT QUẢ 
Trong tổng số 550 phiếu khảo sát thu thập 
được, số phiếu đủ tiêu chuẩn đưa vào phân tích 
là 537 chiếm 97,64%. Dựa trên điểm cắt CES-
D≥16 và STAI-T≥45, có 24,0% thai phụ được sàng 
lọc có các triệu chúng trầm cảm và 16, 0% có 
triệu chứng lo âu (Bảng 1). Nhóm thai phụ trong 
độ tuổi 25 – 29 chiếm cao nhất (37,1%), nhóm 
thai phụ từ 35 trở lên chiếm thấp nhất với 11,3%. 
Đa số thai phụ là dân tộc kinh (95,7%). Thai phụ 
có học vấn đã hoàn thành trên THPT chiếm cao 
nhất với tỷ lệ 46,2%. Nghề nghiệp của thai phụ 
chủ yếu là nhân viên văn phòng/viên chức và 
công nhân chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 33,9% 
và 31,7%. Đa số thai phụ kết hôn và sống gần 
chồng (94,6%). Hầu hết thai phụ có cảm nhận 
kinh tế gia đình ở mức đủ sống (90,3%). Hơn 
90% thai phụ tham gia vào nghiên cứu chưa có 
con (52,0%) hoặc có 1 con. Phần lớn tuổi thai của 
các thai phụ đang ở giai đoạn tam cá nguyệt thứ 
hai chiếm 46,4%. 
Tỷ lệ trầm cảm cao hơn được tìm thấy ở thai 
phụ có nghề nghiệp là viên chức/văn phòng 
(p=0,038) hoặc nghề nghiệp khác (p=0,019), tình 
trạng hôn nhân sống xa chồng/mẹ đơn thân 
(p=0,007), tình trạng kinh tế nghèo (p=0,005). Tỷ 
lệ lo âu cao hơn được tìm thấy ở thai phụ có 
nghề nghiệp là nội trợ (p=0,024), tình trạng hôn 
nhân sống xa chồng/mẹ đơn thân (p <0,001). 
Bảng 1. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với đặc điểm dân số - xã hội (n=537) 
Tổng (n=537) 
n (%) 
Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) 
n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% 
Nhóm tuổi 
18 – 24 tuổi 123 (22,9) 33 (26,8) 1 24 (19,5) 1 
25 – 29 tuổi 199 (37,1) 44 (22,1) 0,333 0,82 (0,56-1,22) 32 (16,1) 0,429 0,82 (0,51-1,33) 
30 – 34 tuổi 154 (28,7) 36 (23,4) 0,509 0,87 (0,58-1,31) 23 (14,9) 0,315 0,77 (0,45-1,29) 
 ≥35 tuổi 61 (11,3) 16 (26,2) 0,931 0,98 (0,59-1,63) 7 (11,5) 0,185 0,59 (0,27-1,29) 
Dân tộc 
Khác 23 (4,30) 6 (26,1) 0,813 1,09 (0,54-2,21) 3 (13,0) 0,691 0,81 (0,28-2,36) 
Kinh 514 (95,7) 123 (23,9) 1 83 (16,1) 1 
Trình độ học vấn đã hoàn thành 
≤Tiểu học 46 (8,6) 8 (17,4) 1 5 (10,9) 1 
THCS 106 (19,7) 21 (19,8) 0,727 1,17 (0,48-2,89) 20 (18,9) 0,239 1,74 (0,69-4,35) 
THPT 137 (25,5) 30 (21,9) 0,515 1,33 (0,56-3,15) 21 (15,3) 0,463 1,41 (0,56-3,53) 
>THPT 248 (46,2) 70 (28,2) 0,131 1,87 (0,83-4,20) 40 (16,1) 0,377 1,48 (0,62-3,56) 
Nghề nghiệp 
Công nhân 170 (31,7) 29 (17,1) 1 21 (12,4) 1 
Viên chức/văn phòng 182 (33,9) 48 (26,4) 0,036 1,74 (1,04-2,92) 30 (16,5) 0,275 1,33 (0,80-2,24) 
Nội trợ 105 (19,5) 28 (26,7) 0,058 1,77 (0,98-3,19) 24 (22,9) 0,024 1,85 (1,09-3,15) 
Khác 80 (14,9) 24 (30,0) 0,021 2,08 (1,12-3,89) 11 (13,7) 0,757 1,11 (0,56-2,20) 
Nơi ở hiện tại 
TPHCM (nội thành) 238 (44,3) 51 (21,4) 1 36 (15,1) 1 
TPHCM (ngoại thành) 65 (12,1) 23 (35,4) 0,016 1,65 (1,10-2,49) 12 (18,5) 0,510 1,22 (0,67-2,21) 
Tỉnh khác (thành phố) 76 (14,2) 23 (30,3) 0,107 1,41 (0,93-2,15) 20 (26,3) 0,024 1,74 (1,07-2,82) 
Tỉnh khác (xã/huyện) 158 (29,4) 32 (20,3) 0,779 0,95 (0,64-1,40) 18 (11,4) 0,294 0,75 (0,44-1,28) 
Tình trạng hôn nhân 
Khác 29 (5,4) 13 (44,8) 0,007 1,96 (1,27-3,03) 13 (44,8) <0,001 3,12 (1,98-4,92) 
Kết hôn sống gần chồng 508 (94,6) 116 (22,8) 1 73 (14,4) 1 
Cảm nhận kinh tế - gia đình 
Giàu/rất giàu 30 (5,6) 5 (16,7) 1 4 (13,3) 1 
Trung bình 485 (90,3) 111 (22,9) 0,447 1,37 (0,61-3,11) 74 (15,3) 0,778 1,14 (0,45-2,92) 
Nghèo 22 (4,1) 13 (59,1) 0,005 3,55 (1,48-8,49) 8 (36,4) 0,066 2,73 (0,94-7,93) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 68
Bảng 2. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với yếu tố tiền sử và thai kỳ hiện tại (n=537) 
Đặc điểm 
Tổng (n=537) 
n (%) 
Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) 
n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% 
YẾU TỐ SẢN KHOA 
Tiền sử sinh mổ (n=258) 
Có 95 (36,8) 20 (21,1) 0,287 0,78 (0,49-1,24) 13 (13,7) 0,272 0,72 (0,40-1,31) 
Không 163 (63,2) 44 (27,0) 1 31 (19,0) 1 
Tiền sử sinh non (n=258) 
Có 28 (10,9) 6 (21,4) 0,661 0,85 (0,40-1,79) 4 (14,3) 0 ...  (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) 
n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% 
Áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (n=535) 
Có 29 (5,4) 20 (69,0) <0,001 3,23 (2,40-4,34) 11 (37,9) 0,001 2,59 (1,56-4,32) 
Không 506 (94,6) 108 (21,3) 1 74 (14,6) 1 
Áp lực do mong đợi giới tính từ bố mẹ chồng (n=529) 
Có 30 (5,7) 18 (60,0) <0,001 2,72 (1,95-3,81) 11 (36,7) 0,001 2,51 (1,50-4,20) 
Không 499 (94,3) 110 (22,0) 1 73 (14,6) 1 
Thay đổi không mong muốn 
Có 
Không 
315 (58,7) 
222 (41,3) 
89 (28,3) 
40 (18,0) 
0,006 
1,57 (1,13-2,18) 
1 
50 (15,9) 
36 (16,2) 
0,915 
0,98 (0,66-1,45) 
1 
Sự kiện buồn trong thai kỳ 
Có 97 (18,1) 47 (48,5) <0,001 2,60 (1,96-3,45) 32 (33,0) <0,001 2,69 (1,84-3,92) 
Không 440 (81,9) 82 (18,6) 1 54 (12,3) 1 
Tiền sử rối loạn tâm thần 
Có 6 (1,1) 4 (66,7) 0,014 2,83 (1,58-5,09) 4 (66,7) 0,001 4,32 (2,37-7,86) 
Không 531 (98,9) 125 (23,5) 1 82 (15,4) 1 
Gia đình có người rối loạn tâm thần 
Có 5 (0,9) 4 (80,0) 0,003 3,40 (2,14-5,42) 1 (20,0) 0,807 1,25 (0,21-7,30) 
Không 532 (99,1) 125 (23,5) 1 85 (16,0) 1 
Bảng 4. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu với các yếu tố gia đình (n=537) 
Đặc điểm 
Tổng (n=537) 
n (%) 
Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) 
n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% 
Mối quan hệ với mẹ chồng (n=523) 
Tốt/Rất tốt 217 (41,5) 39 (18,0) 1 26 (12,0) 1 
Bình thường 293 (56,0) 80 (27,3) 0,016 1,52 (1,08-2,14) 51 (17,4) 0,095 1,45 (0,94-2,25) 
Không tốt lắm 13 (2,5) 7 (53,8) <0,001 3,00 (1,68-5,34) 4 (30,8) 0,038 2,57 (1,05-6,27) 
Mối quan hệ vợ chồng (n=535) 
Tốt/Rất tốt 362 (67,7) 71 (19,6) 1 39 (10,8) 1 
Bình thường 168 (31,4) 52 (31,0) 0,004 1,58 (1,16-2,15) 42 (25,0) <0,001 2,32 (1,56-3,45) 
Không tốt lắm 5 (0,9) 5 (100) <0,001 5,10 (4,14-6,28) 4 (80,0) <0,001 7,43 (4,37-12,61) 
HỖ TRỢ TỪ CHỒNG 
Hỗ trợ vật chất 
Thường xuyên 391 (72,8) 88 (22,5) 1 46 (11,8) 1 
Thỉnh thoảng 132 (24,6) 36 (27,3) 0,260 1,21 (0,87-1,69) 34 (25,8) <0,001 2,19 (1,47-3,26) 
Không/Hiếm khi 14 (2,6) 5 (35,7) 0,213 1,59 (0,77-3,28) 6 (42,9) <0,001 3,64 (1,88-7,07) 
Hỗ trợ tinh thần 
Thường xuyên 427 (79,5) 81 (19,0) 1 46 (10,8) 1 
Thỉnh thoảng 96 (17,9) 42 (43,8) <0,001 2,31 (1,71-3,11) 34 (35,4) <0,001 3,29 (2,24-4,83) 
Không/Hiếm khi 14 (2,6) 6 (42,9) 0,012 2,26 (1,20-4,27) 6 (42,9) <0,001 3,98 (2,05-7,73) 
Hỗ trợ công việc nhà 
Thường xuyên 390 (72,6) 72 (18,5) 1 44 (11,3) 1 
Thỉnh thoảng 110 (20,5) 37 (33,6) <0,001 1,82 (1,30-2,55) 27 (24,5) <0,001 2,18 (1,41-3,35) 
Không/Hiếm khi 37 (6,9) 20 (54,1) <0,001 2,93 (2,04-4,21) 15 (40,5) <0,001 3,59 (2,22-5,81) 
HỖ TRỢ TỪ GIA ĐÌNH 
Hỗ trợ vật chất 
Thường xuyên 229 (42,6) 48 (21,0) 1 23 (10,0) 1 
Thỉnh thoảng 197 (36,7) 53 (26,9) 0,152 1,28 (0,91-1,81) 43 (21,8) 0,001 2,17 (1,36-3,48) 
Không/Hiếm khi 111 (20,7) 28 (25,2) 0,373 1,20 (0,80-1,81) 20 (18,0) 0,039 1,79 (1,03-3,13) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 70
Đặc điểm 
Tổng (n=537) 
n (%) 
Trầm cảm CES-D ≥16 (n=129, 24,0%) Lo âu STAI-T ≥45 (n=86, 16,0%) 
n (%) p RR KTC 95% n (%) p RR KTC 95% 
Hỗ trợ tinh thần 
Thường xuyên 385 (71,7) 76 (19,7) 1 43 (11,2) 1 
Thỉnh thoảng 123 (22,9) 41 (33,3) 0,001 1,69 (1,22-2,33) 33 (26,8) <0,001 2,40 (1,60-3,61) 
Không/Hiếm khi 29 (5,4) 12 (41,4) 0,002 2,10 (1,30-3,38) 10 (34,5) <0,001 3,09 (1,74-5,49) 
Hỗ trợ công việc nhà 
Thường xuyên 293 (54,6) 59 (20,1) 1 34 (11,6) 1 
Thỉnh thoảng 106 (19,7) 34 (32,1) 0,011 1,59 (1,11-2,28) 30 (28,3) <0,001 2,44 (1,57-3,78) 
Không/Hiếm khi 138 (25,7) 36 (26,1) 0,161 1,30 (0,90-1,86) 22 (15,9) 0,210 1,37 (0,84-2,26) 
Bạo lực từ chồng 
Có 38 (7,1) 19 (50,0) <0,001 2,27 (1,59-3,25) 13 (34,2) 0,002 2,34 (1,43-3,81) 
Không 499 (92,9) 110 (22,0) 1 73 (14,6) 1 
Bảng 5. Các yếu tố liên quan độc lập đến trầm cảm, lo âu ở phụ nữ mang thai (n=537) 
Đặc điểm phc PRhc KTChc 95% Khả năng xuất hiện của mô hình 
ĐA BIẾN TRẦM CẢM 
Áp lực do mong đợi giới tính từ chồng (n=535) (có) 0,005 2,08 (1,24-3,48) 
0,097 
Sự kiện buồn thai kỳ (có) <0,001 2,16 (1,47-3,19) 
Gia đình có người rối loạn tâm thần (có) 0,003 4,56 (1,67-12,47) 
Hỗ trợ tinh thần từ chồng 
Thường xuyên 1 
Thỉnh thoảng 0,001 1,93 (1,32-2,83) 
Không/Hiếm khi 0,206 1,80 (0,72-4,45) 
ĐA BIẾN LO ÂU 
Thai ngoài kế hoạch (có) 0,004 1,98 (1,25-3,14) 
0,353 
Sự kiện buồn thai kỳ (có) 0,005 1,93 (1,23-3,05) 
Tiền sử rối loạn tâm thần 0,025 3,44 (1,17-10,10) 
Hỗ trợ tinh thần từ chồng 
Thường xuyên 1 
Thỉnh thoảng <0,001 2,67 (1,69-4,21) 
Không/Hiếm khi 0,020 2,80 (1,18-6,66) 
Bảng 4 cho thấy các yếu tố như mối quan hệ 
với mẹ chồng, với chồng không tốt, hỗ trợ từ 
chồng và gia đình thấp, bạo lực từ chồng (các giá 
trị p <0,05) là những yếu tố làm tăng tỷ lệ mắc 
trầm cảm, lo âu. 
Bảng 5 thể hiện kết quả phân tích đa biến. 
Kết quả cho thấy các yếu tố liên quan độc lập tới 
trầm cảm gồm áp lực do mong đợi giới tính từ 
chồng, trải qua sự kiện buồn thai kỳ, gia đình có 
người rối loạn tâm thần và hỗ trợ tinh thần từ 
chồng. Các yếu tố liên quan độc lập đến lo âu 
bao gồm thai ngoài kế hoạch, tiền sử rối loạn 
tâm thần, trải qua sự kiện buồn thai kỳ, hỗ trợ 
tinh thần từ chồng. 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu cho thấy trầm cảm, lo âu là 
phổ biến ở phụ nữ mang thai, gần một phần tư 
thai phụ có các dấu hiệu trầm cảm (24,0%) và 
một phần sáu thai phụ có các dấu hiệu lo âu 
(16,0%). Kết quả phù hợp với nghiên cứu gộp 
của Fisher J (2012) ở các nước đang phát 
triển(1). Có nét tương đồng với các nghiên cứu 
trước đây tại Slovenia, Ả-rập Xê-út, 
Bangladesh với tỷ lệ trầm cảm trong khoảng 
19,6 – 37,1% và lo âu 12,5 – 54%(2,3,4). 
Ngoài ra, nghiên cứu nhận thấy có 4,5% 
thai phụ có dấu hiệu trầm cảm mức độ vừa 
(điểm CES-D từ 21-24) và 5,4% thai phụ có các 
dấu hiệu trầm cảm mức độ nặng (điểm CES-D 
≥25), kết quả có sự khác biệt so với nghiên cứu 
của tác giả Podvornik N (có 8,4% thai phụ ở 
mức độ trầm cảm nặng với mức điểm ≥22)(2). 
Điều này có thể lý giải do cách chọn điểm cắt 
cho mức độ trầm cảm nặng của nghiên cứu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 
 71
khác tác giả Podvornik N. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy áp lực giới tính 
từ chồng và bố mẹ chồng là những yếu tố làm 
tăng tỷ lệ trầm cảm. Mặc dù xã hội ngày càng 
phát triển nhưng mong muốn của một số gia 
đình người Việt Nam và các nước châu Á nói 
chung vẫn xem việc sinh con trai để nói dõi tông 
đường quan trọng, nếu sinh không được con trai 
sẽ bị mọi người trong gia đình, đặc biệt là gia 
đình chồng cảm thấy không vui và gây áp lực 
lớn đối với phụ nữ. Mang thai ngoài kế hoạch là 
yếu tố độc lập liên quan đến lo âu, kết quả tương 
đồng với các nghiên cứu trước đây của tác giả 
Nasreen HE (2009), Podvornik N (2011), 
Nagandla K (2014), Alqahtani AH (2016)(2,3,4,5). 
Qua khảo sát nhận thấy các thai phụ mang 
thai ngoài kế hoạch phần lớn có con trước đó còn 
quá nhỏ hoặc đã có hai con trở lên, do đó gánh 
nặng kinh tế, chăm sóc dạy dỗ con cái tạo nhiều 
áp lực cho họ. Mặt khác cũng có thể do chưa có 
sự chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt sức khỏe, tâm 
lý, kinh tế mà vô tình có thai có thể làm cho thai 
phụ có nhiều lo lắng, bất an dẫn đến lo âu. 
Tiền sử rối loạn tâm thần và gia đình có 
người rối loạn tâm thần là những yếu tố độc lập 
liên quan đến trầm cảm, lo âu. Kết quả tương 
đồng với các tác giả Nasreen HE (2009), Van de 
Loo KFE (2015) về tiền sử rối loạn tâm thần và 
tác giả Jeong HG (2009) về yếu tố gia đình có 
người rối loạn tâm thần(4,16,17). Việc trầm cảm có 
liên quan đến tính di truyền vẫn đang là câu hỏi 
chưa có câu trả lời và bằng chứng rõ ràng. Tuy 
nhiên, dựa trên kết quả nghiên cứu này và một 
vài nghiên cứu trước, nhận thấy cần sàng lọc và 
theo dõi các thai phụ có tiền sử rối loạn tâm thần 
hoặc gia đình có người rối loạn tâm thần(4,17). Có 
sự tương đồng với nghiên cứu của tác giả Van 
de Loo KFE (2015) ở mối liên quan giữa trầm 
cảm, lo âu và việc thai phụ trải qua các sự kiện 
buồn phiền trong thai kỳ(16). 
Qua khảo sát, nhận thấy các thai phụ trải 
qua nhiều sự kiện như mất người thân, ly 
thân/ly dị, vợ chồng cãi nhau, mất tài sản mất 
công việc và những trải nghiệm này hoàn toàn 
có thể gây ảnh hưởng đến tâm lý họ. Mức độ hỗ 
trợ từ chồng và gia đình là yếu tố độc lập với 
trầm cảm, lo âu mà nghiên cứu thực hiện tại 
nhiều nước trên thế giới của các tác giả Nasreen 
HE (2009), Nagandla K (2014) đã tìm thấy(4,5). 
Mang thai là giai đoạn tâm sinh lý người 
phụ nữ có nhiều thay đổi, cảm xúc vui buồn thất 
thường, cảm giác lo lắng bồn chồn luôn xuất 
hiện, sức khỏe thể chất của họ cũng suy giảm 
đáng kể, do đó hỗ trợ tinh thần và công việc nhà 
từ chồng và gia đình là rất cần thiết đối với họ. 
Việc thiếu hỗ trợ từ chồng và gia đình làm tăng 
cảm giác cô đơn, không ai bên cạnh phụ giúp 
làm thai phụ có cảm giác tự mình gánh lấy mọi 
việc cùng một lúc có thể gây ra trầm cảm. 
Sức khỏe tâm thần ở phụ nữ mang thai tại 
Việt Nam chưa được chú trọng. Từ kết quả 
nghiên cứu này và số lượng thai phụ thực tế tại 
Việt Nam thì ước tính có 1.600.000 phụ nữ mang 
thai có khả năng cơ nguy cơ có các dấu hiệu 
trầm cảm, lo âu. Do đó, việc sàng lọc phát hiện 
sớm giúp điều trị kịp thời để giảm gánh nặng 
bệnh tật. Xét về mảng dự phòng, cần sàng lọc và 
tầm soát cho các nhóm phụ nữ có nguy cơ cao có 
thể có các dấu hiệu trầm cảm, lo âu để giảm kinh 
phí thay vì sàng lọc tất cả các phụ nữ mang thai. 
Nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế 
như nghiên cứu cắt ngang nên chỉ phản ánh 
được tình trạng trầm cảm, lo âu của thai phụ tại 
thời điểm nghiên cứu mà chưa cho biết chính 
xác thai phụ có các triệu chứng trầm cảm, lo âu ở 
thời điểm nào. Đồng thời cũng chưa thể hiện 
mối liên hệ nhân quả giữa các yếu tố liên quan. 
Các công cụ sử dụng đã được chuẩn hóa nhưng 
chỉ là công cụ sàng lọc, chưa phải là công cụ 
chẩn đoán. 
Kết quả nghiên cứu có thể không đại diện và 
ngoại suy được cho các vùng miền khác, cần 
thực hiện các nghiên cứu tại các khu vực khác để 
cho ra tỷ lệ chính xác nhất. Mặc dù cỡ mẫu 
nghiên cứu lớn nhưng do có nhiều đặc điểm (hai 
bệnh viện, ba giai đoạn thai kỳ) nên không thực 
hiên các phân tích chuyên sâu như phân tích 
phân nhóm, phân tích nhiều tầng. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020 Nghiên cứu Y học 
 72
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trầm cảm 
và lo âu là phổ biến ở phụ nữ mang thai (24,0% 
trầm cảm và 16,0% lo âu). Các yếu tố độc lập làm 
tăng tỷ lệ trầm cảm hoặc lo lắng bao gồm áp lực 
do giới tính mong đợi từ chồng, trải qua sự kiện 
buồn khi mang thai, mức độ hỗ trợ tinh thần của 
chồng thấp, mang thai ngoài ý muốn, tiền sử rối 
loạn tâm thần và tiền sử gia đình bị rối loạn tâm 
thần. Do đó, các bệnh viện phụ sản tại Việt Nam 
cần bổ sung các phòng tư vấn tâm lý cũng như 
sàng lọc trầm cảm hoặc lo lắng cho phụ nữ mang 
thai ở giai đoạn sớm và theo dõi suốt thai kỳ 
cũng như sau sinh, đặc biệt là phụ nữ mang thai 
có nguy cơ cao. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Fisher J, Cabral de MM, Patel V, Rahman A, Tran T, Holton S, et 
al (2012). Prevalence and determinants of common perinatal 
mental disorders in women in low- and lower-middle-income 
countries: a systematic review. Bulletin of the World Health 
Organization, 90(2):139-149. 
2. Podvornik N, Globevnik VV, Praper P (2015). Depression and 
Anxiety in Women During Pregnancy in Slovenia. Slovenian 
Journal of Public Health, 54(1):45-50. 
3. Alqahtani AH, Al Khedair K, Al-Jeheiman R, Al-Turki HA, Al 
Qahtani NH (2018). Anxiety and depression during pregnancy 
in women attending clinics in a University Hospital in Eastern 
province of Saudi Arabia: prevalence and associated factors. 
International Journal of Women's Health, 23(10):101-108. 
4. Nasreen HE, Kabir ZN, Forsell Y, Edhborg M (2011). Prevalence 
and associated factors of depressive and anxiety symptoms 
during pregnancy: a population based study in rural 
Bangladesh. BMC Women's Health, 11:22. 
5. Nagandla K, Nalliah S, Yin LK, Majeed ZA, Ismail M, Zubaidah 
S, et al (2016). Prevalence and associated risk factors of 
depression, anxiety and stress in pregnancy. International Journal 
of Reproduction Contraception Obstetrics and Gynecology, 5:7. 
6. Kurki T, Hiilesmaa V, Raitasalo R, Mattila H, Ylikorkala O 
(2000). Depression and anxiety in early pregnancy and risk for 
preeclampsia. Obstetrics and Gynecology, 95(4):487-490. 
7. Neggers Y, Goldenberg R, Cliver S, Hauth J (2006). The 
relationship between psychosocial profile, health practices, and 
pregnancy outcomes. Acta Obstetricia et Gynecologica 
Scandinavica, 85(3):277-285. 
8. O'Connor TG, Heron J, Golding J, Beveridge M, Glover V (2002). 
Maternal antenatal anxiety and children's 
behavioural/emotional problems at 4 years. Report from the 
Avon Longitudinal Study of Parents and Children. British 
Journal of Psychiatry, 180:502-508. 
9. Shahhosseini Z, Pourasghar M, Khalilian A, Salehi F (2015). A 
Review of the Effects of Anxiety During Pregnancy on 
Children's Health. Journal of the Academy of Medical Sciences of 
Bosnia and Herzegovina, 27(3):200-202. 
10. Yanikkerem E, Ay S, Mutlu S, Goker A (2013). Antenatal 
depression: prevalence and risk factors in a hospital based 
Turkish sample. Journal of the Pakistan Medical Association, 
63(4):472-477. 
11. Fisher J, Tran T, La BT, Kriitmaa K, Rosenthal D, Tran T (2010). 
Common perinatal mental disorders in northern Viet Nam: 
community prevalence and health care use. Bulletin of the World 
Health Organization, 88(10):737-745. 
12. Fisher J, Tran T, Tran DT, Dwyer T, Nguyen T, Casey GJ, et al 
(2013). Prevalence and risk factors for symptoms of common 
mental disorders in early and late pregnancy in Vietnamese 
women: a prospective population-based study. Journal of 
Affective Disorders, 146(2):213-219. 
13. Radloff LS (1977). The CES-D Scale: A self-report depression 
scale for research in the general population. Applied Psychological 
Measurement, 1(3):385-401. 
14. Thai TT, Jones MK, Harris LM, Heard RC (2016). Screening 
value of the Center for epidemiologic studies - depression scale 
among people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, 
Vietnam: a validation study. BMC Psychiatry, 16:145. 
15. Spielberger CD, Gorsuch RL, Lushene R, Vagg PR, Jacobs GA 
(1983). Manual for the State-Trait Anxiety Inventory (Form Y1 – 
Y2). Consulting Psychologists Press, IV. 
16. Van de Loo KFE, Vlenterie R, Nikkels SJ, Merkus PJFM, 
Roukema J, Verhaak CM, et al (2018). Depression and anxiety 
during pregnancy: The influence of maternal characteristics. 
Birth, 45(4):478-489. 
17. Jeong HG, Lim JS, Lee MS, Kim SH, Jung IK, Joe SH (2013). The 
association of psychosocial factors and obstetric history with 
depression in pregnant women: focus on the role of emotional 
support. General hospital psychiatry, 35(4):354-358. 
Ngày nhận bài báo: 12/11/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/11/2019 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020 

File đính kèm:

  • pdftram_cam_lo_au_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_phu_nu_mang_thai_ta.pdf