Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục

Tóm tắt: Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó đã

được thực hiện trong thời gian dài trong thời kỳ đổi mới, nhưng cho đến nay quan niệm về xã hội

hóa giáo dục vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Khi thực hiện xã hội hóa giáo dục thì trách nhiệm

của xã hội trong giáo dục tăng lên, nhưng Nhà nước vẫn phải đảm nhiệm trách nhiệm lớn đối với

giáo dục. Nhà nước cần đảm bảo cho mọi công dân được hưởng quyền học văn hóa và học nghề

bằng nhiều hình thức; đầu tư các nguồn lực để phát triển giáo dục; hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng

đội ngũ công chức, viên chức và nhân viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục; tạo môi trường phát

triển cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực giáo dục; giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực giáo dục

pdf 6 trang phuongnguyen 3220
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục

Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong xã hội hóa giáo dục
 26 
Trách nhiệm của Nhà nước 
và xã hội trong xã hội hóa giáo dục 
Trương Thị Thanh Quý1 
1 Trường Đại học Y Hà Nội. 
Email: truongthanhquyhmu@gmail.com 
Nhận ngày 03 tháng 04 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 7 tháng 4 năm 2017. 
Tóm tắt: Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó đã 
được thực hiện trong thời gian dài trong thời kỳ đổi mới, nhưng cho đến nay quan niệm về xã hội 
hóa giáo dục vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau. Khi thực hiện xã hội hóa giáo dục thì trách nhiệm 
của xã hội trong giáo dục tăng lên, nhưng Nhà nước vẫn phải đảm nhiệm trách nhiệm lớn đối với 
giáo dục. Nhà nước cần đảm bảo cho mọi công dân được hưởng quyền học văn hóa và học nghề 
bằng nhiều hình thức; đầu tư các nguồn lực để phát triển giáo dục; hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng 
đội ngũ công chức, viên chức và nhân viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục; tạo môi trường phát 
triển cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực giáo dục; giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm 
pháp luật trong lĩnh vực giáo dục. 
Từ khóa: Xã hội hóa, giáo dục, Đảng, Nhà nước, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: Mobilisation of social resources for education is a major policy and orientation of the 
Vietnamese Party and State, which, after many years of implementation under the đổi mới, or 
renovation, period, is now talked about with various opinions. The process entails the enhancement 
of the society’s responsibilities towards education, but the State is still to shoulder high 
responsibility for the cause. It needs to ensure that every citizen can enjoy the right to education, 
including vocational training, in various forms. The State also needs to make investments for the 
development of education; assist the training of civil servants and employees working in the field; 
create an environment for fair competition; and perform supervision, inspection, examination, and 
handling of legal breaches and offences in the field of education. 
Keywords: Mobilisation of social resources, education, Party, State, Vietnam. 
Subject classification: Philosophy 
Trương Thị Thanh Quý 
 27 
1. Mở đầu 
Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới 
đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo gặp 
nhiều khó khăn về tài chính vì ngân sách 
nhà nước không đủ đảm bảo yêu cầu phát 
triển giáo dục. Trước tình hình đó, Đảng và 
Nhà nước ta chủ trương thực hiện xã hội 
hóa giáo dục. Chiến lược ổn định và phát 
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 (được 
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ VII) viết: “Khai thác mọi tiềm năng của 
toàn xã hội tham gia giáo dục và đào tạo” 
[1, tr.38], “đa dạng hóa các hình thức đào 
tạo” [12, tr.519], “Nhà nước và nhân dân 
cùng làm” [12, tr.522]. Chủ trương xã hội 
hóa giáo dục được Đảng tiếp tục làm rõ hơn 
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: 
“Các vấn đề chính sách xã hội được giải 
quyết theo tinh thần xã hội hóa, Nhà nước 
giữ vai trò nòng cốt đồng thời động viên 
mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp, các tổ 
chức trong xã hội, các cá nhân và các tổ 
chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết 
những vấn đề xã hội” [2, tr.114], “động 
viên đúng mức sự đóng góp của mỗi nhà, 
mỗi người, đồng thời thu hút nguồn đầu tư 
từ các cộng đồng, các giới, trong và ngoài 
nước cho giáo dục và đào tạo” [2, tr.110]. 
Đại hội Đảng IX chủ trương: “Các chính 
sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã 
hội hóa, đề cao trách nhiệm của chính 
quyền các cấp, huy động các nguồn lực 
trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn 
thể nhân dân, các tổ chức xã hội” [3, 
tr.108]. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 
bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, 
số 25-NĐ/TW ngày 12 tháng 03 năm 2003 
về công tác tôn giáo, Đảng đã xác định: 
“Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực 
hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y 
tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của Nhà 
nước, theo nguyên tắc khuyến khích các tôn 
giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia 
phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức 
của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật” 
[4, tr.54]. Đại hội Đảng X khẳng định: 
“Phát huy tiềm năng, trí tuệ và các nguồn 
lực vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội 
để cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã 
hội và chăm lo phát triển dịch vụ công 
cộng” [5, tr.104], “huy động nguồn lực vật 
chất và trí tuệ của xã hội tham gia sự nghiệp 
giáo dục. Phối hợp chặt chẽ với các các 
ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ 
chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề 
nghiệp để mở mang giáo dục, tạo điều 
kiện học tập mọi thành viên trong xã hội” 
[5, tr.97]. Đại hội Đảng XI tiếp tục hoàn 
thiện chủ trương xã hội hóa giáo dục: 
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách xã hội hóa 
giáo dục, đào tạo trên cả ba phương diện, 
động viên các nguồn lực trong xã hội; phát 
huy vai trò của cộng đồng; khuyến khích 
các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây 
dựng xã hội học tập, tạo mọi điều kiện để 
người dân học tập suốt đời” [6, tr.218]. Đại 
hội Đảng XII nhấn mạnh: “Hoàn thiện hệ 
thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ 
thống giáo dục mở, học tập suốt đời và 
xây dựng xã hội học tập”, “đổi mới và 
hoàn thiện cơ chế, chính sách giá dịch vụ 
giáo dục - đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, 
trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và 
giáo dục đại học” [7, tr.117]. Như vậy, một 
trong những nội dung quan trọng của công 
cuộc đổi mới Đảng là thực hiện chủ trương 
xã hội hóa giáo dục. Chủ trương này ngày 
càng được thể hiện rõ hơn trong các văn 
kiện đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Vậy, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 - 2017 
 28 
khi thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo 
dục, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm gì 
trong xã hội hóa giáo dục? Vấn đề này tuy 
đã được đề cập trong nhiều công trình 
nghiên cứu nhưng vẫn còn nhiều ý kiến 
khác nhau. Bài viết này phân tích trách 
nhiệm của Nhà nước và xã hội trong xã hội 
hóa giáo dục. 
2. Trách nhiệm của Nhà nước trong xã 
hội hóa giáo dục 
Thuật ngữ “xã hội hóa” hiện được sử dụng 
khá phổ biến trong sách báo ở nước ta. 
Thuật ngữ này được hiểu theo hai nghĩa 
chính sau: thứ nhất, “xã hội hóa” là “biến tư 
liệu sản xuất và trao đổi thành của công” 
[10]; thứ hai, “xã hội hóa” là tăng cường sự 
tham gia rộng rãi của xã hội (các cá nhân, 
nhóm, tổ chức, cộng đồng) vào một số 
hoạt động mà trước đó chỉ nhà nước thực 
hiện. Theo đó, xã hội hóa không chỉ là sự 
đóng góp của người dân với tư cách là 
người được hưởng dịch vụ mà là một cơ 
chế điều phối nguồn lực xã hội; xã hội hóa 
“là một hình thức phi công lập hóa tức có 
sự tham gia của các đối tác khác bên ngoài 
Nhà nước” [14]. Như vậy, trong cụm từ “xã 
hội hóa giáo dục”, từ “xã hội hóa” được 
hiểu theo nghĩa thứ hai ở trên. Từ đó, khái 
niệm xã hội hóa giáo dục trong các văn kiện 
của Đảng và Nhà nước có nghĩa là quá trình 
huy động sự tham gia dưới các hình thức 
khác nhau của các chủ thể và cộng đồng xã 
hội đối với giáo dục nhằm nâng cao chất 
lượng cung ứng các dịch vụ và mở rộng đối 
tượng hưởng thụ, đảm bảo công bằng xã 
hội trong đóng góp và hưởng thụ các dịch 
vụ giáo dục [13, tr.18]. Khi thực hiện xã hội 
hóa giáo dục theo nghĩa trên, Nhà nước vẫn 
có trách nhiệm lớn trong giáo dục. Trách 
nhiệm của Nhà nước trong xã hội hóa giáo 
dục thể hiện qua các nội dung sau: 
Một là, Nhà nước đảm bảo cho mọi công 
dân được hưởng “quyền học văn hóa và học 
nghề bằng nhiều hình thức” (đã được ghi 
trong Hiến pháp Việt Nam); xác lập khung 
khổ pháp lý để phát triển giáo dục; tạo điều 
kiện để toàn xã hội được tiếp cận và sử 
dụng các dịch vụ giáo dục theo định hướng 
công bằng, hiệu quả và phát triển; thể chế 
hóa quyền và trách nhiệm tham gia cung 
ứng các dịch vụ giáo dục của các cá nhân, 
tổ chức, cộng đồng xã hội cũng như quyền 
được hưởng thụ các dịch vụ đó của người 
dân. Theo đó, “xã hội hóa giáo dục không 
có nghĩa là Nhà nước chuyển giao hay phó 
thác nhiệm vụ hiến định của mình cho các 
cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, mà là tạo 
điều kiện để toàn xã hội tham gia vào giáo 
dục, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu của 
mọi thành viên trong xã hội, sao cho ai 
cũng được đến trường, ai cũng có điều kiện 
hưởng cơ hội vào đời như nhau” [11]. 
Trong thế giới hiện đại, ngay cả ở những 
quốc gia thực hiện cơ chế thị trường trong 
lĩnh vực giáo dục, nhà nước vẫn có vai trò 
đặc biệt quan trọng trong điều chỉnh vĩ mô 
thông qua nhiều biện pháp, trong đó có 
chính sách, cơ chế hỗ trợ đặc thù, cung cấp 
tín dụng, kinh phí nghiên cứu khoa học, 
quyết định mức học phí. Không chỉ hỗ trợ, 
nhà nước còn trực tiếp cung ứng cho người 
dân các dịch vụ giáo dục cơ bản. Mục tiêu 
hỗ trợ hoặc trực tiếp đảm bảo việc cung ứng 
các dịch vụ giáo dục của nhà nước là đảm 
bảo quyền tiếp cận các cơ hội học tập cơ 
bản với mọi đối tượng. Tùy theo điều kiện 
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhà nước 
Trương Thị Thanh Quý 
 29 
miễn học phí hoặc thu mức thu học phí thấp 
đối với tiểu học, trung học cơ sở và trung 
học phổ thông. Sự hỗ trợ của nhà nước 
không những không làm yếu đi tính năng 
động của thị trường giáo dục mà còn hướng 
tới sự hiệu quả hoạt động cụ thể của các cơ 
sở dịch vụ giáo dục trong xã hội. Sự hỗ trợ 
của nhà nước ở nhiều nước không phân biệt 
theo sở hữu (cơ sở giáo dục công hay tư), 
mà căn cứ vào vai trò, mục tiêu và hiệu quả 
hoạt động cụ thể của các cơ sở giáo dục. 
Hai là, Nhà nước đầu tư các nguồn lực 
(tài chính, đất đai) để phát triển giáo dục. 
Mặc dù xã hội hóa giáo dục đã huy động 
được nhiều nguồn lực trong nhân dân, 
nhưng nguồn đầu tư của Nhà nước vẫn rất 
quan trọng, đặc biệt đầu tư cho các vùng 
sâu, vùng xa; nơi đó các nhà đầu tư tư nhân 
không đủ sức mạnh, không tìm kiếm được 
lợi nhuận; nơi nhân dân nghèo không có 
khả năng chi trả những dịch vụ giáo dục. 
Trong trường hợp này, chỉ có Nhà nước 
mới có đủ sức mạnh đầu tư. Sự đầu tư đó 
của Nhà nước cũng là sự thể hiện bản chất 
ưu việt của chế độ ta đối với việc thực hiện 
công bằng trong lĩnh vực giáo dục, đảm bảo 
quyền được học của người dân. 
Ba là, Nhà nước tạo lập cơ chế, chính 
sách và trực tiếp hỗ trợ việc đào tạo, bồi 
dưỡng đội ngũ công chức, viên chức và 
nhân viên hoạt động trong lĩnh vực giáo 
dục. Đây chính là lực lượng nòng cốt có vai 
trò rất quan trọng trong phát triển giáo dục 
nói chung và xã hội hóa giáo dục nói riêng. 
Trách nhiệm hàng đầu của các cơ quan nhà 
nước là xây dựng và hoàn thiện thể chế 
quản lý giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, sử 
dụng, đãi ngộ tiền lương, kỷ luật, tôn vinh, 
khen thưởng đội ngũ công chức, viên chức, 
người lao động trong lĩnh vực giáo dục. Hệ 
thống cơ chế, chính sách hợp lý của Nhà 
nước không chỉ tạo điều kiện xây dựng đội 
ngũ công chức, viên chức, nhân viên giáo 
dục đầy đủ về số lượng, bảo đảm về chất 
lượng, mà còn phát huy vai trò, trách nhiệm 
và sự đóng góp có hiệu quả của lực lượng 
này cho xã hội. Từ đó, xã hội thêm tin 
tưởng, trọng dụng, tôn vinh và tham gia xây 
dựng đội ngũ công chức, viên chức, nhân 
viên giáo dục ngày càng trong sạch, vững 
mạnh. Chỉ khi đó, hiệu quả xã hội hóa giáo 
dục mới đạt kết quả như mong muốn. 
Ngược lại, sự bùng nhùng về cơ chế, chính 
sách đối với giáo viên là một trong những 
nguyên nhân quan trọng gây nên những hạn 
chế yếu kém, tệ nạn trong ngành giáo dục. 
Bốn là, Nhà nước tập hợp, huy động xã 
hội hóa phát triển giáo dục, tạo môi trường 
phát triển cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh 
vực giáo dục. Nhà nước là “nhạc trưởng” chỉ 
huy dàn nhạc xã hội hóa các hoạt động giáo 
dục. Chính việc thực hiện tốt vai trò tạo lập 
khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách, tổ 
chức đào tạo, sử dụng tốt đội ngũ giáo viên, 
cán bộ quản lý, nhân viên giáo dục sẽ tạo 
được môi trường phát triển cạnh tranh lành 
mạnh trong lĩnh vực giáo dục. 
Năm là, Nhà nước giám sát, thanh tra, 
kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh 
vực giáo dục. Đây là nhiệm vụ quan trọng 
của Nhà nước mà không ai có thể thay thế. 
Xã hội hóa các hoạt động giáo dục thu hút 
nhiều chủ thể, nhiều lực lượng, nhiều nguồn 
lực xã hội tham gia, trong đó không loại trừ 
một số cá nhân, tổ chức thông qua đầu tư 
vào lĩnh vực giáo dục để tìm kiếm lợi ích, 
lợi nhuận bất chấp luật pháp. Vì thế, Nhà 
nước phải thực hiện tốt vai trò giám sát, 
thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm pháp luật. 
Như vậy, khi thực hiện xã hội hóa giáo 
dục Nhà nước không phó thác nhiệm vụ của 
mình cho các cá nhân, tổ chức, doanh 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 - 2017 
 30 
nghiệp, mà tạo điều kiện để xã hội cùng 
tham gia vào các hoạt động giáo dục, đảm 
bảo nhu cầu của mọi thành viên trong xã 
hội được học tập trong môi trường xã hội 
lành mạnh. 
3. Trách nhiệm của xã hội trong xã hội 
hóa giáo dục 
Ở bất cứ quốc gia nào, ngay cả những nước 
phát triển, thì nhà nước cũng không thể 
“ôm” hết mọi việc, mà phải có sự chia sẻ 
với các cá nhân, nhóm, các tổ chức cộng 
đồng xã hội. Trách nhiệm của xã hội trong 
cung ứng dịch vụ giáo dục được thể hiện 
qua những nội dung cụ thể sau: 
Một là, tất cả tầng lớp nhân dân và các 
đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, 
các doanh nghiệp và từng người dân tham 
gia đóng góp nguồn lực vật chất và tinh 
thần, tham gia ý kiến đối với Nhà nước về 
các chính sách, pháp luật liên quan đến giáo 
dục nhằm tạo môi trường kinh tế - xã hội 
thuận lợi để phát triển sự nghiệp giáo dục. 
Mọi người chủ động, tích cực tham gia vào 
phát triển xã hội học tập của cộng đồng. 
Lĩnh vực giáo dục cần nhiều lực lượng 
tham gia; các lực lượng đó là: cơ quan nhà 
nước, nhà trường, gia đình, xã hội, giáo 
viên, gia đình, người thân, bạn bè. Giáo dục 
không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà 
của cả gia đình và xã hội. Nhà trường, gia 
đình và xã hội cần liên kết, hỗ trợ mạnh mẽ 
lẫn nhau để trang bị kiến thức, hình thành 
và phát triển nhân cách, định hướng ngành 
nghề cho người học. 
Hai là, các thành phần kinh tế, các đoàn 
thể nhân dân và mỗi người dân tùy vào khả 
năng và điều kiện của mình tham gia cung 
ứng các dịch vụ giáo dục theo quy định của 
pháp luật và có quyền hưởng thụ lợi ích từ 
dịch vụ đó. Hiện nay, chưa kể đến khối giáo 
dục mầm non, phổ thông trung học, phổ 
thông cơ sở, cả nước ta đã có hơn 80 trường 
đại học và cao đẳng dân lập. Điều đó nói 
lên tiềm lực, nguồn vốn trong dân và nhu 
cầu học tập của các tầng lớp nhân dân. Các 
trường học tư đã góp phần đáp ứng nhu cầu 
học tập, góp phần làm giảm sức ép, sự quá 
tải đối với các cơ sở giáo dục công lập, nhất 
là khối mầm non, tiểu học, trung học; góp 
phần tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi 
hơn trong việc cung cấp các dịch vụ giáo 
dục cho nhân dân. Khi người dân chi tiền 
cho các dịch vụ tư nhân thì họ đã góp phần 
thêm nguồn lực tài chính để phát triển dịch 
vụ giáo dục. 
Ba là, các tổ chức xã hội giám sát, kiểm 
tra, phản biện đối với các hoạt động giáo 
dục, góp phần khắc phục các hạn chế, tiêu 
cực, tạo nên sự cạnh tranh bình đẳng, lành 
mạnh trong các hoạt động giáo dục. Các tổ 
chức xã hội, cá nhân, nhân dân vì là người 
cung ứng và hưởng thụ các dịch vụ giáo 
dục nên hiểu biết rõ thành tựu, hạn chế, tiêu 
cực trong các hoạt động giáo dục. Đây là 
lực lượng quan trọng để giám sát, kiểm tra, 
phản biện đối với các hoạt động giáo dục. 
Để phát huy vai trò đó của họ, Nhà nước 
cần có cơ chế để các lực lượng này tiếp cận 
được thông tin, bày tỏ được chính kiến, đề 
đạt được nguyện vọng của mình. 
4. Kết luận 
Hoạt động xã hội hóa giáo dục không chỉ là 
công việc của ngành giáo dục, mà còn là sự 
nghiệp của toàn dân, của mọi tổ chức kinh 
tế, xã hội. Cùng với Nhà nước, các tổ chức 
Trương Thị Thanh Quý 
 31 
xã hội, nhân dân có trách nhiệm quan trọng 
trong phát triển giáo dục. Xã hội hóa giáo 
dục không phải là giải pháp ngắn hạn, mà là 
một giải pháp lâu dài, mang tính chiến lược. 
Bởi vì khi các tổ chức xã hội và cá nhân làm 
tốt dịch vụ giáo dục thì điều đó càng san sẻ 
trách nhiệm đối với Nhà nước. Nhưng ngay 
cả khi các tổ chức xã hội và cá nhân làm tốt 
dịch vụ giáo dục thì Nhà nước vẫn phải có 
trách nhiệm lớn đối với giáo dục. 
Tài liệu tham khảo 
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược 
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 
2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
 [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện 
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung 
ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1997), Xã hội 
hóa công tác giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[9] Nguyễn Hữu Khiển (2014), “Xã hội hóa giáo 
dục: Những lợi ích và rào cản”, Tạp chí Khoa 
học xã hội Việt Nam, số 2. 
10 Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên) (2006), Các Đại 
hội đại biểu toàn quốc và Hội nghị Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam 
(1930-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[11] Nguyễn Minh Phương (Chủ biên) (2012), Đẩy 
mạnh xã hội hóa giáo dục, y tế ở Việt Nam, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
12 
cum-tu-xa-hoi-hoa-giao-duc2272007.html 
13] 
giao-duc-va-vai-tro-cua-nha-nuoc 
[14 
va-vai-tro-của-nha-nuoc

File đính kèm:

  • pdftrach_nhiem_cua_nha_nuoc_va_xa_hoi_trong_xa_hoi_hoa_giao_duc.pdf