Total physical response: một số ưu, nhược điểm

Total physical response (TPR) là phương pháp giảng dạy ngoại ngữ phỏng theo cách trẻ em học ngôn

ngữ mẹ đẻ: xây dựng năng lực nghe hiểu trước khi nói, học tập trong môi trường không áp lực, vận

dụng cả não trái và não phải, và kết hợp vận động thể chất và học ngôn ngữ. Mặc dù đã ra đời từ những

năm 60 của thế kỉ trước, nhưng TPR vẫn là một phương pháp dạy – học ngoại ngữ nói riêng và tiếng

Anh nói chung mang lại nhiều hiệu quả cũng như hứng thú cho người học. Trong khuôn khổ bài viết

này, chúng tôi đề cập đến những ưu, nhược điểm của phương pháp này với mục đích giúp giáo viên và

người học có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về TPR làm cơ sở để áp dụng TPR trong lớp học ngoại ngữ.

pdf 6 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Total physical response: một số ưu, nhược điểm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Total physical response: một số ưu, nhược điểm

Total physical response: một số ưu, nhược điểm
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 198(05): 23 - 27 
 Email: [email protected] 23 
TOTAL PHYSICAL RESPONSE: MỘT SỐ ƯU, NHƯỢC ĐIỂM 
Nguyễn Thị Huế*, Mai Thị Thanh Thu, 
Phạm Thị Hoàng Ngân, Vũ Thị Thu Phương 
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 
TÓM TẮT 
Total physical response (TPR) là phương pháp giảng dạy ngoại ngữ phỏng theo cách trẻ em học ngôn 
ngữ mẹ đẻ: xây dựng năng lực nghe hiểu trước khi nói, học tập trong môi trường không áp lực, vận 
dụng cả não trái và não phải, và kết hợp vận động thể chất và học ngôn ngữ. Mặc dù đã ra đời từ những 
năm 60 của thế kỉ trước, nhưng TPR vẫn là một phương pháp dạy – học ngoại ngữ nói riêng và tiếng 
Anh nói chung mang lại nhiều hiệu quả cũng như hứng thú cho người học. Trong khuôn khổ bài viết 
này, chúng tôi đề cập đến những ưu, nhược điểm của phương pháp này với mục đích giúp giáo viên và 
người học có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về TPR làm cơ sở để áp dụng TPR trong lớp học ngoại ngữ. 
Từ khóa: phương pháp giảng dạy ngoại ngữ; TPR (Total physical response); học tập não phải; ít áp 
lực; tiếp thu tiếng mẹ đẻ 
Ngày nhận bài: 27/3/2019; Ngày hoàn thiện: 19/4/2019; Ngày duyệt đăng: 10/5/2019 
TOTAL PHYSICAL RESPONSE: BENEFITS AND LIMITATIONS 
Nguyen Thi Hue
*
, Mai Thi Thanh Thu, 
Pham Thi Hoang Ngan, Vu Thi Thu Phuong 
Nam Dinh University of Nursing 
ABSTRACT 
Total physical response (TPR) is a method of teaching foreign language resembling the way children 
learn their native language in some aspects: building listening comprehension ability before speaking, 
stress-free learning environment, combination of left and right brained learning and integration of 
physical activities with learning language. Although it was born in the 60s of the last century, TPR is 
still a method of teaching - learning foreign languages in general and English in particular, bringing 
more efficiency and interest to learners. In the context of this article, we mentioned the benefits and 
limitations of this method with the aim of helping teachers and learners have a more specific and deeper 
view of TPR, which will form a basis to apply TPR in their language class. 
Key words: foreign language teaching methods; TPR (Total Physical Response); right-brained 
learning; streess-free learning; first language acquisition 
Received: 27/3/2019; Revised: 19/4/2019; Approved: 10/5/2019 
* Corresponding author. Email: [email protected]
Nguyễn Thị Huế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 198(05): 23 - 27 
 Email: [email protected] 24 
1. Giới thiệu 
Trong quá trình giảng dạy ngôn ngữ, các nhà 
ngôn ngữ học cũng như các giáo viên giảng 
dạy ngoại ngữ đã và đang cố gắng tìm ra một 
phương pháp dạy - học ngoại ngữ phù hợp 
với tất cả đối tượng người học trong tất cả các 
hoàn cảnh khác nhau [1]. Tuy nhiên có lẽ sẽ 
không có một phương pháp như vậy [2]. 
Trong khoảng thời gian 50 năm trở lại đây, đã 
có rất nhiều phương pháp dạy – học ngoại 
ngữ ra đời như Direct Method, Audio-Visual 
Method, Immersion hay CLT 
(Communicative Language Teaching). Một 
trong những phương pháp thu hút sự chú ý 
của các giáo viên ngoại ngữ đó là TPR (Total 
physical response), tạm dịch là phương pháp 
Phản xạ hay Trực quan hành động. Cha đẻ 
của TPR là giáo sư tâm lý học James Asher, 
Đại học San Jose State University, California 
vào những năm 1960. Đây là phương pháp 
kết hợp giữa ngôn ngữ và vận động tập trung 
vào người học và giúp họ phát triển ngôn ngữ 
thứ hai một cách tự nhiên. Với phương pháp 
này, người học được sử dụng tích cực các 
giác quan và vận động cơ thể trong suốt quá 
trình tham gia vào hoạt động học tập và thực 
hành ngôn ngữ mới. Các kĩ năng Nghe – 
Quan sát – Phản hồi (bằng hành động của cơ 
thể) được sử dụng hiệu quả trong quá trình 
học tập. Người học nghe các mệnh lệnh 
(commands) trong ngôn ngữ đích và sau đó 
ngay lập tức phản xạ lại bằng những hành 
động phù hợp. Trong khuôn khổ bài viết này, 
tác giả muốn đề cập tới các lợi ích của việc sử 
dụng TPR trong lớp học ngoại ngữ cũng như 
những hạn chế của phương pháp này. 
2. Những ưu, nhược điểm của TPR 
2.1 Ưu điểm của TPR 
2.1.1 TPR tạo môi trường học tập vui vẻ, 
thoải mái 
Phương pháp này giới thiệu ngôn ngữ thông 
qua việc sử dụng các mệnh lệnh và yêu cầu 
học sinh phản xạ lại bằng các hoạt động cơ 
thể, do đó không khí lớp học khá vui vẻ, thoải 
mái. Và cũng giống như cách trẻ nhỏ phát 
triển khả năng hiểu ngôn ngữ nói, TPR giúp 
người học hiểu sâu ngôn ngữ đích thông qua 
các hoạt động nghe hiểu, phản xạ, bắt chước. 
Hơn nữa, người học không bị ép buộc phải 
thể hiện hành động khi họ chưa sẵn sàng [3]. 
Thay vì ngồi tại chỗ và cặm cụi làm bài tập, 
học viên TPR có cơ hội đứng dậy và thực 
hiện các yêu cầu của giáo viên như “give me 
your book” or “walk to the window”. Các 
giáo viên TPR cố gắng giúp học viên đón 
nhận, và yêu thích quá trình học giao tiếp 
bằng ngôn ngữ mới [4]. Tuy nhiên, quá trình 
này cũng đòi hỏi các giáo viên, giống như 
cách cha mẹ chăm sóc một đứa trẻ, tinh tế 
quan sát xem người học đã sẵn sàng để tiếp 
nhận và thực hiện các mệnh lệnh hay chưa. 
Cách các em phản hồi lại yêu cầu của giáo 
viên sẽ phản ánh tâm lý thoải mái, tự tin hay 
còn rụt rè, bỡ ngỡ. Ví dụ, nếu quan sát thấy 
học viên vẫn còn rè rặt, chưa tự tin, giáo viên 
sẽ tiếp tục nhẹ nhàng, kiên nhẫn làm mẫu đến 
khi các em cảm thấy đủ thoải mái và tự tin 
“diễn” một mình [5]. TPR cũng được xem 
như là một cách “khuấy động không khí lớp 
học hiệu quả giúp cải thiện tâm trạng của học 
viên” [6, tr.12]. Do đó, lớp học TPR giống 
như một sân khấu, trong đó giáo viên đóng 
vai trò là đạo diễn hướng dẫn các diễn viên – 
người học thực hiện các cảnh quay giống như 
các bậc cha mẹ hướng dẫn cho em bé của 
mình trong các tình huống gần gũi chăm sóc 
hàng ngày [5]. 
Một thế mạnh khác của TPR là tạo môi 
trường học tập ít áp lực giúp nâng cao kết quả 
học tập. Brown [7] cho rằng, khi người học lo 
lắng, mệt mỏi, căng thẳng thì khả năng tiếp 
thu kiến thức của họ không bằng khi tâm 
trạng thoải mái, và không bị chi phối bởi bất 
kì nhu cầu hay tình cảm tiêu cực nào. Nhưng 
thật không may các học viên trong các lớp 
học ngoại ngữ thường trong tình trạng lo âu, 
không thoải mái [7], mà theo giả thuyết bộ lọc 
tình cảm (Affective filter hypothesis) của 
Krashen có thể ngăn người học tiếp thu ngôn 
Nguyễn Thị Huế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 198(05): 23 - 27 
 Email: [email protected] 25 
ngữ ngay cả khi có sẵn đầu vào thích hợp. Do 
đó, việc học ngôn ngữ không nên liên quan 
đến bất kỳ căng thẳng nào, vì căng thẳng và 
cảm xúc tiêu cực ức chế quá trình học ngôn 
ngữ tự nhiên. Một trong những lý do chính 
khiến phương pháp TPR được phát triển là để 
giảm sự căng thẳng mà mọi người cảm thấy 
khi học ngoại ngữ [4]. Trong lớp TPR, giáo 
viên tập trung vào việc học viên hiểu ý nghĩa 
và vận dụng các vận động thể chất để tránh 
căng thẳng, tạo môi trường học tập thoải mái, 
có thể khiến người học giảm bớt bộ lọc tình 
cảm bằng cách giảm thiểu áp lực thực hiện và 
bị người khác đánh giá [8]. 
2.1.2 TPR tương tự như cách trẻ em học 
tiếng mẹ đẻ 
Thực tế là, TPR hướng đến quá trình thụ đắc 
ngôn ngữ một cách vô thức giống như cách 
trẻ học ngôn ngữ mẹ đẻ của mình mà không 
cần bất kì nỗ lực có ý thức nào. Một trong 
những giả định đằng sau TPR là "bộ não con 
người có chương trình sinh học để học được 
bất kỳ ngôn ngữ tự nhiên nào trên trái đất - 
bao gồm cả ngôn ngữ ký hiệu của người 
khiếm thính" [5, tr. 69]. Do đó, người ta tin 
rằng, tương tự như trẻ em học ngôn ngữ mẹ 
đẻ, người học ngoại ngữ không nên "học" mà 
"thụ đắc" ngôn ngữ đích, không cần chú ý đến 
việc học các qui tắc trong ngôn ngữ [5, tr. 
70]. Ngoài ra, trong bài viết của mình, Yang 
[9] cũng đồng ý rằng phương pháp giảng dạy 
TPR coi quá trình học ngoại ngữ cũng giống 
như quá trình học tiếng mẹ đẻ. Quá trình này 
cũng hoàn toàn giống như quá trình hấp thụ 
ngôn ngữ thứ nhất của trẻ, do đó việc dạy 
ngoại ngữ được thiết kế theo cách học của 
ngôn ngữ thứ nhất. Hơn nữa, TPR được coi là 
một cách học không căng thẳng trong đó học 
sinh học được giải thoát khỏi những tình 
huống tự ý thức và căng thẳng [10, tr75]. Học 
sinh được học ngôn ngữ thứ hai theo cách vô 
tư như một đứa trẻ tiếp thu tiếng mẹ đẻ. 
Một khía cạnh khác, TPR phản ánh cách tiếp 
thu ngôn ngữ như cách trẻ em tiếp thu ngôn 
ngữ thứ nhất, đó là trước khi trẻ có thể nói 
được những từ đầu tiên thì trong giai đoạn 
“im lặng” trẻ đã có thể có những phản xạ cơ 
thể “vâng lời” [2, tr.4]. Thông qua những 
hành động, trẻ tạo ra cách của riêng mình để 
thể hiện trẻ hiểu những lời nói của cha mẹ 
hay người chăm sóc như “look at mommy!”; 
“look at daddy” trước khi có thể bập bẹ những 
tiếng đầu tiên [11, tr 23]. Đương nhiên, phải 
mất nhiều tháng để một đứa trẻ nghe và tìm ra 
ý nghĩa của những âm thanh nó nghe được 
trước khi đứa trẻ sẵn sàng nói ra từ có ý nghĩa 
đầu tiên của chúng [4]. Tương tự như vậy, học 
viên TPR được phép giữ im lặng trong một 
thời gian đáng kể đến khi họ thực sự sẵn sàng 
[12], người học chỉ lắng nghe và thể hiện sự 
hiểu biết của họ bằng hành động cơ thể. Theo 
cách tương tự, TPR ban đầu chỉ tập trung vào 
phát triển khả năng nghe hiểu trước khi bắt đầu 
với việc tạo ra lời nói và các hoạt động trong 
lớp, bao gồm các phản xạ thể chất đối với các 
lệnh được đưa ra bởi giáo viên. Vì vậy, khi áp 
dụng TPR học một ngôn ngữ thứ hai, hoặc học 
thêm một ngôn ngữ nữa, ngôn ngữ đó được thụ 
đắc qua quy trình giải mã gần giống như khi 
phát triển tiếng mẹ đẻ. 
2.1.3 TPR vận dụng cả não trái và não phải 
trong quá trình học ngoại ngữ 
Trong khi hầu hết các phương pháp học ngôn 
ngữ thứ hai chỉ hướng vào bán cầu não trái, 
TPR vận dụng cả bán cầu não trái và phải khi 
người học tiếp thu ngôn ngữ mới. Não bộ của 
chúng ta có một chế độ đặc biệt để tiếp thu 
các ngôn ngữ bằng cách tạo ra mối liên kết 
mạnh mẽ giữa ngôn ngữ và chuyển động cơ 
thể, do đó bán cầu não phải, điều khiển các 
hoạt động vận động, đóng vai trò quan trọng 
trong việc học ngôn ngữ [5]. Tương tự như 
quá trình trẻ học tiếng mẹ đẻ, người học ngoại 
ngữ trước hết nên trải qua các vận động cơ 
thể bởi vì trong quá trình này não trái của 
người học cũng quan sát và học tập. Một khi 
não phải đã ghi nhớ thông tin mới, người học 
sẽ có thể bắt đầu tạo ra ngôn ngữ (nói là một 
hoạt động được điều khiển bởi não trái) [13]. 
Nguyễn Thị Huế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 198(05): 23 - 27 
 Email: [email protected] 26 
Mặt khác, Larsen-Freeman [4] cho rằng, khi 
người học phản hồi lại giáo viên bằng các 
hoạt động thể chất cũng là lúc trí nhớ của họ 
được kích thích. Hơn nữa, liên kết từ vựng 
với ngôn ngữ cơ thể có thể là cách tốt nhất để 
học ngôn ngữ vì nó kích hoạt nhiều phần khác 
nhau của hệ thần kinh và kích thích người học 
ở nhiều khía cạnh [14]. 
2.2 Một số hạn chế của TPR 
Mặc dù có những ưu điểm nổi bật nêu trên, 
TPR cũng có những hạn chế nhất định. Do 
các hoạt động TPR chỉ xoay quanh những câu 
mệnh lệnh đơn giản như “đứng lên”, “mở 
sách ra”, phương pháp này có vẻ như chỉ phù 
hợp với người học ở trình độ thấp để tiếp thu 
những từ vựng, cấu trúc ngữ pháp đơn giản. 
Ngoài ra, TPR dường như phù hợp hơn với 
đối tượng người học là trẻ nhỏ hoặc thanh 
thiếu niên. Việc sử dụng ngôn ngữ cơ thể hay 
di chuyển xung quanh lớp học và bắt chước, 
diễn xuất mọi thứ, v.v.. phổ biến hơn nhiều ở 
các lớp học dành cho trẻ em và thanh thiếu 
niên. Còn trong các lớp học người lớn, những 
hoạt động này thường được xem là quá “trẻ 
con” và không phù hợp. 
Một số ý kiến khác lại cho rằng, TPR không 
phù hợp trong việc giảng dạy những khía 
cạnh ngôn ngữ và từ vựng phức tạp [15]. Rõ 
ràng với những cấu trúc, từ vựng đơn giản, 
trực quan, hành động giáo viên có thể dễ dàng 
xây dựng các hoạt động TPR để khuyến 
khích, tạo hứng thú học tập cho học viên. Tuy 
nhiên, với các cấu trúc, từ vựng trừu tượng, 
phức tạp hơn thì việc áp dụng TPR đòi hỏi sự 
sáng tạo và chuẩn bị kỹ lưỡng và công phu từ 
phía giáo viên. 
Về mặt phát triển các kỹ năng ngôn ngữ, TPR 
có thế mạnh trong việc phát triển kỹ năng 
nghe hiểu còn các kỹ năng khác như nói, đọc 
và viết thì cần thời gian và còn hạn chế. 
Một nhược điểm nữa của TPR là về quản lý 
lớp học. Các hoạt động TPR thường rất dễ 
gây ồn ào và tốn thời gian đòi hỏi giáo viên 
có kỹ năng quản lý thời gian và lớp học tốt. 
3. Bàn luận 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc 
tế hiện nay, ngoại ngữ nói chung đặc biệt là 
tiếng Anh đóng vai trò quan trọng. Trong 
những năm gần đây, ngành giáo dục đã và 
đang quyết tâm đổi mới toàn diện việc dạy và 
học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc 
dân nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ giúp 
người học tự tin giao tiếp, học tập, làm việc 
trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa 
văn hóa. Tuy nhiên, dạy và học ngoại ngữ ở 
Việt Nam nhìn chung đạt hiệu quả chưa cao. 
Thực tế là kỹ năng giao tiếp của người học 
tiếng Anh còn nhiều hạn chế mặc dù trong 
những năm gần đây chương trình tiếng Anh 
các cấp đã có những thay đổi theo hướng tập 
trung phát triển các kỹ năng ngôn ngữ. Song, 
để đạt kết quả giảng dạy và học tập tốt, ngoài 
thay đổi chương trình học thì phương pháp 
giảng dạy của giáo viên cũng đóng vai trò 
quan trọng. TPR hiện nay đã và đang được 
các giáo viên ngoại ngữ tại các trường học 
cũng như các trung tâm ngoại ngữ áp dụng 
rộng rãi và đem lại hứng thú và hiệu quả học 
tập cho người học. Đặc điểm chung của các 
lớp học ngoại ngữ ở Việt Nam kể cả các lớp 
học chính khóa tại đa số các trường đại học, 
cao đẳng là sĩ số lớp đông và trình độ không 
đồng đều. Với các lớp học như vậy, TPR 
hoàn toàn phù hợp giúp thu hút tất cả các 
thành viên trong lớp với các trình độ khác 
nhau tham gia vào hoạt động. Ngoài ra, TPR 
thường được xem là một hoạt động thay đổi 
không khí tuyệt vời, giúp lớp học trở nên sôi 
nổi và hào hứng hơn, đặc biệt là trong bối 
cảnh một số trường đại học giờ tiếng Anh kéo 
dài 3-4 tiết học liên tục gây nhàm chán cho 
sinh viên. Một đặc điểm nữa của TPR phù 
hợp với đa phần học sinh Việt Nam còn rụt 
rè, nhút nhát; đó là với TPR, người học được 
phép giữ im lặng khi chưa sẵn sàng và được 
hoạt động theo nhóm qua đó giúp họ cảm 
thấy thoải mái hơn. 
Tuy nhiên, bất kì một phương pháp giảng dạy 
ngoại ngữ nào mà lạm dụng quá mức đều gây 
nhàm chán cho người học. 
Nguyễn Thị Huế và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 198(05): 23 - 27 
 Email: [email protected] 27 
4. Kết luận 
Tóm lại, phương pháp giảng dạy TPR rất dễ 
thu hút sự chú ý của học viên, thu hút học 
viên tham gia vào các hoạt động và đưa họ 
vào môi trường thực tế để học ngoại ngữ nói 
chung và tiếng Anh nói riêng vì nó cung cấp 
môi trường học tập vui vẻ, thú vị, ít căng 
thẳng, áp lực; kết hợp cả não trái và não phải 
và tương tự như cách tiếp thu tiếng mẹ đẻ của 
trẻ. Với những lợi ích kể trên, các giáo viên 
ngoại ngữ nên đưa TPR vào trong lớp học của 
mình. Để có thể phát huy tối đa lợi ích TPR 
mang lại, giáo viên cần xem xét và cân nhắc 
đối tượng người học, nội dung giảng dạy 
cũng như các điều kiện khác để khéo léo và 
linh hoạt lồng ghép các hoạt động TPR phù 
hợp. Ngoài ra, TPR có thể dùng kết hợp với 
các phương pháp khác mà không gây bất kì 
mâu thuẫn nào [12]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. J. Asher, “Year 2000 update for the total 
physical response, known worldwide as 
TPR”, tprsource.com, 2000. [Online]. 
Available: www.tprsource.com/asher.htm, 
[Assessed: 30/6/2013]. 
[2]. J. Asher, “The total physical response 
approach to second language learning,” The 
Modern Language Journal, vol.53, pp. 3-17, 
1969. 
[3]. C. Jones, M. Lees, N. Donohue, and K. Smith, 
“Teaching spoken English at junior high 
school: a comparison of TPR and 
PPP”, Language Teacher, vol. 39, no.3, 2015. 
[4]. D. Larsen-Freeman, Techniques and 
principles in language teaching, Oxford 
University Press, Oxford,1986. 
[5]. J. Asher, Learning another language through 
actions. The complete teacher's guide 
book (6th ed.), Sky Oaks Productions, Inc., 
Los Gatos, 1977. 
[6]. H. P. Widodo, “Teaching children using Total 
Physical Response (TPR) method: 
rethinking”, Bahasa Dan Seni, Tahum, vol. 
33, no. 2, 2005. 
[7]. H. D. Brown, Principles of language learning 
and teaching ( 3rd ed.), Prentice Hall 
Regents, New Jersy,1994. 
[8]. Laubach Literacy Action, Teaching adults: an 
ESL resource book, New reader press, New 
York, 1996. 
[9]. L. Yang, “The application of TPR English 
teaching method in primary schools,” In Proc. 
International Conference on Education, 
Language, Art and Intercultural 
Communication (ICELAIC-14), 5/2014. 
[10]. J. Richards, “Beyond methods: alternative 
approaches to instructional design in language 
teaching,” Prospect, vol. 3, no. 1, pp.11-30, 
1987. 
[11]. L. Ji, and J. Dai, “Total physical response in 
university EFL listening class,” Humanizing 
Language Teaching, vol. 5, pp. 33-36, 2008. 
[12]. P. L. Lightbown, and N. Spada, How 
languages are learned, ( 3rd ed.),Oxford 
University Press, Oxford, 2006. 
[13]. J. C. Richard and T. S. Rodger, Approaches 
and methods in language teaching, 
Cambridge University Press, Cambridge, 
2001 
 [14]. R. Oxford and D. Crookal, “Vocabulary 
learning: a critical analysis of techniques,” 
TESL Canada Journal, vol. 7, no.2, 1990 
[15]. D. E. Wolfe, “Intergrating TPR strategy in a 
level I Spainish class,” Foreign Languages 
Annals, vol. 15, no.4, pp. 273-280, 1982. 
  Email: [email protected] 28 

File đính kèm:

  • pdftotal_physical_response_mot_so_uu_nhuoc_diem.pdf