Tổng quan: Vi khuẩn gây bệnh kháng thuốc từ cộng đồng trong CAP: Thực trạng và cách tiếp cận thực hành
THỰC TRẠNG ĐỀ KHÁNG KHÁNG
SINH CỦA CÁC VI KHUẨN GÂY VIÊM
PHỔI CỘNG ĐỒNG
Các vi khuẩn phân lập được trong viêm phổi
cộng đồng thường gặp là vi khuẩn ngoại
bào, hay gặp nhất là S.pneumoiae, sau đó
là H. influenzae, S. aureus và Moraxella
catarrhalis. Trong số các vi khuẩn nội bào,
M. pneumoniae là hay gặp nhất, sau đó là các
chủng Legionellae và Chlamydia species.
Virus có liên quan tới NKHHD cộng đồng
tới 60% các trường hợp và 30% viêm phổi
cộng đồng (1). Một tác nhân có nguồn gốc
nhiễm khuẩn bệnh viện phát tán trong cộng
đồng, tụ cầu kháng methicillin (MRSA),
được nhắc tới trong nhiều y văn gần đây. Vi
khuẩn này có đột biến ở gen mecA và tạo ra
độc tố Panton-Valentine leukocidin (PVL), là
nguyên nhân gây nặng ở những trường hợp
nhiễm MRSA
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan: Vi khuẩn gây bệnh kháng thuốc từ cộng đồng trong CAP: Thực trạng và cách tiếp cận thực hành", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan: Vi khuẩn gây bệnh kháng thuốc từ cộng đồng trong CAP: Thực trạng và cách tiếp cận thực hành
11 Hoâ haáp soá 11/2017 THỰC TRẠNG ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA CÁC VI KHUẨN GÂY VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG Các vi khuẩn phân lập được trong viêm phổi cộng đồng thường gặp là vi khuẩn ngoại bào, hay gặp nhất là S.pneumoiae, sau đó là H. influenzae, S. aureus và Moraxella catarrhalis. Trong số các vi khuẩn nội bào, M. pneumoniae là hay gặp nhất, sau đó là các chủng Legionellae và Chlamydia species. Virus có liên quan tới NKHHD cộng đồng tới 60% các trường hợp và 30% viêm phổi cộng đồng (1). Một tác nhân có nguồn gốc nhiễm khuẩn bệnh viện phát tán trong cộng đồng, tụ cầu kháng methicillin (MRSA), được nhắc tới trong nhiều y văn gần đây. Vi khuẩn này có đột biến ở gen mecA và tạo ra độc tố Panton-Valentine leukocidin (PVL), là nguyên nhân gây nặng ở những trường hợp nhiễm MRSA (2,3). Tuổi có tác động làm thay đổi phổ vi sinh gây bệnh. Người già có nguy cơ tăng nhiễm S. pneumoniae, Influenza virus và Chlamydia species (4). Tỷ lệ phân lập được Enterobacteriacae tăng lên tới 25% trên nhóm bệnh nhân trên 65 tuổi (5). Mức độ giảm chức năng hô hấp trên bệnh nhân COPD cũng đã được chứng minh có tác động làm tăng nguy cơ nhiễm Enterobacteriaceae và Pseudomonas spp (6). Trên bệnh nhân COPD đợt cấp viêm phổi, S. pneumoniae và virus cũng là phổ biến nhất (7). Vi khuẩn gây bệnh đợt cấp COPD có thể liên quan tới các chủng S. pneumoniae, H. influenzae hoặc M. catarrhalis mới (new Tổng quan: VI KHUẨN GÂY BỆNH KHÁNG THUỐC TỪ CỘNG ĐỒNG TRONG CAP: Thực trạng và cách tiếp cận thực hành TS.BS ĐỖ NGỌC SƠN Khoa Cấp cứu, BV Bạch Mai e-mail: [email protected] strains)(8). Trên bệnh nhân dãn phế quản, vi khuẩn được lưu ý nhất là Pseudomonas, đặc biệt là những người có giảm chức năng phổi (9,10). Tình hình kháng kháng sinh của S.pneumonia: Tình hình S.pneumoniae kháng penicillin (PRSP) và đa kháng khác nhau giữa các thông báo từ các khu vực. Dự án EARSS (European-wide network of national surveillance systems) theo dõi đều đặn tình hình ở châu Âu cho thấy vào năm 2008 có 10% các phân lập S. pneumoniae xâm lấn không nhậy cảm penicillin. Cơ chế kháng với penicillin và các beta-lactam khác là do thay đổi penicillin-binding proteins (PBP). PBPs tương tác với beta-lactam kiểu enzym bằng cách hình thành một phức hợp đồng hóa trị ở các vị trí serin hoạt hóa. Sự thay đổi PBP có tác động tới tất cả các thuốc nhóm betalactam mặc dù có khác nhau ở từng loại thuốc do ái lực của các PBP đối với từng kháng sinh trong nhóm khác nhau và do vậy khi kháng với penicillin không có nghĩa là kháng hết với các thuốc nhóm beta-lactam (11). Điểm cắt (breakpoints) nhậy cảm của S. pneumoniae đối với penicillin do CLSI (Clinical and Laboratory Standards Institute, Mỹ) đề xuất năm 2008 (12) là kết quả của việc xem xét lại dựa trên các kết quả nghiên cứu lâm sàng cho thấy nhiễm khuẩn S. pneumoniae vẫn còn đáp ứng điều trị với penicillin trong khi theo định nghĩa đã giảm nhậy cảm trên in vitro. Điểm cắt mới được đề xuất dựa trên: đặc tính 12 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN dược động và dược lực kháng sinh, các dữ liệu (data) có liên quan tới MIC và kết cục điều trị. Trên cơ sở các tiêu chuẩn này, ngưỡng nhậy, giảm nhậy và kháng là ≤0.06, 0.12-1, ≥ 2mg/L được thay đổi (khi không sử dụng penicillin uống, không viêm màng não) thành 2, 4, 8mg/L. Với việc đề xuất điểm cắt mới này, việc chỉ định kháng sinh nhóm penicillin sẽ tăng lên thay vì sử dụng các kháng sinh phổ rộng. Việc sử dụng kháng sinh như vậy sẽ giúp làm giảm nguy cơ xuất hiện kháng thuốc trong S.pneumoniae, S.aureus và Clostridium difficile nếu sử dụng quá mức các kháng sinh phổ rộng hơn. Với điểm cắt mới như trên, chỉ định kháng sinh penicillin điều trị viêm phổi do S.pneumoniae là: penicillin G 2g (3.2 triệu đơn vị) IV/4 giờ khi MIC<8mg/L, ceftriaxone 1g IV hoặc IM / 12 giờ hoặc cefotaxime 2g IV/6 giờ (13). Với amoxicillin-clavulanic acid liều 2g/125/ mỗi 12 giờ đủ làm sạch khuẩn với các chủng kháng amoxicillin (MIC 4-8mg/L) (14). Đối với macrolide, theo dữ liệu của EARSS (2008) thì 95% kết quả các phân lập S.pneumoniae xâm lấn nhậy cảm với erythromycin. Cũng từ hệ thống theo dõi này, 32 nước (1655 lần phân lập) tỷ lệ không nhậy cảm với erythromycin là 15%. Từ một theo dõi khác ở cùng thời gian cho tỷ lệ không nhậy cảm với erythromycin là cao nhất (ở Tunisia và Malta) là 39% và 46%(15). S.pneumoniae kháng macrolide theo 2 cơ chế: thay đổi vị trí đích (trên ribosome 23S rRNA, do gen ermB quyết định) và tăng hoạt tính bơm đẩy (do gen mefA quyết định). Vi khuẩn có gen ermB thường thể hiện kháng cao tới rất cao với erythromycin (16). Có nghiên cứu (Daneman N et al 2006) (17) nhận định hiện tượng thất bại lâm sàng do S.pneumoniae xảy ra không phụ thuộc vào kiểu kháng và mức độ tăng MIC. Cơ chế giải thích lợi ích kết hợp macrolide với beta-lactam còn chưa rõ ràng, có thể là bao vây atypic, có thể tăng hoạt tính hiệp đồng (synergy) khi kết hợp 2 thuốc, có thể bao vây nếu có đa nhiễm khuẩn và các đặc tính điều hòa miễn dịch. Macrolide có khả năng, mà không thấy ở bất kỳ nhóm kháng sinh nào khác, làm bất hoạt quá trình tạo pneumolysin ngay cả với liều dưới MIC và khi S.pneumoniae đã kháng macrolide(18). Kháng với fluoroquinolone (FQ) xảy ra theo cách tăng dần. Các đột biến lần đầu được nhận thấy hoặc ở gen parC hoặc gen gyrA làm giảm nhậy cảm thuốc. Thông thường các chủng trở nên kháng hoàn toàn khi có kết hợp thêm đột biến ở các gen đích khác trên nền đột biến một trong hai gen kể trên. Sự xuất hiện kháng thuốc ngay trong quá trình điều trị kháng sinh có vẻ là do phát triển từ những chủng đã mang sẵn vùng quyết định kháng FQ (quinolone resistance determining region, QRDR) và chỉ cần xuất hiện thêm một đột biến ở vị trí khác là trở thành kháng. Ý niệm về nồng độ phòng đột biến kháng thuốc (mutant prevention concentration, MPC) là nồng độ phòng xuất hiện đột biến lần đầu. MPC của các kháng sinh FQ có khả năng hạn chế xuất hiện kháng thuốc ở những mức độ khác nhau, theo chiều giảm dần: moxifloxacin, trovafloxacin, gatifloxacin, grepafloxacin và levofloxacin (19). Kháng FQ còn hiếm ở châu Âu. Dự án Alexander ghi nhận kháng FQ <1% (năm 2001) (www.alexandernetwork. com). Nghiên cứu PROTEKT (www.protekt. org) chỉ ghi nhận ở Nam Âu S.pneumoniae kháng với levofloxacin 1,3%. Tuy nhiên tỷ lệ kháng do đột biến lần đầu là bao nhiêu chúng ta còn chưa được biết. Kháng với tetracyclin và các kháng sinh khác: Ở nhiều nước, các kháng sinh chloramphenicol, co-trimoxazole và tetracyclines tỷ lệ kháng đã ở mức không nên khuyến cáo điều trị kinh nghiệm cho NKHHD do S.pneumoniae bằng các thuốc này nữa (1). Tình hình kháng kháng sinh của H.influenzae: H.influenzae kháng beta- lactam: Cơ chế tạo beta-lactamase (BLM) của H. influenzae là cơ chế đầu tiên được biết và là yếu tố nguy cơ thất bại điều trị trong 13 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN nhiễm khuẩn hô hấp cộng đồng. Hiện tượng kháng này có thể khắc phục bằng cách sử dụng các cephalosporin bền vững với BLM hoặc kết hợp với chất ức chế BLM. Có một nhóm H.influenzae có thay thế ở amino acid trên gen ftsl (PBP 3) cũng có thể kháng ampicillin nhưng betalactamase (-) (BLNAR). Phenotype này của vi khuẩn cũng giảm nhậy cảm với một số cephalosporin. Ở châu Âu, H.influenzae tiết betalactamase có khuynh hướng giảm (1,20). Trong một theo dõi tình hình kháng thuốc của H.influenzae ghi nhận tỷ lệ phân lập betalactamase (+) trung bình là 7,6% (20). Mặc dù hiếm nhưng vẫn tồn tại vi khuẩn betalactamase (-) kháng ampicillin và betalactamase (+) kháng amoxicillin/a. clavulanic và là một mối lo ngại. Kháng macrolide: Azithromycin là kháng sinh có hoạt tính nhất đối với H.influenzae, với MIC 4-8 lần thấp hơn erythromycin (MIC của azithromycin <0,254mg/L). Sự tồn tại của cơ chế bơm đẩy làm cho vi khuẩn giảm nhậy cảm macrolide với tỷ lệ trên 98% các chủng (21). Có sự khác biệt rất lớn giữa việc nhận định tính nhậy cảm của H.influenzae với macrolide khi sử dụng điểm cắt CLSI và điểm cắt PK/PD. Kháng Fluoroquinolones và các thuốc khác: H.influenzae kháng FQ còn hiếm. Tỷ lệ kháng với tetracycline trên một số theo dõi cho thấy có khuynh hướng giảm. Ở Anh và Irland, tỷ lệ phân lập không nhậy giảm từ 3,5% (1999-2000) xuống còn 1,2% (2006- 2007) (22). Trong khi ở Hy-lạp, tỷ lệ này tăng từ 1,6% (1996) tới 38% (2005) (23). Kháng với các kháng sinh uống khác như TMP-SMX, chloramphenicol đều đã có thông báo. Ở Mỹ (2007) tỷ lệ kháng TMP-SMX là 18% (24). Tình hình kháng kháng sinh của M. catarrhalis: Tính nhậy cảm của M. catarrhalis ít thay đổi từ 1999 (1). Vi khuẩn này tiết ra beta-lactamase có tính toàn cầu và các thầy thuốc nên xem rằng tất cả các phân lập đều kháng với amoxicillin, ampicillin, piperacillin và penicillin (1). Tuy nhiên, cả hai enzym tạo betalactamase (BRO-1 và BRO-2) đều bị các chất ức chế với betalactamase bất hoạt. Như vậy các kết hợp beta-lactam/kháng betalactamase đều có chỉ định tốt đối với vi khuẩn này. Macrolide, tetracyclines còn hoạt tính rất tốt. Một số thông báo TMP-SMX bị kháng với tỷ lệ đến 50% (1). Tình hình kháng kháng sinh của M. pneumonia: M. pneumoniae bị tetracyclines, macrolides, ketolides và fluoroquinolones ức chế và các phân lập cho thấy có ít biến đổi MIC (25,26). Do không có cấu trúc thành tế bào, vi khuẩn này kháng với tất cả các beta- lactam và glycopeptides. Bởi vì tetracyclines và fluoroquinolones không được khuyến cáo sử dụng ở trẻ em nên macrolide là kháng sinh thường được chọn điều trị cả ở trẻ em và người lớn. Từ sau năm 2000, có một số thông báo xuất hiện kháng macrolide, chủ yếu ở châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Có thông báo ở Nhật Bản kháng macrolide tới 30.6% (27). Trong khi ở châu Âu, tỷ lệ này từ một số dữ liệu cho thấy còn thấp (28,29). Tuy nhiên điều này cho thấy cần theo dõi tình hình kháng macrolide của M. pneumoniae. Tình hình kháng kháng sinh của S.aureus: Ở châu Âu, nhiễm S. aureus tiên phát vẫn còn là không phổ biến mặc dù đây là vi khuẩn gây bệnh viêm phổi quan trọng và gây tử vong sau các dịch cúm (30). Vai trò của S.aureus kháng methicillin từ cộng đồng (CA-MRSA) thực sự còn chưa xác định rõ ràng. Xem là nhiễm khuẩn do CA-MRSA khi triệu chứng nhiễm khuẩn xảy ra trước nhập viện hoặc trong 48 giờ và bệnh nhân không tiếp cận với chăm sóc y tế trước đó. Viêm phổi cộng đồng (CAP) do CA-MRSA thường ở người trẻ, khỏe mạnh, tiến triển bệnh nhanh, bệnh cảnh hô hấp nặng. CA-MRSA thông thường kháng với beta-lactam nhưng nhậy với hầu hết các kháng sinh khác (điều này là rất khác với HA- MRSA và chẩn đoán vi sinh cần làm rõ mặc dù với test nhậy cảm kháng sinh thường qui là khó chẩn đoán phân biệt). Do vi khuẩn không 14 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN phổ biến trong CAP nên không cần thiết bao vây vi khuẩn này một cách thường quy. Tuy nhiên, tình trạng nặng và tiên lượng xấu của nhiễm khuẩn CA-MRSA nhấn mạnh việc lưu ý chẩn đoán và điều trị sớm. Clindamycin và linezolid ức chế tốt sự hình thành các độc tố vi khuẩn (kể cả PVL) nên làm giảm hội chứng sốc nhiễm độc(1) trong khi với điều trị vancomycin, ngưỡng độc tố không khác nhóm chứng (không được điều trị kháng sinh) (1). Ức chế tạo độc tố có thể liên quan tới cải thiện kết cục bệnh nên vancomycin đơn độc không phải là trị liệu lý tưởng cho viêm phổi do CA-MRSA. Việc kết hợp thuốc diệt khuẩn và ức chế tạo độc tố như clindamycin hoặc linezolid được xem là giải pháp cải thiện tiên lượng. Vancomycin không nên sử dụng đơn độc để điều trị CA-MRSA. Tình hình đề kháng kháng sinh từ y văn trong nước: Có nhiều nghiên cứu trong nước về tình hình vi sinh gây bệnh và kháng thuốc trong NKHHD cộng đồng. Tuy nhiên, hầu hết đây là những nghiên cứu thực hiện trong bệnh viện, in vitro, đơn trung tâm và không áp dụng một cách chuẩn các phương pháp chẩn đoán vi sinh. Năm 2013, một nghiên cứu có độ tin cậy cao thực hiện phân lập trên bệnh nhân NKHHD cộng đồng bao gồm cả CAP ở Khánh Hòa (2009-1010) (31) bằng các phương pháp phân lập quy ước và PCR cho thấy vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là H.infuenzae (28%) và S.pneumoniae (23%). Đáng lưu ý là test chẩn đoán virus dương tính với virus hô hấp là 21% và Influenza A là 32,9%. Hình ảnh phân loại với tỷ lệ phân lập được phổ biến là S.pneumoniae, H.influenzae và virus khá giống với nhận định của hiệp hội Lồng ngực Anh (BTS 2009) trên CAP(32). Trong khoảng một thập niên vào những năm 2000-2010 ở Việt Nam, theo chương trình giám sát ANSORP (Asian Network for Surveillance of Resistant Pathogens), phân lập trên những trường hợp nhiễm khuẩn hô hấp cấp đã cho những ghi nhận khá cụ thể về tình hình nhiễm và đề kháng của các tác nhân gây bệnh phổ biến với nhận định chung là tình hình kháng thuốc của S.pneumoniae là khá cao so với các nước cùng tham gia lấy số liệu ở khu vực châu Á-TBD (33). Với chuẩn mới (2008) của CLSI như đã nói ở trên, một nghiên cứu đa trung tâm thực hiện vào thời điểm 2010-2011 (nghiên cứu SOAR) ghi nhận tỷ lệ kháng penicillin của S.pneumoniae xuống còn rất thấp (1%). Tuy nhiên các tác giả của nghiên cứu này cũng cho thấy MIC của vi khuẩn đối với penicillin đã tăng từ 2mg/L lên 3 mg/L kể từ 2007 (34). Cũng với kết quả nghiên cứu SOAR ghi nhận, S. pneumoniae có tỷ lệ đề kháng cao đối với các kháng sinh macrolide (96-97%), clindamycin (85%), cefuroxime (71%), cefaclor (88%), cotrimoxazol (91%), tetracycline (79%) và chloramphenicol (68%). Trong khi tỷ lệ vi khuẩn kháng amoxicillin-a. clavulanic là rất thấp, chỉ 0,3%. Tuy nhiên MIC90 của amoxicillina.clavulanic là 3mg/L cao hơn so với kết quả nghiên cứu năm 2007 (2mg/L). Nghiên cứu cũng ghi nhận đã có 5% vi khuẩn kháng được ofloxacin, so với nghiên cứu năm 2007 chưa có vi khuẩn kháng fluoroquinolones được ghi nhận. Với H.influenzae năm 2007 P.H Vân thực hiện một nghiên cứu đa trung tâm trên 248 chủng H. influenzae phân lập từ các bệnh phẩm lâm sàng nhiễm khuẩn hô hấp cấp(35). Kết quả cho thấy có đến 49% vi khuẩn tiết được beta- lactamse, kháng được ampicillin. Tuy nhiên vi khuẩn còn nhạy rất tốt với amoxicillin-a. clavulanic (100%), azithromycin (92%) và các cephalosporin thế hệ 2, như cefuroxime (99%), cefaclor (92%). Ngoài ra nghiên cứu này cũng ghi nhận một tỷ lệ cao vi khuẩn kháng sulfamethoxazol/trimethoprim (SMT), 64%. Tương tự như kết quả trên, nghiên cứu SOAR (2010-2011)(34), trên 200 chủng H. influenzae phâp lập từ lâm sàng nhiễm khuẩn hô hấp cấp trong đó có 146 từ nhiễm khuẩn hô hấp dưới, cho thấy có đến 49% vi khuẩn kháng ampicillin và cơ chế chủ yếu vẫn là tiết men betalactamase (tỷ lệ phát hiện được là 41%). 15 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN Cũng trong nghiên cứu này vi khuẩn cũng kháng cao với SMT (83%), tetracycline (93%). Dù beta-lactamase của H. influenzae là loại cổ điển không thể kháng được các cephalosporin thế hệ hai, nhưng kết quả nghiên cứu SOAR vẫn ghi nhận được 25% kháng cefuroxime và 27% kháng cefaclor. Cũng từ kết quả nghiên cứu có 31% H. influenzae là không nhạy cảm azithromycin vì có MIC cao hơn tiêu chuẩn nhạy cảm. Trong khi đó vi khuẩn còn nhạy cảm tốt amoxicillin-a.clavulanic (99,5%) mặc dù MIC90 của amoxicillin-a.clavulanic là 3 mg/L (khoảng 90%). TIẾP CẬN THỰC HÀNH Trong thực hành lâm sàng điều trị viêm phổi cộng đồng, việc đánh giá phân tầng nguy cơ có vai trò quan trọng xác định chiến lược điều trị. Các bảng điểm được dùng trong đánh giá phân tầng nguy cơ bao gồm: CURB-65, PSI hay PORT score. Các nghiên cứu cho thấy phân tầng nguy cơ giúp làm giảm tỷ lệ nhập viện và có giá trị dự đoán nguy cơ thở máy xâm nhập và tỷ lệ tử vong. Thêm vào đó các khuyến cáo đều chỉ rõ xác định các yếu bệnh nền, tiền sử nghiện rượu, tình trạng giảm miễn dịch, dùng corticoid kéo dài, đái tháo đường, bệnh phổi cấu trúc là những gợi ý khả năng mắc Pseudomonas và Klebsiellae. Tỷ lệ kháng thuốc của các vi khuẩn thường gặp trong CAP tại cơ sở cũng là một yếu tố quyết định kháng sinh kinh nghiệm. Đối với kháng sinh kinh nghiệm trong điều trị pneumococci, với erythromycin MIC>0,5mg/L là yếu tố nguy cơ thất bại lâm sàng (1). Tình hình kháng ở nhiều nước đã làm hạn chế sử dụng macrolide trong thực hành và vẫn còn nhiều quan điểm không thống nhất về vai trò của macrolide trong nhiễm trùng hô hấp hiện nay. Các quan điểm ủng hộ macrolide cho rằng nhóm thuốc này có khả năng tác dụng ngoài kháng sinh, kể cả trên các phản ứng viêm do virus (36,37). Việc lựa chọn và điều chỉnh liều phù hợp kháng sinh betalactam vẫn còn là hữu dụng trong nhiễm khuẩn do pneumococci. Không có bằng chứng nói rằng có thất bại lâm sàng trên những trường hợp nhiễm khuẩn không viêm màng não do các chủng kháng penicillin gây ra khi sử dụng liều penicillin đủ hoặc cephalosporin thế hệ thứ 3. Với nhận định này, khuyến cáo sử dụng lâm sàng có thể là (1): penicillin 2g (3,2 triệu UI) IV/4 giờ đủ điều trị cho những trường hợp MIC ≤ 8mg/L; ceftriaxone 1g IV hoặc IM/12 giờ hoặc cefotaxime 2g IV/6 giờ đủ điều trị cho những trường hợp MIC ≤ 8mg/L. Cephalosporins uống là không đủ để điều trị các trường hợp nhiễm khuẩn do các chủng có MIC > 2mg/L. Các kháng sinh fluoroquinolone hô hấp có hoạt tính cao với các nhiễm khuẩn hô hấp. Cần xác định các tình huống cụ thể sử dụng các kháng sinh nhóm này. Nếu tỷ lệ đột biến lần đầu thấp thì chỉ định FQ là hợp lý. Cũng vì vậy mà tiền sử đã điều trị FQ là lý do không nên chỉ định kinh nghiệm kháng sinh này trong CAP. Để tăng khả năng điều trị đối với Pseudomonas và Klebsiellae, trên cơ sở phân tích PK/PD, có nghiên cứu đã đề xuất thay đổi liều levofloxacin từ 750mg/một lần/ngày thành 1000mg/một lần/ngày (38,39). H.influenzae, với cơ chế bơm đẩy, đã giảm hoạt tính quan trọng đối với macrolide. Các vi khuẩn thuộc nhóm “không điển hình” (atypical pathogens) hiếm khi kháng thuốc và rất hiếm khi tạo ra thất bại lâm sàng. Những thông báo đầu tiên về tình hình kháng macrolide của M.pneumoniae ở một số nước châu Á cần có các theo dõi và phân tích sâu hơn dưới góc độ lâm sàng. Vai trò của CA-MRSA còn chưa rõ ràng. CA-MRSA thông thường chỉ kháng với beta- lactam trong khi còn nhậy cảm với hầu hết các kháng sinh khác. Như đã phân tích ở trên, do khả năng ức chế tạo độc tố của clindamycin và linezolide nên việc kết hợp với một trong hai kháng sinh này là cần thiết trong điều trị CAP do CA-MRSA. 16 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 M. Woodhead, F. Blasi, S. Ewig et al. Guidelines for the management of adult lower respiratory tract infections - full version. Clin Microbiol Infect 2011; 17(Suppl. 6): E1- E59 2 Gillet Y, Issartel B, Vanhems P et al. Association between Staphylococcus aureus strains carrying gene for Panton-Valentine leukocidin and highly lethal necrotising pneumonia in young immunocompetent patients. Lancet 2002; 359: 753- 759 3 Hageman JC, Uyeki TM, Francis JS et al. Severe community-acquired pneumonia due to Staphylococcus aureus, 2003-04 influenza season. Emerg Infect Dis 2006; 12: 894-899 4 Gutierrez F, Masia M, Mirete C et al. The influence of age and gender on the population-based incidence of community-acquired pneumonia caused by different microbial pathogens. J Infect 2006; 53: 166-174. 5 Ingarfield SL, Celenza A, Jacobs IG, Riley TV. The bacteriology of pneumonia diagnosed in Western Australian emergency departments. Epidemiol Infect 2007; 135: 1376-1383 6 Eller J, Ede A, Schaberg T, Niederman MS, Mauch H, Lode H. Infective exacerbations of chronic bronchitis: relation between bacteriologic etiology and lung function. Chest 1998; 113: 1542-1548. 7 Lieberman D, Lieberman D, Gelfer Y et al. Pneumonic vs nonpneumonic acute exacerbations of COPD. Chest 2002; 122: 1264-1270. 8 Sethi S, Evans N, Grant BJ, Murphy TF. New strains of bacteria and exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease. N Engl J Med 2002; 347: 465- 471. 9 Angrill J, Agusti C, de CR et al. Bacterial colonisation in patients with bronchiectasis: microbiological pattern and risk factors. Thorax 2002; 57: 15-19. 10 Ho PL, Chan KN, Ip MS et al. The effect of Pseudomonas aeruginosa infection on clinical parameters in steady-state bronchiectasis. Chest 1998; 114: 1594-1598. 11 Spratt BG, Pardee AB. Penicillin-binding proteins and cell shape in E. coli. Nature 1975; 254: 516- 517. 12 Clinical and Laboratory Standards Institute. Performance standards for antimicrobial susceptibility testing; eighteenth informational supplement. CLSI document M100S18. Wayne, PA: Clinical and Laboratory Standards Institute, 2008. 13 Peterson LR. Penicillins for treatment of pneumococcal pneumonia: does in vitro resistance really matter? Clin Infect Dis 2006; 42: 224-233. 14 File TM, Garau J, Jacobs MR, Wynne B, Twynholm M, Berkowitz E. Efficacy of a new pharmacokinetically enhanced formulation of amoxicillin/clavulanate (2000/125 mg) in adults with communityacquired pneumonia caused by Streptococcus pneumoniae, including penicillin-resistant strains. Int J Antimicrob Agents 2005. 15 Borg MA, Tiemersma E, Scicluna E et al. Prevalence of penicillin and erythromycin resistance among invasive Streptococcus pneumoniae isolates reported by laboratories in the southern and eastern Mediterranean region. Clin Microbiol Infect 2009; 15: 232-237. 16 Weisblum B. Erythromycin resistance by ribosome modification. Antimicrob Agents Chemother 1995; 39: 577-585. 17 Daneman N, McGeer A, Green K, Low DE. Macrolide resistance in bacteremic pneumococcal disease: implications for patient management. Clin Infect Dis 2006; 43: 432-438. 18 Anderson R, Steel HC, Cockeran R et al. Comparison of the effects of macrolides, amoxicillin, ceftriaxone, doxycycline, tobramycin and fluoroquinolones, on the production of pneumolysin by Streptococcus pneumoniae in vitro. J Antimicrob Chemother 2007; 60: 1155-1158. 19 Blondeau JM, Zhao X, Hansen G, Drlica K. Mutant prevention concentrations of fluoroquinolones for clinical isolates of Streptococcus pneumoniae. Antimicrob Agents Chemother 2001; 45: 433-438. 20 Jansen WT, Verel A, Beitsma M, Verhoef J, Milatovic D. Longitudinal European surveillance study of antibiotic resistance of Haemophilus influenzae. J Antimicrob Chemother 2006; 58: 873-877. 21 Peric M, Bozdogan B, Jacobs MR, Appelbaum PC. Effects of an efflux mechanism and ribosomal mutations on macrolide susceptibility of Haemophilus influenzae clinical isolates. Antimicrob Agents Chemother 2003; 47: 1017-1022. 22 Morrissey I, Maher K, Williams L, Shackcloth J, Felmingham D, Reynolds R. Nonsusceptibility trends among Haemophilus influenzae and Moraxella catarrhalis from community-acquired respiratory tract infections in the UK and Ireland, 1999-2007. J Antimicrob Chemother 2008; 62 (suppl 2): ii97-ii103. 23 Kofteridis DP, Notas G, Maraki S et al. Antimicrobial susceptibilities of 930 Haemophilus influenzae clinical strains isolated from the island of Crete, Greece. Chemotherapy 2008; 54: 492-498. 24 Critchley IA, Brown SD, Traczewski MM, Tillotson GS, Janjic N.National and regional assessment of antimicrobial resistance among community- acquired respiratory tract pathogens identified in a 2005-2006 U.S. Faropenem surveillance study. 17 Hoâ haáp soá 11/2017 TOÅNG QUAN Antimicrob Agents Chemother 2007; 51: 4382- 4389. 25 Waites KB, Crabb DM, Bing X, Duffy LB. In vitro susceptibilities to and bactericidal activities of garenoxacin (BMS-284756) and other antimicrobial agents against human mycoplasmas and ureaplasmas. Antimicrob Agents Chemother 2003; 47: 161-165. 26 Waites KB, Crabb DM, Duffy LB. In vitro activities of ABT-773 and other antimicrobials against human mycoplasmas. Antimicrob Agents Chemother 2003; 47: 39-42. 27 Morozumi M, Iwata S, Hasegawa K et al. Increased macrolide resistance of Mycoplasma pneumoniae in pediatric patients with community-acquired pneumonia. Antimicrob Agents Chemother 2008; 52:348-350. 28 Dumke R, von BH, Luck PC, Jacobs E. Occurrence of macrolideresistant Mycoplasma pneumoniae strains in Germany. Clin Microbiol Infect 2010; 16: 613-616. 29 Peuchant O, Menard A, Renaudin H et al. Increased macrolide resistance of Mycoplasma pneumoniae in France directly detected in clinical specimens by realtime PCR and melting curve analysis. J Antimicrob Chemother 2009; 64: 52-58. 30 Morens DM, Taubenberger JK, Fauci AS. Predominant role of bacterial pneumonia as a cause of death in pandemic influenza: implications for pandemic influenza preparedness. J Infect Dis 2008; 198: 962-970. 31 Kensuke Takahashi, Motoi Suzuki, Le Nhat Minh et al. The incidence and aetiology of hospitalised community-acquired pneumonia among Vietnamese adults: a prospective surveillance in Central Vietnam. BMC Infectious diseases 2013, 13:296 32 W S Lim, S V Baudouin, R C George et al. British Thoracic Society guidelines for the management of community acquired pneumonia in adults: update 2009. Thorax 2009; 64(Suppl III):iii1-iii55 33 Van P.H. et al. The multicenter study in Vietnam on the antibiotic resistance S. pneumoniae - The results from 204 clinical isolates. Hochiminh City Medicine 2007. 11: Supplement 3, 67-77 34 PH Vân; PT Bình; ĐM Phương và cs. Tình hình đề kháng kháng sinh của S.pneumoiae và H.influenzae phân lập từ NKHH cấp - Kết quả nghiên cứu đa trung tâm thực hiện tại Việt Nam (SOAR) 2010- 2011. YHTH 85512, 2012. 6-11 35 Van P.H. et al. Haemophilus influenzae with beta- lactamase - Results from the multicenter study on 248 strains isolated from Viet Nam. Hochiminh City Medicine. 2007. 11: Supplement 3, 47-55 36 Jesus Caballero, Jordi Rello. Combination antibiotic therapy for community-acquired pneumonia. Annals of Intensive Care 2011, 1:48 37 Jin-YoungMin; Yong Ju Jang. Macrolide Therapy in Respiratory Viral Infections. Mediators of Inflammation. Volume 2012, Article ID 649570, 9 pages doi:10.1155/2012/649570 38 Conte JE Jr, Golden JA, McIver M, Little E, Zurlinden E. Intrapulmonary pharmacodynamics of high-dose levofloxacin in subjects with chronic bronchitis or chronic obstructive pulmonary disease. Int J Antimicrob Agents 2007; 30: 422-427. 39 Bhavnani SM, Forrest A, Hammel JP, Drusano GL, Rubino CM, Ambrose PG. Pharmacokinetics- pharmacodynamics of quinolones against Streptococcus pneumoniae in patients with community-acquired pneumonia. Diagn Microbiol Infect Dis 2008; 62: 99-101.
File đính kèm:
tong_quan_vi_khuan_gay_benh_khang_thuoc_tu_cong_dong_trong_c.pdf

