Tổng quan về vai trò của sFlt-1 và PlGF trong tiên đoán tiền sản giật

Sinh bệnh học của tiền sản giật vẫn còn chưa được hiểu rõ. Gần đây, nhiều nghiên

cứu đã chỉ ra vai trò của sự mất cân bằng các yếu tố tạo mạch trong sinh bệnh học của

căn bệnh này. Sự thay đổi sFlt-1 (soluble fms-like tyrosine kinase-1), PlGF (placental

growth factor) và tỷ số sFlt-1/PlGF liên quan đến căn bệnh này. Chẩn đoán tiền sản

giật hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào đo huyết áp và xét nghiệm protein nước tiểu. Tuy

nhiên, những phương tiện này có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp trong tiên đoán tiền sản

giật. Phương cách điều trị triệt để tiền sản giật vẫn là chấm dứt thai kỳ. Việc chẩn đoán

sớm giúp giảm bệnh suất và tử suất của mẹ và thai nhi. sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/

PlGF cho những thông tin giá trị về tình trạng và tiến triển của bệnh và sẽ là phương

tiện trong tiên đoán tiền sản giật trong tương lai. Trong bài tổng quan này, chúng tôi

muốn cung cấp một cái nhìn tổng quát về giá trị của sFlt-1, PlGF và tỷ số sflt-1/PlGF

trong tiên đoán tiền sản giậ

pdf 7 trang phuongnguyen 280
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan về vai trò của sFlt-1 và PlGF trong tiên đoán tiền sản giật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan về vai trò của sFlt-1 và PlGF trong tiên đoán tiền sản giật

Tổng quan về vai trò của sFlt-1 và PlGF trong tiên đoán tiền sản giật
63
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Tổng	quan	về	vai	trò	của	sFlt-1	và	PlGF	
trong	tiên	đoán	tiền	sản	giật
Nguyễn Hữu Trung*, Nguyễn Duy Tài*, Võ Minh Tuấn*.
*Bộ môn Phụ Sản- Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh
Sinh bệnh học của tiền sản giật vẫn còn chưa được hiểu rõ. Gần đây, nhiều nghiên 
cứu đã chỉ ra vai trò của sự mất cân bằng các yếu tố tạo mạch trong sinh bệnh học của 
căn bệnh này. Sự thay đổi sFlt-1 (soluble fms-like tyrosine kinase-1), PlGF (placental 
growth factor) và tỷ số sFlt-1/PlGF liên quan đến căn bệnh này. Chẩn đoán tiền sản 
giật hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào đo huyết áp và xét nghiệm protein nước tiểu. Tuy 
nhiên, những phương tiện này có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp trong tiên đoán tiền sản 
giật. Phương cách điều trị triệt để tiền sản giật vẫn là chấm dứt thai kỳ. Việc chẩn đoán 
sớm giúp giảm bệnh suất và tử suất của mẹ và thai nhi. sFlt-1, PlGF và tỷ số sFlt-1/
PlGF cho những thông tin giá trị về tình trạng và tiến triển của bệnh và sẽ là phương 
tiện trong tiên đoán tiền sản giật trong tương lai. Trong bài tổng quan này, chúng tôi 
muốn cung cấp một cái nhìn tổng quát về giá trị của sFlt-1, PlGF và tỷ số sflt-1/PlGF 
trong tiên đoán tiền sản giật.
sFlt-1 and PlGF in prediction of preeclampsia
The pathogenesis of preeclampsia is still not completely known. Recently, there 
have been research efforts leading to impressive results highlighting the role of a 
disturbed angiogenic balance as one of the key features of the disease. A shift in sFlt-
1 (soluble fms-like tyrosine kinase-1), PlGF (placental growth factor) and the sFlt-1/
PlGF ratio is associated with the disease. The only tools to diagnose preeclampsia 
are blood pressure measurement and urine protein sampling. However, these tools 
have a low sensitivity and specificity in prediction of preeclampsia. The only cure for 
the disease is delivery, although a timely diagnosis helps in decreasing maternal and 
fetal morbidity and mortality. The sFlt-1, PlGF and the sFlt-1/PlGF ratio is able to give 
additional valuable information on the status and progression of the disease and will 
be implemented in the predictive algorithm of preeclampsia in future. In the present 
review, we want to provide an overview of the vast literature sFlt-1, PlGF and the sFlt-
1/PlGF ratio in prediction of preeclampsia.
Đặt	vấn	đề
Tiền sản giật là một trong những hội chứng 
gây ra do tình trạng tăng huyết áp và protein 
niệu có thể có kèm theo phù hoặc không, xuất 
hiện sau tuần lễ thứ 20 của thai kỳ.1 Tiền sản 
giật có khả năng dẫn đến hội chứng sản giật, 
gây nguy hiểm đến thai cũng như đe dọa tính 
mạng thai phụ. Yếu tố có liên quan đến tạo 
mạch và kháng tạo mạch được sử dụng nhiều 
trên thế giới, và cũng chứng minh hiệu quả 
của nó trong tiên đoán và chẩn đoán sớm hội 
chứng tiền sản giật qua nhiều nghiên cứu là 
sFlt-1 (Soluble fms-like tyrosine kinase 1) và 
PlGF (Placental Growth Factor).2, 3 Các yếu 
tố này vẫn chưa được đưa vào sử dụng để 
tiên đoán tiền sản giật tại Việt Nam. Để đưa 
ra một tiêu chuẩn tiên đoán tiền sản giật dựa 
vào nồng độ sFlt-1 và PlGF, vấn đề đặt ra là 
cần xác định các giá trị bình thường, giá trị 
bất thường, khuynh hướng thay đổi của nồng 
độ các yếu tố này trong thai kỳ, đặc biệt là 
64
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
giai đoạn ba tháng đầu và ba tháng giữa thai 
kỳ, cũng như ngưỡng giá trị dự báo nguy cơ 
tiền sản giật.
Tổng	quan	tài	liệu
sFlt-1 (Soluble fms-like tyrosine kinase-1) 
hay còn gọi là sVEGFR-1 (Soluble vascular 
endothelial growth factor receptor-1) là một 
protein kháng tạo mạch máu trong huyết 
thanh. sFlt-1 là một biến thể gắn kết của thụ 
thể VEGF1 (yếu tố tăng trưởng nội mô mạch 
máu), được sản xuất bởi nhiều loại mô khác 
nhau 4 như tế bào nuôi, tế bào nội mô mạch 
máu, tế bào đơn nhân và tế bào đơn nhân 
trong máu ngoại vi.
 PlGF (Placental growth factor – Yếu tố 
tăng trưởng nhau thai) là một protein người 
được mã hóa bởi gen qui định yếu tố tăng 
trưởng nhau thai.5 Yếu tố tăng trưởng nhau 
thai (PlGF hay còn gọi là PGF) là một yếu 
tố trong nhóm các yếu tố tăng trưởng nội 
mô mạch máu VEGF, là một phần tử quan 
trọng trong sự hình thành mạch máu, đặc biệt 
trong suốt quá trình tạo phôi. Nguồn chính 
của PGF trong thai kỳ là nguyên bào nuôi 
nhau thai (placental trophoblast). PGF cũng 
hiện diện trong nhiều mô khác, bao gồm lá 
nuôi phôi có lông nhung (được gọi là villous 
trophoblast trong các y văn).4
 sFlt-1 liên kết và làm giảm nồng độ lưu 
thông của các VEGF tự do và PlGF (placental 
growth factor - yếu tố tăng trưởng nhau thai). 
Do đó, sFlt-1 làm giảm các tác động có lợi 
của các yếu tố hỗ trợ tạo mạch ở nội mô mạch 
máu của thai phụ.6 dẫn đến hậu quả tăng 
huyết áp và protein niệu trong thai kỳ. 
Đối	tượng	và	phương	pháp	 
nghiên	cứu
Hồi cứu tổng quan hệ thống qua các nghiên 
cứu thử nghiệm lâm sàng, tổng quan hệ thống 
và phân tích gộp. Đối tượng trong các nghiên 
cứu sẽ được đưa vào là thai phụ trong 3 tháng 
đầu thai kỳ, 3 tháng giữa thai kỳ. Loại đầu ra 
trong các nghiên cứu được đưa vào là giá trị 
sFlt-1, PlGF trong 3 tháng đầu, 3 tháng giữa 
thai kỳ; xu hướng thay đổi nồng độ sFlt-1, 
PlGF trong các giai đoạn của thai kỳ ở thai 
phụ bình thường và thai phụ có hội chứng 
tiền sản giật và mối liên quan giữa sFlt-1, 
PlGF trong tiên đoán tiền sản giật.
 Phân tích dữ liệu: các tài liệu và các nghiên 
cứu sau khi đã được chọn vào sẽ được tìm 
kiếm, lọc trích xuất các thông tin về giá trị 
của các chỉ số sFlt-1 và PlGF trong giai đoạn 
3 tháng đầu, và 3 tháng giữa thai kỳ và vai trò 
của sFlt-1, PlGF trong tiên đoán tiền sản giật.
Kết	quả	nghiên	cứu
Giá trị của các chỉ số sFlt-1 và PlGF trong 
thai kỳ
Chỉ số sFlt-1 huyết tương qua các nghiên cứu 
được hồi cứu cho thấy có các giá trị rất khác 
nhau với khoảng dao động tương đối lớn 
(bảng 1). Trung bình và độ lệch chuẩn của chỉ 
số này ở thai phụ bình thường được khảo sát 
thấy dao động trong khoảng thấp nhất là 973 
± 490 pg/ml (trong nghiên cứu của tác giả 
R. Thadhani cùng cộng sự7) đến cao nhất là 
6150 ± 3400 pg/ml (trong nghiên cứu của tác 
giả P. K. Aggarwal cùng cộng sự8), và ở các 
thai phụ có hội chứng tiền sản giật được khảo 
sát thấy dao động trong khoảng thấp nhất là 
5640 ± 3191 pg/mL (trong nghiên cứu của 
tác giả Y. Li cùng cộng sự9) đến cao nhất là 
41500 ± 15700 pg/ml (trong nghiên cứu của 
tác giả P. K. Aggarwal cùng cộng sự8), ngoại 
trừ các giá trị ngoại lai (từ nghiên cứu của tác 
giả M. Wolf cùng cộng sự10) và chỉ số trung 
vị, khoảng tứ phân vị (từ nghiên cứu của tác 
giả K. A. Wathen cùng cộng sự11). Phân tích 
gộp các nghiên cứu nêu trên, hiệu chỉnh bằng 
trọng số là tần số thai phụ, không xét giá trị 
ngoại lai và trung vị nhằm hạn chế tối đa sai 
lệch số liệu có thể, kết quả cho thấy chỉ số 
sFlt-1 huyết tương trung bình của thai phụ 
bình thường là 3509,927 ± 1724,295 pg/ml, 
65
THÔNG TIN CẬP NHẬT
thai phụ tiền sản giật là 28456,21 ± 11349,79 
pg/ml.
 Chỉ số PlGF huyết tương của các thai phụ 
được đề cập đến chủ yếu từ 3 nghiên cứu 
trong số các nghiên cứu được hồi cứu, là 
nghiên cứu của R. Thadhani,7 nghiên cứu 
của P. K. Aggarwal,8 và nghiên cứu của C. 
Hirashima12 (bảng 2). Chỉ số PlGF huyết 
tương trong 3 nghiên cứu nêu trên có sự khác 
biệt rất lớn. Trong khi nồng độ PlGF huyết 
tương ở thai phụ bình thường theo nghiên 
cứu của P. K. Aggarwal cùng cộng sự lên 
đến 497,6 ± 328,2 pg/ml, thì chỉ số này theo 
nghiên cứu của R. Thadhani cùng cộng sự ở 
thai phụ bình thường lại chỉ vào khoảng 63 
± 145 pg/ml trong 3 tháng đầu thai kỳ. Chỉ 
số PlGF ở thai phụ tiền sản giật theo nghiên 
cứu của P. K. Aggarwal cùng cộng sự cũng 
cao hơn chỉ số này ở ba tháng đầu thai kỳ của 
thai phụ tiền sản giật theo nghiên cứu của R. 
Thadhani cùng cộng sự (96,3 ± 47,2 pg/ml so 
với 23 ± 24 pg/ml). Tuy nhiên, nhìn chung 
thì xu hướng nồng độ PlGF ở thai phụ tiền 
sản giật thấp hơn thai phụ bình thường trong 
cả 2 nghiên cứu này. Bên cạnh đó, cùng ở 3 
tháng đầu của thai kỳ, nồng độ PlGF huyết 
tương ở thai phụ bình thường theo nghiên 
cứu của R. Thadhani cùng cộng sự vẫn cao 
hơn nghiên cứu của tác giả C. Hirashima 
cùng cộng sự (63 ± 145 pg/ml so với 36 pg/
ml, 14-89 pg/ml). Ngoài ra, theo nghiên cứu 
của R. Thadhani cùng cộng sự cũng cho thấy 
nồng độ PlGF ở thai phụ tăng huyết áp thai 
kỳ và thai phụ sinh non cũng gần như tương 
đương nhau, và tương đương với 3 tháng đầu 
thai kỳ ở thai phụ tiền sản giật.
Vai trò của sFlt-1 trong tiên đoán tiền sản giật
Qua các nghiên cứu được hồi cứu, hầu hết 
các nghiên cứu đều cho thấy chỉ số sFlt-1 
huyết tương của thai phụ tiền sản giật (sớm 
66
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
hay muộn, nặng hay nhẹ) tăng cao hơn so với 
thai phụ bình thường một cách có ý nghĩa 
thống kê.10, 11, 13-23 Bên cạnh đó, nghiên cứu 
cũng cho thấy ở thai phụ có hội chứng tiền 
sản giật xuất hiện sớm trước 32 tuần có chỉ 
số sFlt-1 huyết tương cao hơn những thai phụ 
có hội chứng tiền sản giật muộn, và chỉ số 
này ở các thai phụ có hội chứng tiền sản giật 
nặng cao hơn những thai phụ có hội chứng 
tiền sản giật nhẹ.17, 24, 25 Chỉ có nghiên cứu do 
tác giả L. J. Vatten cùng cộng sự báo cáo năm 
2007 cho thấy chỉ số sFlt-1 huyết tương ở cả 
thai phụ bình thường hay tiền sản giật trong 
3 tháng giữa thai kỳ cao hơn 3 tháng đầu thai 
kỳ. Tác giả cũng cho thấy ở thai phụ có hội 
chứng tiền sản giật có chỉ số này thấp hơn 
thai phụ bình thường trong 3 tháng đầu thai 
kỳ, nhưng lại cao hơn trong 3 tháng giữa thai 
kỳ.13 Ngược lại, nghiên cứu do tác giả K. A. 
Wathen cùng cộng sự lại kết luận chỉ số sFlt-
1 huyết tương giảm trong 3 tháng giữa thai 
kỳ so với 3 tháng đầu thai kỳ chỉ xảy ra ở thai 
phụ bình thường, không xảy ra ở thai phụ có 
hội chứng tiền sản giật.11 Riêng nghiên cứu 
của tác giả R. Akolekar cùng cộng sự cho 
thấy không có mối liên quan giữa nồng độ 
sFlt-1 huyết tương trong 3 tháng đầu thai kỳ 
của thai phụ có hội chứng tiền sản giật với 
thai phụ bình thường.26
 Trong các nghiên cứu được hồi cứu, tác 
giả Y. H. Ye cùng cộng sự đã đưa ra ngưỡng 
giá trị chẩn đoán tiền sản giật dựa vào chỉ 
số sFlt-1 huyết tương trong 3 tháng giữa thai 
kỳ là 8.750pg/mL với độ nhạy là 87,5%, độ 
đặc hiệu là 97,4%, giá trị tiên lượng dương 
là 80,0% và giá trị tiên lượng âm là 88,5%.19, 
20 Báo cáo của tác giả J. H. Lim cũng cho độ 
nhạy trong chẩn đoán tiền sản giật dựa vào 
chỉ số sFlt-1 huyết tương trong 3 tháng giữa 
thai kỳ là 85,0%, tương đương với nghiên 
cứu của tác giả Y. H. Ye cùng cộng sự. Ngoài 
ra tác giả J. H. Lim còn báo cáo tỷ lệ dương 
tính giả của chẩn đoán tiền sản giật dựa vào 
giá trị sFlt-1 huyết tương trong 3 tháng giữa 
thai kỳ là 45,0%.14 Trong khi đó, tác giả M. 
U. Baumann cùng cộng sự báo cáo độ nhạy 
và độ đặc hiệu trong chẩn đoán tiền sản giật 
dựa vào chỉ số sFlt-1 huyết tương trong 3 
tháng đầu thai kỳ là tương đối thấp, tương 
ứng là 64,0% và 56,0%.23
Vai trò của PlGF trong tiên đoán tiền sản giật
Các nghiên cứu cho thấy chỉ số PlGF huyết 
tương ở các thai phụ có hội chứng tiền sản 
giật (dù sớm hay muộn, dù nặng hay nhẹ) 
thấp hơn ở thai phụ bình thường một cách có 
ý nghĩa thống kê.8, 13-15, 17, 18, 22, 25, 26 Bên cạnh 
đó, các nghiên cứu còn cho thấy chỉ số PlGF 
huyết tương ở thai phụ có hội chứng tiền sản 
giật nặng thấp hơn thai phụ có hội chứng 
tiền sản giật nhẹ, và thai phụ có hội chứng 
tiền sản giật sớm có chỉ số này thấp hơn thai 
phụ có hội chứng tiền sản giật muộn.17, 25 Tuy 
nhiên, nghiên cứu của L. J. Vatten cùng cộng 
sự cho thấy nồng độ PlGF trong 3 tháng giữa 
cao hơn 3 tháng đầu thai kỳ.13 Ngoài ra, tác 
giả R. Thadhani cùng cộng sự cũng cho thấy 
nguy cơ tiền sản giật tăng gần 4 lần khi tăng 
1 đơn vị log cơ số 10 của nồng độ PlGF huyết 
tương trong 3 tháng đầu thai kỳ, cũng như 
thai phụ có nồng độ PlGF huyết tương trong 
3 tháng đầu thai kỳ dưới ngưỡng 12 pg/mL 
có nguy cơ tiền sản giật gấp gần 30 lần thai 
phụ có nồng độ PlGF huyết tương trong 3 
tháng đầu thai kỳ trên ngưỡng 39 pg/mL.7
 Nồng độ PlGF huyết tương được các nghiên 
cứu cho thấy có ý nghĩa trong tiên đoán tiền 
sản giật.24, 25, 27 Theo nghiên cứu của tác giả 
A. Ohkuchi cùng cộng sự, log cơ số 10 của 
nồng độ PlGF có mối liên quan thuận với tuổi 
thai khi có triệu chứng tiền sản giật với r = 
0,574,24 và chính vì vậy, chỉ số này có giá trị 
trong tiên đoán tiền sản giật sớm. Ngoài ra, 
trong nghiên cứu của tác giả P. G. Teixeira 
cùng cộng sự và nghiên cứu của tác giả P. 
M. Villa cùng cộng sự, AUC của ROC trong 
phương pháp tiên đoán tiền sản giật dựa vào 
chỉ số PlGF huyết tương là rất cao, hơn 0,9.25 
Đặc biệt đối với phương pháp tiên đoán tiền 
67
THÔNG TIN CẬP NHẬT
sản giật dựa vào nồng độ PlGF huyết tương 
ở tuần thai thứ 18-20 (3 tháng giữa thai kỳ), 
AUC của ROC là 0,998 thể hiện độ tin cậy và 
giá trị tiên đoán của chỉ số này rất cao.25
Vai trò của tỷ số sFlt-1/PlGF trong tiên 
đoán tiền sản giật
Tỷ số sFlt-1/PlGF được các nghiên cứu cho 
thấy có giá trị rất cao trong tiên đoán tiền sản 
giật. Tỷ số này ở các thai phụ có hội chứng 
tiền sản giật cao hơn rất nhiều so với thai phụ 
bình thường.8, 14, 15, 18, 25 Nghiên cứu của tác 
giả J. H. Lim cùng cộng sự cho kết quả tỷ 
số sFlt-1/PlGF ở thai phụ có hội chứng tiền 
sản giật gấp gần 7 lần nhóm thai phụ bình 
thường.14 Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả S. 
Y. Kim cùng cộng sự cũng cho thấy log cơ 
số 10 của tỷ số sFlt-1/PlGF ở thai phụ có hội 
chứng tiền sản giật gấp 17 lần thai phụ bình 
thường.15 Các nghiên cứu cũng cho thấy ở 
thai phụ có hội chứng tiền sản giật nặng có tỷ 
số sFlt-1/PlGF cao hơn rất nhiều so với thai 
phụ có hội chứng tiền sản giật nhẹ.14
 Nghiên cứu của tác giả S. Y. Kim cho thấy 
log cơ số 10 của tỷ lệ sFlt-1/PlGF có giá trị 
ngưỡng là 1,4 trong tiên đoán tiền sản giật.15 
Sử dụng tỷ số nồng độ sFlt-1/PlGF trong tiên 
đoán tiền sản giật cho thấy có độ nhạy, độ 
đặc hiệu tương đối cao. Sử dụng log cơ số 
10 của tỷ lệ sFlt-1/PlGF trong tiên đoán tiền 
sản giật cho thấy có độ nhạy 78% và độ đặc 
hiệu 80,4%.15 Trong nghiên cứu của tác giả 
J. H. Lim cùng cộng sự, phương pháp tiên 
đoán tiền sản giật sử dụng tỷ số nồng độ sFlt-
1/PlGF cho độ nhạy là 85% và tỷ lệ dương 
tính giả là 33%.14 Nghiên cứu của tác giả A. 
Ohkuchi cùng cộng sự cho thấy tỷ số nồng độ 
sFlt-1/PlGF trong 3 tháng giữa thai kỳ được 
sử dụng tiên đoán tiền sản giật với độ nhạy, 
độ đặc hiệu, và giá trị tiên lượng dương là 
tuyệt đối 100%.28 Độ nhạy của phương pháp 
tiên đoán tiền sản giật sớm trước 36 tuần thai 
dựa trên chỉ số tỷ số sFlt-1/PlGF trong tuần 
thai 26-31 tương đối thấp, chỉ 36%.21 Đối với 
chỉ số tỷ số sFlt-1/PlGF trong 3 tháng cuối 
thai kỳ, độ nhạy, độ đặc hiệu, và giá trị tiên 
lượng dương cũng tương đối cao, tương ứng 
là 83%, 99,4%, và 50%.28 AUC của ROC 
trong phương pháp tiên đoán tiền sản giật 
dựa vào tỷ số sFlt-1/PlGF qua các nghiên cứu 
cũng rất cao, trên 0,8 đến 1.15, 27, 29
Bàn	luận
Ở thai phụ khỏe mạnh bình thường, yếu tố hỗ 
trợ tạo mạch PlGF tăng trong suốt ba tháng 
đầu và ba tháng giữa của thai kỳ, và càng 
giảm khi càng đến gần thời điểm sinh. Ngược 
lại, yếu tố kháng tạo mạch sFlt-1 vẫn giữ ổn 
định trong suốt ba tháng đầu và ba tháng giữa 
của thai kỳ, và tăng đều cho đến khi sinh. Với 
những thai phụ có hội chứng tiền sản giật, 
nồng độ sFlt-1 đo được cao hơn và nồng độ 
PlGF thấp hơn thai phụ bình thường.6, 30-32
 sFlt-1 ở thai phụ được khảo sát thấy cao 
hơn rõ rệt một cách có ý nghĩa trong những 
trường hợp thai phụ có hội chứng tiền sản 
giật ở mức độ nghiêm trọng so với những 
trường hợp thai phụ có hội chứng tiền sản 
giật ở mức độ nhẹ cũng như những thai phụ 
không có hội chứng tiền sản giật. Cả hai quá 
trình cân bằng yếu tố tạo mạch và điều tiết 
huyết áp trong quá trình mang thai đều là một 
qui trình liên tục, và khi có yếu tố nào đó đột 
biến thì đó là dấu hiệu tiên đoán tiền sản giật. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy các yếu tố và đặc 
tính xuất hiện trong các trường hợp thai phụ 
có hội chứng tiền sản giật không phải là yếu 
tố duy nhất chỉ có trong các trường hợp có 
tiền sản giật, mà chúng còn tồn tại trong các 
trường hợp thai phụ khỏe mạnh bình thường, 
nhưng ở mức độ thấp hơn.33
 Qua nhiều nghiên cứu, tỷ số sFlt-1/PlGF 
được cho thấy là yếu tố tiên lượng tiền sản 
giật tốt hơn là chỉ căn cứ trên mỗi chỉ số đơn 
lẻ 34. Nồng độ PlGF và sFlt-1 được đo lường 
qua xét nghiệm miễn dịch mẫu máu của thai 
phụ đã nâng cao khả năng chẩn đoán tiền sản 
giật,3, 7, 12 hứa hẹn là một công cụ trong tầm 
soát cũng như chẩn đoán tiền sản giật.
68
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 14, Số 2, Tháng 9 – 2014
Tài	liệu	tham	khảo
1. Phượng NTN. Rối loạn cao huyết áp trong thai kỳ. 
Sản Phụ Khoa. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Y 
học. p. 462-82.
2. NHSC - National Horizon Scanning Centre - 
University of Birmingham U, Research N-NIfH. 
Placental Growth Factor based tests for the 
diagnosis of pre-eclampsia. News Brief [Internet]. 
2011. Available from: 
topics/placental-growth-factor-based-tests-for-the-
diagno/.
3. Leslie K, Thilaganathan B, Papageorghiou A. 
Early prediction and prevention of pre-eclampsia. 
Best Practice & Research Clinical Obstetrics & 
Gynaecology. 2011;25(3):343-54.
4. Khalil A, Muttukrishna S, Harrington K, Jauniaux 
E. Effect of Antihypertensive Therapy with Alpha 
Methyldopa on Levels of Angiogenic Factors in 
Pregnancies with Hypertensive Disorders. PLoS 
ONE. 2008;3(7):e2766.
5. Maglione D, Guerriero V, Viglietto G, Ferraro MG, 
Aprelikova O, Alitalo K, et al. Two alternative mRNAs 
coding for the angiogenic factor, placenta growth 
factor (PlGF), are transcribed from a single gene 
of chromosome 14. Oncogene. 1993;8(4):925-31. 
Epub 1993/04/01.
6. Levine RJ, Thadhani R, Qian C, Lam C, Lim KH, Yu 
KF, et al. Urinary placental growth factor and risk of 
preeclampsia. JAMA : the journal of the American 
Medical Association. 2005;293(1):77-85. Epub 
2005/01/06.
7. Thadhani R, Mutter WP, Wolf M, Levine RJ, Taylor 
RN, Sukhatme VP, et al. First trimester placental 
growth factor and soluble fms-like tyrosine kinase 
1 and risk for preeclampsia. The Journal of clinical 
endocrinology and metabolism. 2004;89(2):770-5.
8. Aggarwal PK, Chandel N, Jain V, Jha V. The 
relationship between circulating endothelin-1, 
soluble fms-like tyrosine kinase-1 and soluble 
endoglin in preeclampsia. Journal of human 
hypertension. 2012;26(4):236-41.
9. Lydon-Rochelle MT, Holt VL, Cardenas V, Nelson 
JC, Easterling TR, Gardella C, et al. The reporting 
of pre-existing maternal medical conditions and 
complications of pregnancy on birth certificates 
and in hospital discharge data. American journal of 
obstetrics and gynecology. 2005;193(1):125-34.
10. Wolf M, Hubel CA, Lam C, Sampson M, Ecker 
JL, Ness RB, et al. Preeclampsia and future 
cardiovascular disease: potential role of altered 
angiogenesis and insulin resistance. The Journal 
of clinical endocrinology and metabolism. 
2004;89(12):6239-43. Epub 2004/12/08.
11. Wathen KA, Tuutti E, Stenman UH, Alfthan 
H, Halmesmaki E, Finne P, et al. Maternal 
serum-soluble vascular endothelial growth 
factor receptor-1 in early pregnancy ending in 
preeclampsia or intrauterine growth retardation. 
The Journal of clinical endocrinology and 
metabolism. 2006;91(1):180-4. Epub 2005/11/03.
12. Hirashima C, Ohkuchi A, Arai F, Takahashi K, 
Suzuki H, Watanabe T, et al. Establishing reference 
values for both total soluble Fms-like tyrosine 
kinase 1 and free placental growth factor in 
pregnant women. Hypertension research : official 
journal of the Japanese Society of Hypertension. 
2005;28(9):727-32. Epub 2006/01/20.
13. Vatten LJ, Eskild A, Nilsen TI, Jeansson S, Jenum 
PA, Staff AC. Changes in circulating level of 
angiogenic factors from the first to second trimester 
as predictors of preeclampsia. American journal of 
obstetrics and gynecology. 2007;196(3):239 e1-6. 
Epub 2007/03/10.
14. Lim JH, Kim SY, Park SY, Yang JH, Kim MY, Ryu 
HM. Effective prediction of preeclampsia by a 
combined ratio of angiogenesis-related factors. 
Obstetrics and gynecology. 2008;111(6):1403-9.
15. Kim SY, Ryu HM, Yang JH, Kim MY, Han JY, Kim 
JO, et al. Increased sFlt-1 to PlGF ratio in women 
who subsequently develop preeclampsia. J Korean 
Med Sci. 2007;22(5):873-7. Epub 2007/11/06.
16. Yelumalai S, Muniandy S, Zawiah Omar S, 
Qvist R. Pregnancy-induced hypertension and 
preeclampsia: levels of angiogenic factors in 
malaysian women. Journal of clinical biochemistry 
and nutrition. 2010;47(3):191-7.
17. Buhimschi CS, Magloire L, Funai E, Norwitz 
ER, Kuczynski E, Martin R, et al. Fractional 
excretion of angiogenic factors in women with 
severe preeclampsia. Obstetrics and gynecology. 
2006;107(5):1103-13.
18. Leanos-Miranda A, Campos-Galicia I, Isordia-
Salas I, Rivera-Leanos R, Romero-Arauz JF, 
Ayala-Mendez JA, et al. Changes in circulating 
concentrations of soluble fms-like tyrosine 
kinase-1 and placental growth factor measured 
by automated electrochemiluminescence 
immunoassays methods are predictors of 
preeclampsia. J Hypertens. 2012;30(11):2173-81. 
Epub 2012/08/21.
19. Ye YH, Liu L, Zhan Y, Peng W. [Predictive value 
of serum soluble fms-like tyrosine kinase 1 
concentration in preeclampsia at second trimester]. 
Zhonghua fu chan ke za zhi. 2006;41(7):433-5.
20. Ye YH, Liu L, Zhan Y, Peng W. [Expression and 
significance of soluble fms-like tyrosine kinase 1 in 
preeclampsia placenta]. Zhonghua fu chan ke za 
zhi. 2006;41(8):521-4.
21. Ohkuchi A, Hirashima C, Matsubara S, Takahashi 
K, Matsuda Y, Suzuki M. Threshold of soluble 
fms-like tyrosine kinase 1/placental growth factor 
69
THÔNG TIN CẬP NHẬT
ratio for the imminent onset of preeclampsia. 
Hypertension. 2011;58(5):859-66.
22. Wikstrom AK, Larsson A, Eriksson UJ, Nash P, 
Norden-Lindeberg S, Olovsson M. Placental growth 
factor and soluble FMS-like tyrosine kinase-1 
in early-onset and late-onset preeclampsia. 
Obstetrics and gynecology. 2007;109(6):1368-74.
23. Baumann MU, Bersinger NA, Mohaupt MG, Raio L, 
Gerber S, Surbek DV. First-trimester serum levels 
of soluble endoglin and soluble fms-like tyrosine 
kinase-1 as first-trimester markers for late-onset 
preeclampsia. American journal of obstetrics and 
gynecology. 2008;199(3):266 e1-6.
24. Ohkuchi A, Hirashima C, Matsubara S, Suzuki H, 
Takahashi K, Arai F, et al. Alterations in placental 
growth factor levels before and after the onset of 
preeclampsia are more pronounced in women with 
early onset severe preeclampsia. Hypertension 
research : official journal of the Japanese Society 
of Hypertension. 2007;30(2):151-9.
25. Villa PM, Hamalainen E, Maki A, Raikkonen K, 
Pesonen AK, Taipale P, et al. Vasoactive agents for 
the prediction of early- and late-onset preeclampsia 
in a high-risk cohort. BMC Pregnancy Childbirth. 
2013;13:110. Epub 2013/05/15.
26. Akolekar R, de Cruz J, Foidart JM, Munaut C, 
Nicolaides KH. Maternal plasma soluble fms-like 
tyrosine kinase-1 and free vascular endothelial 
growth factor at 11 to 13 weeks of gestation in 
preeclampsia. Prenatal diagnosis. 2010;30(3):191-
7.
27. Teixeira PG, Reis ZS, Andrade SP, Rezende 
CA, Lage EM, Velloso EP, et al. Presymptomatic 
prediction of preeclampsia with angiogenic factors, 
in high risk pregnant women. Hypertension in 
pregnancy : official journal of the International 
Society for the Study of Hypertension in Pregnancy. 
2013;32(3):312-20.
28. Ohkuchi A, Hirashima C, Takahashi K, Suzuki H, 
Matsubara S, Suzuki M. Onset threshold of the 
plasma levels of soluble fms-like tyrosine kinase 
1/placental growth factor ratio for predicting the 
imminent onset of preeclampsia within 4 weeks 
after blood sampling at 19-31 weeks of gestation. 
Hypertension research : official journal of the 
Japanese Society of Hypertension. 2013.
29. Verlohren S, Galindo A, Schlembach D, Zeisler H, 
Herraiz I, Moertl MG, et al. An automated method 
for the determination of the sFlt-1/PIGF ratio in the 
assessment of preeclampsia. American journal of 
obstetrics and gynecology. 2010;202(2):161 e1- 
e11. Epub 2009/10/24.
30. Maynard SE, Min JY, Merchan J, Lim KH, Li J, 
Mondal S, et al. Excess placental soluble fms-
like tyrosine kinase 1 (sFlt1) may contribute 
to endothelial dysfunction, hypertension, and 
proteinuria in preeclampsia. The Journal of 
clinical investigation. 2003;111(5):649-58. Epub 
2003/03/06.
31. Lam C, Lim KH, Karumanchi SA. Circulating 
angiogenic factors in the pathogenesis and 
prediction of preeclampsia. Hypertension. 
2005;46(5):1077-85. Epub 2005/10/19.
32. Kendall RL, Thomas KA. Inhibition of vascular 
endothelial cell growth factor activity by an 
endogenously encoded soluble receptor. 
Proceedings of the National Academy of Sciences 
of the United States of America. 1993;90(22):10705-
9. Epub 1993/11/15.
33. Troisi R, Braekke K, Harsem NK, Hyer M, Hoover 
RN, Staff AC. Blood pressure augmentation 
and maternal circulating concentrations of 
angiogenic factors at delivery in preeclamptic and 
uncomplicated pregnancies. American journal of 
obstetrics and gynecology. 2008;199(6):653.e1-.
e10.
34. Buhimschi CS, Norwitz ER, Funai E, Richman S, 
Guller S, Lockwood CJ, et al. Urinary angiogenic 
factors cluster hypertensive disorders and identify 
women with severe preeclampsia. American journal 
of obstetrics and gynecology. 2005;192(3):734-41. 
Epub 2005/03/05.

File đính kèm:

  • pdftong_quan_ve_vai_tro_cua_sflt_1_va_plgf_trong_tien_doan_tien.pdf