Tổng quan về tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim

Khoảng 50% bệnh nhân được chẩn đoán suy tim sẽ tử vong trong vòng 5 năm, 25% tái nhập viện trong 30 ngày sau xuất viện. Kém tuân thủ điều trị ở các bệnh nhân suy tim làm tăng nguy cơ tử vong, tái nhập viện và chi phí chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, chỉ có 50% bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính tuân thủ điều trị đầy đủ. Trong phạm vi bài tổng quan này, chúng tôi tóm tắt: (1) thực trạng và ảnh hưởng của tuân thủ, (2) các yếu tố ảnh hưởng và (3) các biện pháp giúp nâng cao tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim. Kết quả cho thấy mức độ tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim khoảng 40-80%. Có khoảng 20-64% các trường hợp tái nhập viện vì suy tim có liên quan với việc kém tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Các yếu tố ảnh hưởng gồm 5 nhóm: các yếu tố liên quan đến (1) đặc điểm bệnh nhân, (2) tình trạng bệnh lý của bệnh nhân, (3) điều trị, (4) hệ thống chăm sóc sức khoẻ và (5) kinh tế xã hội. Biện pháp giáo dục bệnh nhân về các thuốc điều trị được Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ và Trường Môn Tim Mạch Hoa Kỳ (AHA/ACC) khuyến cáo. Nhìn chung, các biện pháp can thiệp giúp nâng cao tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim, tuy nhiên hiệu quả không cao

pdf 10 trang phuongnguyen 100
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan về tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan về tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim

Tổng quan về tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201714
Tổng quan về tuân thủ điều trị
ở bệnh nhân suy tim
Nguyễn Thắng 
Bộ Môn Dược Lý – Dược Lâm Sàng, Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ
Khoa Dược, Đại Học Groningen, Hà Lan
TÓM TẮT
Khoảng 50% bệnh nhân được chẩn đoán suy 
tim sẽ tử vong trong vòng 5 năm, 25% tái nhập viện 
trong 30 ngày sau xuất viện. Kém tuân thủ điều trị ở 
các bệnh nhân suy tim làm tăng nguy cơ tử vong, tái 
nhập viện và chi phí chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, 
chỉ có 50% bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính tuân 
thủ điều trị đầy đủ. Trong phạm vi bài tổng quan 
này, chúng tôi tóm tắt: (1) thực trạng và ảnh hưởng 
của tuân thủ, (2) các yếu tố ảnh hưởng và (3) các 
biện pháp giúp nâng cao tuân thủ điều trị ở bệnh 
nhân suy tim. Kết quả cho thấy mức độ tuân thủ 
điều trị ở bệnh nhân suy tim khoảng 40-80%. Có 
khoảng 20-64% các trường hợp tái nhập viện vì suy 
tim có liên quan với việc kém tuân thủ điều trị của 
bệnh nhân. Các yếu tố ảnh hưởng gồm 5 nhóm: các 
yếu tố liên quan đến (1) đặc điểm bệnh nhân, (2) 
tình trạng bệnh lý của bệnh nhân, (3) điều trị, (4) 
hệ thống chăm sóc sức khoẻ và (5) kinh tế xã hội. 
Biện pháp giáo dục bệnh nhân về các thuốc điều trị 
được Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ và Trường Môn 
Tim Mạch Hoa Kỳ (AHA/ACC) khuyến cáo. Nhìn 
chung, các biện pháp can thiệp giúp nâng cao tuân 
thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim, tuy nhiên hiệu quả 
không cao. Hiệu quả của các biện pháp can thiệp 
còn phụ thuộc nhiều vào nhóm bệnh nhân có các 
đặc điểm khác nhau về tuổi, đặc điểm văn hoá và 
vùng miền sinh sống... Những khác biệt này cần 
được đánh giá ở những nghiên cứu tiếp theo.
Từ khoá: Suy tim, tuân thủ điều trị, yếu tố ảnh 
hưởng, biện pháp can thiệp
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là một trong những nguyên nhân quan 
trọng làm tăng gánh nặng bệnh tật và tử vong cũng 
như nguy cơ tái nhập viện. Số lượng bệnh nhân mắc 
suy tim trên toàn thế giới khoảng 23 triệu người [1]. 
Tuy tỷ lệ bệnh nhân sống sót sau chẩn đoán suy tim 
được cải thiện trong các thập kỷ gần đây nhưng tỷ lệ 
tử vong và tái nhập viện vẫn còn cao; khoảng 50% 
bệnh nhân được chẩn đoán suy tim sẽ tử vong trong 
vòng 5 năm [2]; khoảng 25% bệnh nhân suy tim tái 
nhập viện trong 30 ngày sau xuất viện [3]. Để kiểm 
soát suy tim cần chú ý đến nhiều mặt như theo dõi 
sát khẩu phần ăn, hoạt động thể lực và các thuốc 
điều trị. Hiệp Hội Tim mạch học châu Âu, Hiệp 
Hội Tim mạch Hoa Kỳ/Trường Môn Tim mạch 
Hoa Kỳ, Hiệp Hội Suy tim Hoa Kỳ cũng như Hội 
Tim mạch học Việt Nam đều khuyến cáo các chiến 
lược điều trị dùng thuốc và không dùng thuốc cho 
bệnh nhân suy tim. Thuốc điều trị là phần không 
thể thiếu giúp bệnh nhân suy tim kiểm soát được 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 15
triệu chứng và ngăn chặn tiến triển bệnh [3,4]. Vấn 
đề kém tuân thủ điều trị ở các bệnh nhân suy tim 
góp phần làm tăng nguy cơ tử vong, tái nhập viện và 
chi phí chăm sóc sức khoẻ [5]. Tuy nhiên, để tuân 
thủ tốt trong điều trị suy tim lại là thách thức không 
nhỏ cho bệnh nhân, người nhà bệnh nhân và cả cán 
bộ y tế. Trong phạm vi bài tổng quan này, chúng tôi 
tóm tắt: (1) thực trạng và ảnh hưởng của tuân thủ, 
(2) các yếu tố ảnh hưởng và (3) các biện pháp giúp 
nâng cao tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim.
NỘI DUNG
Thực trạng và ảnh hưởng của tuân thủ điều trị ở 
bệnh nhân suy tim
Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization, 
WHO) định nghĩa "tuân thủ" (adherence) chỉ mức 
độ hành vi của con người (bao gồm việc uống 
thuốc) thực hiện đúng với lời khuyên của cán bộ y 
tế. Trong đó, thuật ngữ “tuân thủ điều trị" (adherence 
to medication hay medication adherence) được định 
nghĩa là quá trình bệnh nhân sử dụng thuốc đúng với 
chỉ định của bác sĩ dựa trên đơn thuốc. Quá trình 
này bao gồm: (1) sự khởi đầu điều trị (initiation): 
bắt đầu từ lúc bệnh nhân sử dụng liều đầu tiên của 
đơn thuốc; (2) sự thực hiện theo các hướng dẫn 
điều trị (implementation): tiếp theo bằng hành động 
bệnh nhân tuân theo các hướng dẫn (như liều dùng, 
thời điểm dùng...) trong khoảng thời gian từ liều 
đầu tiên đến liều cuối cùng; (3) sự ngưng điều trị 
(discontinuation): kết thúc liều cuối cùng mà không 
có liều nào của các thuốc được kê được bệnh nhân 
sử dụng sau đó [6].
Ở bệnh nhân suy tim, mức độ tuân thủ điều trị 
khoảng 40-80%. Sự dao động này là do nhiều yếu 
tố khác nhau có thể ảnh hưởng đến nhóm dân số 
nghiên cứu cũng như các sai khác có thể gặp do 
biện pháp đo lường tuân thủ. Nhiều nghiên cứu chỉ 
ra khoảng 20-64% các trường hợp tái nhập viện ở 
bệnh nhân suy tim có liên quan với việc kém tuân 
thủ điều trị. Một nghiên cứu theo dõi bệnh nhân 
trong 6 năm cho thấy trong số các trường hợp tái 
nhập viện, số bệnh nhân kém tuân thủ cao gấp 
2,5 lần so với số bệnh nhân tuân thủ điều trị [3]. 
Roebuck và cộng sự (2011) cũng chỉ ra các bệnh 
nhân suy tim có số ngày nằm viện hàng năm ít hơn 
6 ngày khi so sánh nhóm tuân thủ với nhóm kém 
tuân thủ [7]. Ngoài ra, hậu quả của không tuân thủ 
điều trị cũng có thể ảnh hưởng đến chi phí chăm 
sóc sức khoẻ. Trong khi chi phí chăm sóc sức khoẻ 
cho bệnh nhân suy tim thường ở mức cao, ước tính 
tuân thủ điều trị giúp giảm chi phí trung bình hàng 
năm cho mỗi bệnh nhân suy tim khoảng 8.900 đô 
la Mỹ [7]. 
Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị ở 
bệnh nhân suy tim
Có 5 nhóm yếu tố có thể ảnh hưởng đến tuân 
thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim: (1) các yếu tố liên 
quan đến đặc điểm bệnh nhân, (2) các yếu tố liên 
quan đến tình trạng bệnh lý của bệnh nhân, (3) 
các yếu tố liên quan đến điều trị, (4) các yếu tố liên 
quan đến hệ thống chăm sóc sức khoẻ, và (5) các 
yếu tố kinh tế xã hội (Hình 1) [3,8]. 
Hình 1. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến tuân thủ điều 
trị ở bệnh nhân suy tim
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201716
Các yếu tố liên quan đến đặc điểm bệnh nhân
Nhiều tài liệu về tuân thủ điều trị ở bệnh nhân 
suy tim tập trung vào các yếu tố liên quan đến đặc 
điểm của bệnh nhân. Đặc biệt, tuổi và giới là hai yếu 
tố được nhiều nghiên cứu khảo sát, tuy nhiên khả 
năng dự đoán tuân thủ điều trị của hai yếu tố này 
không nhất quán giữa các nghiên cứu. Trong bài 
tổng quan hệ thống của Oosterom-Calo và cộng 
sự (2013), số lượng các nghiên cứu chỉ ra tuổi là 
một yếu tố giúp xác định tuân thủ điều trị lại tương 
đương với các nghiên cứu kết luận không có mối 
liên quan giữa tuổi với tuân thủ. Ở nhóm các nghiên 
cứu xác định có mối liên quan cho thấy bệnh nhân 
có tuổi càng cao thì tuân thủ điều trị càng cao [4]. 
Kiến thức của bệnh nhân cũng có thể ảnh hưởng 
đến tuân thủ điều trị. Nghiên cứu của Clark và cộng 
sự (2009) đã chứng minh bệnh nhân suy tim có 
kiến thức kém về điều trị bằng thuốc và tiến triển 
của bệnh có nguy cơ tử vong cao [9]. Nhiều nghiên 
cứu cho thấy bệnh nhân suy tim có kiến thức về việc 
điều trị của họ còn thấp. Một số nghiên cứu cho 
thấy sau xuất viện có 45% bệnh nhân không biết tên, 
50% không biết liều lượng, 64% không biết số lần 
sử dụng của các thuốc được chỉ định cho họ và có 
đến 82% đang dùng các thuốc không được chỉ định 
[3]. Do thực chất việc điều trị suy tim khá phức tạp, 
bệnh nhân có kiến thức tốt sẽ giúp tối ưu việc tuân 
thủ điều trị. Tuy nhiên, kết quả từ hai bài tổng quan 
hệ thống không tìm thấy được ảnh hưởng có ý nghĩa 
của mức kiến thức đến mức tuân thủ điều trị của 
bệnh nhân suy tim [3,4].
Một số nghiên cứu cho thấy bệnh nhân dân tộc 
thiểu số mắc suy tim thường kém tuân thủ điều trị. 
Tuy nhiên, sự kém tuân thủ này lại không có ý nghĩa 
ở một số nghiên cứu khác [3].
Các yếu tố liên quan đến tình trạng bệnh lý của 
bệnh nhân
Kết quả thu được không nhất quán ở các nghiên 
cứu khảo sát ảnh hưởng của số bệnh lý mắc kèm 
đến tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim. Một số 
nghiên cứu cho thấy bệnh nhân càng kém tuân thủ 
điều trị khi có số bệnh lý mắc kèm càng nhiều; một 
số nghiên cứu khác lại cho kết quả hoàn toàn ngược 
lại. Dựa trên các dữ liệu đã được công bố, chúng ta 
vẫn chưa xác định được mối liên quan giữa số lượng 
bệnh mắc kèm và mức độ tuân thủ điều trị ở bệnh 
nhân suy tim [3]. 
Ngoài ra, các trở ngại về tâm lý cũng là rào cản 
cho việc tuân thủ. Ở bệnh nhân suy tim, tỷ lệ có các 
biểu hiệu trầm cảm là 10% ở bệnh nhân ngoại trú và 
50% ở bệnh nhân nội trú. Các bệnh nhân suy tim có 
các biểu hiệu trầm cảm có khả năng kém tuân thủ 
điều trị cao gấp 3 lần so với các bệnh nhân không có 
các biểu hiện trầm cảm [3].
Các yếu tố liên quan đến điều trị
Nhiều yếu tố liên quan đến điều trị được xác 
định có ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị ở bệnh 
nhân suy tim. Các yếu tố này rất đa dạng và bao 
gồm: Việc điều trị phức tạp cần có thay đổi lối sống, 
thời gian điều trị kéo dài, trải nghiệm không tốt của 
bệnh nhân với các đợt điều trị trước, cũng như việc 
thay đổi thường xuyên về thuốc và thời gian điều trị 
trước khi có được một liệu pháp mang lại hiệu quả 
tích cực [3]. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy số thuốc và số lần 
dùng thuốc là một rào cản cho việc tuân thủ điều trị. 
Đơn giản hoá liệu trình điều trị như việc chỉ dùng 
thuốc một lần trong ngày có thể là một phương 
pháp hữu hiệu giúp cải thiện tình trạng kém tuân 
thủ ở các bệnh nhân suy tim và mắc các bệnh mạn 
tính khác [3]. Phân tích gộp của Bangalore và cộng 
sự (2007) cho thấy việc sử dụng dạng viên kết hợp 
2 hay nhiều thuốc cũng giúp giảm tỷ lệ không tuân 
thủ điều trị [10]. Nghiên cứu của Wu và cộng sự 
(2008) cũng cho thấy việc gặp các khó khăn với liệu 
trình điều trị là một nguyên nhân quan trọng dẫn 
đến kém tuân thủ ở bệnh nhân suy tim. Các khó 
khăn thường được báo cáo là viên thuốc lớn gây khó 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 17
nuốt, bất tiện khi phải đi tiểu nhiều lần vì tác dụng 
của thuốc lợi tiểu và việc phải sử dụng một số lượng 
lớn thuốc mỗi ngày [11]. 
Hơn nữa, ở bệnh nhân suy tim, việc tuân thủ 
điều trị không chỉ với việc dùng thuốc mà còn với 
biện pháp điều trị không bằng thuốc. Các biện 
pháp thay đổi lối sống như giảm lượng muối và 
nước, tránh rượu và thuốc lá, tập thể dục thường 
xuyên và kiểm soát cân nặng hàng ngày cũng là 
những việc không kém phần quan trọng mà bệnh 
nhân suy tim cần tuân thủ [12]. Điều này càng làm 
tăng thêm sức ép cho bệnh nhân suy tim trong việc 
tuân thủ điều trị.
Các yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức 
khoẻ
Các yếu tố liên quan đến hệ thống chăm sóc sức 
khoẻ được xác định có ảnh hưởng đến tuân thủ điều 
trị ở bệnh nhân suy tim. Các yếu tố này bao gồm: 
mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân, việc chi trả 
cho bệnh nhân, việc sẵn có của các thuốc điều trị, 
việc tập huấn cán bộ y tế trong chăm sóc cho bệnh 
nhân suy tim và thời gian bệnh nhân có thể trao đổi 
với cán bác sĩ hoặc cán bộ y tế về tình trạng bệnh và 
thuốc điều trị của họ [3]. 
Mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân càng tốt 
thì càng giúp cải thiện việc tuân thủ điều trị của 
bệnh nhân và điều này được chứng minh trên nhiều 
nhóm bệnh mạn tính khác nhau. Ảnh hưởng này 
cũng được khẳng định trong nghiên cứu dựa trên 
các cuộc phỏng vấn sâu ở bệnh nhân suy tim để 
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trị 
[3]. Tuy nhiên, nghiên cứu của Horowitz và cộng 
sự (2004) đã cho thấy có một số trở ngại cho việc 
phát triển mối quan hệ này như bệnh nhân thiếu 
kiến thức trong nhận biết triệu chứng và việc kiểm 
soát tình trạng bệnh và bệnh nhân khó liên hệ được 
với bác sĩ [13].
Các yếu tố kinh tế xã hội
Chi phí điều trị cao được nhận thấy là một yếu 
tố cản trở việc tuân thủ. Một nghiên cứu cho thấy 
khi chi phí cho điều trị vượt quá mức chi trả của bảo 
hiểm y tế thì có đến 42% bệnh nhân đã không mua 
các thuốc trong đơn. Khi số tiền tự chi trả cho điều 
trị càng tăng thì khả năng không tuân thủ điều trị 
càng tăng và có kết cục lâm sàng càng xấu [3]. 
Bên cạnh đó, việc hỗ trợ của xã hội cũng ảnh 
hưởng đến tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim. 
Các nghiên cứu cho thấy khi bệnh nhân nghĩ họ 
nhận được đầy đủ sự hỗ trợ từ xã hội sẽ càng tuân 
thủ điều trị hơn. Bệnh nhân thường cho biết họ cần 
được hỗ trợ từ mọi người xung quanh cả về hoạt 
động thực tiễn và sự động viên chia sẻ cảm xúc để 
giúp họ sử dụng thuốc [3]. 
Các phương pháp giúp nâng cao tuân thủ điều trị ở 
bệnh nhân suy tim
Có nhiều phương pháp giúp nâng cao tuân thủ 
điều trị ở bệnh nhân suy tim. Các phương pháp này 
thường được áp dụng cho cả bệnh nhân nội trú và 
ngoại trú. 
Phương pháp giáo dục bệnh nhân về thuốc điều 
trị suy tim được Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ và 
Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ khuyến cáo [14]. 
Các buổi giáo dục bởi điều dưỡng trước khi xuất 
viện ở bệnh nhân suy tim cũng chứng hiệu quả giảm 
tỷ lệ tái nhập viện, số ngày nằm viện và chi phí điều 
trị [15-17]. Đối với bệnh nhân ngoại trú, việc tư vấn 
qua điện thoại cũng giúp giảm tỷ lệ tái nhập viện 
và chi phí điều trị cho bệnh nhân suy tim [18,19]. 
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có 
nhóm chứng với quy mô lớn áp dụng biện pháp 
can thiệp tư vấn qua điện thoại ở bệnh nhân suy tim 
cũng cho kết quả cải thiện tuân thủ điều trị ở cả hai 
mốc thời gian theo dõi bệnh nhân là 16 tháng và 3 
năm [20]. 
Dựa trên khả năng ảnh hưởng của việc tự chi 
trả đến tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim, một 
nghiên cứu đã áp dụng biện pháp can thiệp bằng 
cách hỗ trợ một phần chi phí điều trị cho bệnh nhân 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201718
mắc một số bệnh như đái tháo đường, nhồi máu cơ 
tim và hen suyễn đã mang lại hiệu quả cải thiện tình 
trạng tuân thủ điều trị của bệnh nhân nhưng vẫn 
không làm tăng thêm tổng chi phí điều trị [21]. 
Bài tổng quan hệ thống-phân tích gộp của Ruppar 
và cộng sự (2015) đã tóm lược 29 nghiên cứu áp 
dụng các biện pháp can thiệp khác nhau giúp nâng 
cao tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim (Bảng 1). 
Trong đó, 18 nghiên cứu ở Bắc Mỹ, 7 ở Châu Âu 
và 4 ở Châu Á. Hầu hết các thử nghiệm này đều áp 
dụng biện pháp giáo dục bệnh nhân về thuốc điều 
trị và đặc điểm bệnh suy tim. Các biện pháp can 
thiệp cũng cho thấy hiệu quả giúp nâng cao tuân 
thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim (Hình 2) [22]. 
Bảng 1. Các nghiên cứu can thiệp nâng cao tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim
TT
Tác giả 
(năm)
Vùng 
nghiên 
cứu
Thời 
gian 
nghiên 
cứu
Biện pháp can thiệp
Biện pháp 
đánh giá tuân 
thủ
1
Antonicelli 
(2010)
Châu Âu 12 tháng
Gọi điện cho bệnh nhân mỗi tuần để đánh giá tuân 
thủ và triệu chứng bệnh, đồng thời điều chỉnh việc 
điều trị khi cần.
Gọi điện thoại 
phỏng vấn bằng 
bộ câu hỏi.
2
Bisharat 
(2012)
Châu Á 12 tháng
Tư vấn cho bệnh nhân bởi điều dưỡng (trước xuất 
viện) và dược sĩ (sau xuất viện).
Đánh giá dựa 
trên số liệu từ 
nhà thuốc.
3
Bouvy
(2003)
Châu Âu 6 tháng
Dược sĩ tư vấn: sử dụng thuốc, lý do kém tuân thủ, 
khuyến khích bệnh nhân tuân thủ và liên hệ theo 
dõi bệnh nhân mỗi tháng.
Theo dõi điều 
trị bằng điện 
tử (dùng bộ vi 
xử lý gắn với lọ 
thuốc).
4
Dawson 
(1998)
Bắc Mỹ 1 tháng
Điều dưỡng giáo dục bệnh nhân về đặc điểm sinh 
lý bệnh của suy tim, tác dụng và tác dụng phụ của 
thuốc, chế độ ăn uống và hoạt động thể lực và kiểm 
soát triệu chứng bệnh.
Gọi điện thoại 
phỏng vấn 
bằng bộ
câu hỏi.
5
Falces
(2008)
Châu Âu 12 tháng
Giáo dục qua điện thoại về suy tim, thuốc và chế độ 
ăn uống .
Nghiên cứu 
viên đếm thuốc.
6
Goodyer 
(1995)
Châu Âu 3 tháng Dược sĩ tư vấn sử dụng thuốc và lịch dùng thuốc.
Nghiên cứu 
viên đếm thuốc.
7
Gwadry
Sridhar 
(2005)
Bắc Mỹ 12 tháng
Giáo dục bởi điều dưỡng và dược sĩ về tuân thủ điều 
trị, ăn uống, lối sống dựa trên các tờ thông tin và 
video.
Đánh giá dựa 
trên số liệu từ 
nhà thuốc.
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 19
8
Jerant 
(2003)
Bắc Mỹ 2 tháng
Nhóm can thiệp A: Liên lạc với bệnh nhân thông 
qua các cuộc gọi video. 
Nhóm can thiệp B: Liên lạc qua điện thoại bởi điều 
dưỡng.
Tự báo cáo.
9
Laramee 
(2003)
Bắc Mỹ 3 tháng
Giáo dục bệnh nhân và người nhà bệnh nhân lúc 
nằm viện; điện thoại theo dõi bệnh nhân 12 tuần 
sau; điều chỉnh thuốc điều trị suy tim theo các 
hướng dẫn điều trị.
Gọi điện thoại 
phỏng vấn 
bằng bộ
câu hỏi.
10
Lopez
Cabezas 
(2006)
Châu Âu 12 tháng
Giáo dục về suy tim, ăn uống, thuốc và tuân thủ 
điều trị; gọi điện theo dõi sau đó.
Tự báo cáo.
11
Murray 
(2007)
Bắc Mỹ 12 tháng
Dược sĩ giáo dục bệnh nhân về thuốc, cung cấp 
công cụ hỗ trợ kiến thức sức khoẻ, lịch dùng thuốc, 
tuân thủ điều trị và kiểm soát cân nặng.
Theo dõi điều 
trị bằng điện tử.
12
Nimpitakpong 
(2002)
Châu Á 11 ngày
Nhóm can thiệp A: Điều dưỡng tư vấn lúc xuất viện 
và các tài liệu giáo dục và hỗ trợ bệnh nhân; dược sĩ 
tư vấn.
Nhóm can thiệp B: Tất cả nội dung can thiệp ở 
nhóm A kết hợp với theo dõi bệnh nhân tại nhà để 
quản lý, giải quyết các khó khăn và khuyến khích 
bệnh nhân tuân thủ điều trị.
Phỏng vấn trực 
tiếp bệnh nhân 
bằng bộ
câu hỏi.
13
Nucifora 
(2006)
Châu Âu 6 tháng
Điều dưỡng có chuyên môn về tim mạch giáo dục 
bệnh nhân về bệnh và điều trị suy tim; điện thoại 
theo dõi sau đó; đánh giá tuân thủ điều trị và triệu 
chứng.
Không được 
báo cáo rõ.
14
Powell 
(2010)
Bắc Mỹ 24 tháng
Tư vấn và huấn luyện bệnh nhân các kĩ năng về tự 
kiểm soát bệnh.
Theo dõi điều 
trị bằng điện tử.
15
Rich 
(1996)
Bắc Mỹ 1 tháng
Điều dưỡng giáo dục bệnh nhân trước xuất viện về 
suy tim, ăn uống, và dịch vụ xã hội; đồng thời bác 
sĩ tim mạch - lão khoa cũng kiểm tra các thuốc của 
bệnh nhân; điều dưỡng theo dõi sau xuất viện.
Nghiên cứu 
viên đếm 
thuốc.
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201720
16
Ringer
 (2001)
Bắc Mỹ 15 tháng
Dược sĩ được huấn luyện để tư vấn bệnh nhân về 
thuốc. 
Đánh giá dựa 
trên số liệu từ 
nhà thuốc.
17
Sadik 
(2005)
Châu Á
12 tháng
Đơn giản hoá phác đồ điều trị khi có thể; dược sĩ 
giáo dục bệnh nhân về suy tim, thuốc và kiểm soát 
triệu chứng; tự kiểm soát triệu chứng suy tim và 
tuân thủ điều trị.
Tự báo cáo.
18
Tierney 
(2003)
Bắc Mỹ 12 tháng
Nhóm can thiệp A: Các đề xuất chăm sóc theo 
hướng dẫn điều trị tự động được máy tính thông 
báo đến bác sĩ điều trị.
Nhóm can thiệp B: Dược sĩ kiểm tra các đề xuất 
chăm sóc theo hướng dẫn điều trị.
Nhóm can thiệp C: Bao gồm nội dung của cả A và B.
Kết hợp nhiều 
phương pháp 
đánh giá.
19
Tsuyuki 
(2004) Bắc Mỹ 6 tháng
Giáo dục bệnh nhân về bệnh và thuốc điều trị suy 
tim, các công cụ hỗ trợ tuân thủ, tài liệu và lịch theo 
dõi bệnh nhân qua điện thoại sau khi xuất viện.
Đánh giá dựa 
trên số liệu từ 
nhà thuốc.
20
Udelson 
(2009)
Bắc Mỹ 5 tháng Thuốc điều trị 1 lần/ngày so với 2 lần/ngày.
Theo dõi điều 
trị bằng điện tử.
21
Varma 
(1999)
Châu Âu
12 tháng
Dược sĩ giáo dục bệnh nhân về bệnh và thuốc điều 
trị suy tim và cách kiểm soát triệu chứng và tự quản 
lý nhật ký dùng thuốc.
Tự báo cáo.
22
Wakefield 
(2009)
Bắc Mỹ 6 tháng
Nhóm can thiệp A: Điều dưỡng gọi điện theo dõi 
bệnh nhân sau xuất viện để kiểm soát triệu chứng và 
lập kế hoạch điều trị.
Nhóm can thiệp B: Như nhóm A nhưng sử dụng 
cuộc gọi video thay cho gọi điện thoại.
Tự báo cáo.
23
Wu 
(2012)
Bắc Mỹ 9 tháng
Nhóm can thiệp A: Điều dưỡng giáo dục bệnh 
nhân về triệu chứng suy tim, tuân thủ điều trị, niềm 
tin/nhận thức về thuốc; hỗ trợ cải thiện khả năng 
kiểm soát hành vi sử dụng thuốc; nhận kết quả phản 
hồi từ theo dõi điều trị.
Nhóm can thiệp B: Như nhóm A nhưng không 
nhận được kết quả phản hồi về tuân thủ.
Theo dõi điều 
trị bằng điện tử.
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 21
Hình 2. Hiệu quả của biện pháp can thiệp trên tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim
KẾT LUẬN
Mặc dù, nhiều thành tựu đạt được trong việc 
kiểm soát bệnh suy tim trong những thập kỷ qua, 
tỷ lệ hiện mắc vẫn còn cao và tạo nên gánh nặng 
kinh tế đáng kể. Bên cạnh đó, kém tuân thủ điều 
trị cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tăng cao 
tỷ lệ tái nhập viện và tử vong ở bệnh nhân suy tim. 
Tuy nhiên, đây được xác định là một yếu tố có thể 
cải thiện được bằng cách xác định và loại bỏ các 
rào cản ảnh hưởng tiêu cực đến tuân thủ điều trị. 
Điều này đã được chứng minh giúp nâng cao tỷ 
lệ tuân thủ, giúp giảm số ngày nằm viện, tỷ lệ tái 
nhập viện và chi phí điều trị ở bệnh nhân suy tim. 
Các rào cản ảnh hưởng đến tuân thủ tương đối 
phức tạp. Các biện pháp can thiệp giúp nâng cao 
tuân thủ điều trị ở bệnh nhân suy tim cần xem xét 
kỹ lưỡng các yếu tố ảnh hưởng này trên thực tế áp 
dụng. Nhìn chung, các biện pháp can thiệp được 
nghiên cứu có thể giúp nâng cao tuân thủ điều trị 
ở bệnh nhân suy tim, tuy nhiên hiệu quả không 
cao. Hiệu quả của các biện pháp can thiệp còn 
phụ thuộc nhiều vào nhóm bệnh nhân có các đặc 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.201722
điểm khác nhau về tuổi, đặc điểm văn hoá và vùng 
miền sinh sống... Những khác biệt này cũng như 
khả năng ảnh hưởng đến hiệu quả của các biện 
pháp can thiệp cần được đánh giá ở những nghiên 
cứu tiếp theo. Đồng thời, các biện pháp can thiệp 
nên tập trung chủ yếu vào bệnh nhân hơn là chỉ 
tập trung vào cán bộ y tế để có thể vừa cải thiện 
tuân thủ điều trị và vừa cải thiện tỷ lệ sống còn, tái 
nhập viện cũng như chi phí điều trị ở bệnh nhân 
suy tim.
ABSTRACT
AN OVERVIEW OF MEDICATION ADHERENCE IN PATIENTS WITH HEART FAILURE
The death rate remains high at 50% of patients diagnosed with heart failure dying within five years. 
Nearly 25% of patients discharged with heart failure are readmitted to hospitals within the first 30 days. 
Poor adherence to cardovascular medications is related to increased mortality, hospitalization rates, and 
health care costs. However, approximately 50% of patients are not adherent to their chronic medication 
regimens. In this overview, we, therefore, aimed to summarize (1) medication adherence and magnitude 
of the issue, (2) factors associated with adherence, and (3) strategies for promoting adherence in patients 
with heart failure. The extent to which patients with heart failure are adherent to their medical regimens 
varies considerably with estimates ranging from 40 to 80%. Studies have shown between 20 % and 64 % 
of readmissions for heart failure are related to poor adherence with prescribed medications. There are 
five dimensions of factors associated with medication adherence including (1) patient-related factors, (2) 
condition-related factors, (3) treatment-related factors, (4) health care system-related factors, and (5) 
socioeconomic factors. Education interventions targeted at medications remains a class I indication of the 
American Heart Association and American College of Cardiology (AHA/ACC) management guidelines. 
While the effect of interventions implemented has been significant, it is modest. Such interventions may be 
differentially effective for different patient groups, based on age, culture, and geography. These differences 
should be examined in further studies.
Keywords: Heart failure, medication adherence, associated factors, interventions.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Roger VL. Epidemiology of heart failure. Circ Res. 2013;113: 646-659.
2. Benjamin EJ, Blaha MJ, Chiuve SE, Cushman M, Das SR, Deo R, et al. Heart Disease and Stroke Statistics- 
2017 Update: A Report From the American Heart Association. Circulation. 2017;135: e146-e603.
3. Riles EM, Jain AV, Fendrick AM. Medication adherence and heart failure. Curr Cardiol Rep. 2014;16: 
458-013-0458-z.
4. Oosterom-Calo R, van Ballegooijen AJ, Terwee CB, te Velde SJ, Brouwer IA, Jaarsma T, et 
al. Determinants of adherence to heart failure medication: a systematic literature review. Heart Fail Rev. 
2013;18: 409-427.
5. Fitzgerald AA, Powers JD, Ho PM, Maddox TM, Peterson PN, Allen LA, et al. Impact of medication 
nonadherence on hospitalizations and mortality in heart failure. J Card Fail. 2011;17: 664-669.
6. Vrijens B, De Geest S, Hughes DA, Przemyslaw K, Demonceau J, Ruppar T, et al. A new taxonomy 
CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 80.2017 23
for describing and defining adherence to medications. Br J Clin Pharmacol. 2012;73: 691-705.
7. Roebuck MC, Liberman JN, Gemmill-Toyama M, Brennan TA. Medication adherence leads to lower 
health care use and costs despite increased drug spending. Health Aff (Millwood). 2011;30: 91-99.
8. Wu JR, Moser DK, Chung ML, Lennie TA. Predictors of medication adherence using a multidimensional 
adherence model in patients with heart failure. J Card Fail. 2008;14: 603-614.
9. Clark AM, Freydberg CN, McAlister FA, Tsuyuki RT, Armstrong PW, Strain LA. Patient and informal 
caregivers' knowledge of heart failure: necessary but insufficient for effective self-care. Eur J Heart Fail. 
2009;11: 617-621.
10. Bangalore S, Kamalakkannan G, Parkar S, Messerli FH. Fixed-dose combinations improve medication 
compliance: a meta-analysis. Am J Med. 2007;120: 713-719.
11. Wu JR, Moser DK, Lennie TA, Peden AR, Chen YC, Heo S. Factors influencing medication adherence 
in patients with heart failure. Heart Lung. 2008;37: 8-16, 16.e1.
12. Riegel B, Carlson B. Facilitators and barriers to heart failure self-care. Patient Educ Couns. 2002;46: 
287-295.
13. Horowitz CR, Rein SB, Leventhal H. A story of maladies, misconceptions and mishaps: Effective 
management of heart failure. Soc Sci Med. 2004;58: 631-643.
14. Yancy CW, Jessup M, Bozkurt B, Butler J, Casey DE,Jr, Drazner MH, et al. 2013 ACCF/AHA 
guideline for the management of heart failure: a report of the American College of Cardiology Foundation/
American Heart Association Task Force on Practice Guidelines. J Am Coll Cardiol. 2013;62: e147-239.
15. Anderson C, Deepak BV, Amoateng-Adjepong Y, Zarich S. Benefits of comprehensive inpatient 
education and discharge planning combined with outpatient support in elderly patients with congestive 
heart failure. Congest Heart Fail. 2005;11: 315-321.
16. Koelling TM, Johnson ML, Cody RJ, Aaronson KD. Discharge education improves clinical outcomes 
in patients with chronic heart failure. Circulation. 2005;111: 179-185.
17. Gwadry-Sridhar FH, Arnold JM, Zhang Y, Brown JE, Marchiori G, Guyatt G. Pilot study to determine 
the impact of a multidisciplinary educational intervention in patients hospitalized with heart failure. Am 
Heart J. 2005;150: 982.
18. Jerant AF, Azari R, Nesbitt TS. Reducing the cost of frequent hospital admissions for congestive heart 
failure: a randomized trial of a home telecare intervention. Med Care. 2001;39: 1234-1245.
19. Kornowski R, Zeeli D, Averbuch M, Finkelstein A, Schwartz D, Moshkovitz M, et al. Intensive 
home-care surveillance prevents hospitalization and improves morbidity rates among elderly patients with 
severe congestive heart failure. Am Heart J. 1995;129: 762-766.
20. Ferrante D, Varini S, Macchia A, Soifer S, Badra R, Nul D, et al. Long-term results after a telephone 
intervention in chronic heart failure: DIAL (Randomized Trial of Phone Intervention in Chronic Heart 
Failure) follow-up. J Am Coll Cardiol. 2010;56: 372-378.
21. Lee JL, Maciejewski M, Raju S, Shrank WH, Choudhry NK. Value-based insurance design: Quality 
improvement but no cost savings. Health Aff (Millwood). 2013;32: 1251-1257.
22. Ruppar TM, Delgado JM, Temple J. Medication adherence interventions for heart failure patients: A 
meta-analysis. Eur J Cardiovasc Nurs. 2015;14: 395-404.

File đính kèm:

  • pdftong_quan_ve_tuan_thu_dieu_tri_o_benh_nhan_suy_tim.pdf