Tổng quan: Vai trò CT ngực trong phân loại kiểu hình COPD

CT ngực được dùng để đánh giá những bất thường cấu trúc phổi trong COPD. Những bất

thường này bao gồm khí phế thũng, dầy thành phế quản, giãn phế quản, .v.v. Theo truyền

thống, bác sĩ quan sát bằng mắt thường để nhận dạng và ước chừng mức độ bất thường,

gọi là CT định tính. Tuy nhiên, cách đánh giá truyền thống này không thống nhất giữa các

bác sĩ hoặc giữa các lần khác nhau của cùng một bác sĩ. CT định lượng, phương pháp đánh

giá CT dựa vào phần mềm phân tích hình ảnh CT, được phát triển để bổ sung cách đánh

giá truyền thống. CT định lượng có thể đo lường những bất thường cấu trúc phổi một cách

khách quan và có thể dùng để phân loại kiểu hình COPD. Bài tổng quan này sẽ trình bày

vai trò của CT ngực trong việc đánh giá COPD một cách toàn diện bằng cách phân loại kiểu

hình dựa trên bất thường cấu trúc của phổi.

pdf 9 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan: Vai trò CT ngực trong phân loại kiểu hình COPD", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan: Vai trò CT ngực trong phân loại kiểu hình COPD

Tổng quan: Vai trò  CT ngực trong phân loại kiểu hình COPD
2
Hô hấp số 14/2018
1. GIỚI THIỆU
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) được 
đặc trưng bởi giới hạn luồng khí thở không 
hồi phục hoàn toàn (1), là biểu hiện của hẹp 
đường dẫn khí do tái cấu trúc đường dẫn khí 
(gây dầy thành phế quản) và phá hủy nhu mô 
phổi (gây khí phế thũng rồi gây mất lực kéo 
căng thành phế quản) (2). Những bất thường 
về cấu trúc này ở bệnh nhân COPD có thể 
được lượng giá bởi hệ thống cho điểm bằng 
mắt thường (gọi là CT định tính) hoặc bằng 
phần mềm phân tích hình ảnh CT (gọi là CT 
định lượng). CT định lượng giúp việc so sánh 
mức độ bất thường về cấu trúc phổi theo thời 
gian hoặc giữa các bệnh nhân COPD được 
thuận tiện và đáng tin cậy hơn. Bài tổng 
quan này sẽ trình bày vai trò của CT ngực 
Tổng quan
VAI TRÒ CT NGỰC TRONG PHÂN LOẠI KIỂU HÌNH COPD
TS. BS. NGUYỄN VĂN THỌ
Bộ môn Lao và Bệnh phổi, Đại Học Y Dược TP.HCM
Tóm tắt
CT ngực được dùng để đánh giá những bất thường cấu trúc phổi trong COPD. Những bất 
thường này bao gồm khí phế thũng, dầy thành phế quản, giãn phế quản, .v.v. Theo truyền 
thống, bác sĩ quan sát bằng mắt thường để nhận dạng và ước chừng mức độ bất thường, 
gọi là CT định tính. Tuy nhiên, cách đánh giá truyền thống này không thống nhất giữa các 
bác sĩ hoặc giữa các lần khác nhau của cùng một bác sĩ. CT định lượng, phương pháp đánh 
giá CT dựa vào phần mềm phân tích hình ảnh CT, được phát triển để bổ sung cách đánh 
giá truyền thống. CT định lượng có thể đo lường những bất thường cấu trúc phổi một cách 
khách quan và có thể dùng để phân loại kiểu hình COPD. Bài tổng quan này sẽ trình bày 
vai trò của CT ngực trong việc đánh giá COPD một cách toàn diện bằng cách phân loại kiểu 
hình dựa trên bất thường cấu trúc của phổi.
Summary
Computed tomography (CT) has been used to evaluate pulmonary structural changes 
in chronic obstructive pulmonary disease (COPD). These changes include emphysema, 
bronchial wall thickening, bronchiectasis, etc. Traditionally, physicians evaluate these 
changes visually by identifying the abnormalities and estimating the severity, called 
qualitative CT. However, the traditional method is subject to intra-observer and inter-
observer variation. Quantitative CT, a method of CT imaging evaluation based on computer 
analysis programs, has been developed to complement the traditional method. Quantitative 
CT can be used to measure structural changes objectively and to phenotype COPD. This 
review will present the roles of chest CT in comprehensive evaluation of COPD by 
phenotyping COPD based on pulmonary structural changes.
 TỔNG QUAN
3
Hô hấp số 14/2018
trong việc đánh giá toàn diện COPD bằng 
cách phân loại kiểu hình dựa trên bất thường 
cấu trúc của phổi.
2. ĐÁNH GIÁ KHÍ PHẾ THŨNG 
Khí phế thũng (KPT) là tình trạng giãn vĩnh 
viễn phế nang và ống phế nang phía sau tiểu 
phế quản tận đi kèm với phá hủy vách phế 
nang (3). Biểu hiện trên CT là những ổ giảm 
đậm độ có bờ không rõ. Khi đánh giá bằng 
mắt thường, có 3 dạng khí phế thũng gồm 
KPT trung tâm tiểu thùy (TTTT), KPT toàn 
tiểu thùy và KPT cạnh vách (hình 1)(4). 
Hình 1. Các loại khí phế thũng trong COPD. A) Khí 
phế thũng trung tâm tiểu thùy; B) Khí phế thũng toàn 
tiểu thùy; C) Khí phế thũng cạnh vách.
Khi đánh giá bằng mắt thường, mức độ 
khí phế thũng cho một lát cắt được ước lượng 
dựa trên thang điểm sau: 0 nếu KPT < 5%, 1 
nếu từ 5% đến < 25%, 2 nếu từ 25% đến < 
50%, 3 nếu từ 50% đến < 75% và 4 nếu từ 
75% trở lên (5). Trong nhóm KPT trung tâm 
tiểu thùy, mức độ KPT còn được ước lượng 
như sau: Rất nhẹ (trace), ổ KPT TTTT tối 
thiểu chiếm < 0,5% vùng phổi; Nhẹ (mild), 
ổ KPT TTTT rải rác chiếm 0,5-5%; Trung 
bình (moderate), nhiều ổ KPT TTTT có bờ 
rõ chiếm hơn 5%; Lan rộng (confluent), các 
ổ KPT hòa vào nhau gồm nhiều ổ chiếm vài 
tiểu thùy phổi thứ phát nhưng chưa làm biến 
dạng cấu trúc phổi; Tiến triển nặng (advanced 
destructive emphysema), ổ KPT chiếm toàn 
tiểu thùy phổi thứ phát kèm tăng thể tích tiểu 
thùy phổi thứ phát và biến dạng cấu trúc phổi 
(4) (hình 2). Tuy nhiên, cách lượng giá mức độ 
KPT này tốn thời gian và mức độ đồng thuận 
giữa các bác sĩ chỉ ở mức thấp-trung bình (chỉ 
số Kappa dao động từ 0,25-0,63) (6). 
Hình 2. Mức độ khí phế thũng trung tâm tiểu thùy theo CT định tính
Khi định lượng mức độ khí phế thũng 
bằng CT định lượng, phần mềm phân tích 
hình ảnh CT sẽ tính phần trăm diện tích (low 
attenuation area, LAA%) hoặc phần trăm thể 
tích giảm đậm độ (low attenuation volume, 
LAV%) cho từng lát cắt CT (7). Phần mềm 
phân tích CT đo được đậm độ bằng đơn vị 
HU (Hounsfield unit) cho từng đơn vị diện 
tích (pixel) hoặc đơn vị thể tích (voxel) trên 
các lát cắt CT. Mỗi cấu trúc phổi có một 
khoảng HU nhất định (ví dụ nhu mô phổi 
bình thường: -850 đến -200 HU) và nằm ở 
một vị trí nhất định trong phổi. Kết hợp trị số 
HU và vị trí, phần mềm sẽ nhận dạng ra từng 
cấu trúc cụ thể như thành ngực, khí quản, nhu 
mô phổi và mạch máu lớn. Diện tích hoặc thể 
tích của từng cấu trúc phổi được tính bằng 
cách tính tổng các pixel hoặc voxel có đậm 
độ của cấu trúc đó. Khí phế thũng được định 
nghĩa theo phần mềm phân tích CT là các 
pixel hoặc voxel trong nhu mô phổi có đậm 
độ thấp hơn một ngưỡng được quy định trước 
 TỔNG QUAN
4
Hô hấp số 14/2018
(8). Ngưỡng này thay đổi từ –856 HU đến –960 
HU, tùy theo thể tích phổi lúc scan, cường độ 
tia, độ dày lát cắt, thuật toán tái tạo ảnh,  
%LAA (dành cho CT 2 chiều) của một lát cắt 
= 100% x LAA lát cắt/tổng diện tích phổi của 
lát cắt (bao gồm cả phổi bình thường và khí 
phế thũng) (hình 3). %LAV (dành cho CT 3 
chiều) của toàn bộ phổi = 100% x LAV toàn 
bộ phổi/Tổng thể tích toàn bộ phổi. Mức độ 
KPT không chỉ được ước lượng cho toàn bộ 2 
phổi, mà còn được ước lượng cho từng vùng 
của phổi (trên so với dưới) (9), hoặc thậm chí 
cho từng thùy của phổi (10).
Hình 3. Định lượng mức độ khí phế thũng bằng CT 
định lượng. Các ổ khí phế thũng được phần mềm đánh 
dấu bằng các màu khác nhau tùy theo thùy phổi. A) 
Hình lát cắt ngang; (B) Hình lát cắt mặt phẳng trán. Đây 
là hình CT có độ dầy lát cắt 1 mm của bệnh nhân nam 
79 tuổi bị COPD có mức độ tắc nghẽn GOLD III, được 
phân tích bằng phần mềm Pulmonary Workstation 2.0 
(VIDA diagnostics, IA, USA). Ngưỡng đậm độ để xác 
định khí phế thũng là -950 HU. LAV% toàn bộ 2 phổi 
của bệnh nhân này là 15%.
Mức độ KPT đo bằng CT định lượng 
tương quan tốt với mức độ KPT ước lượng 
bằng CT định tính (11) hoặc đo lường bằng giải 
phẫu đại thể và vi thể (12). Mức độ KPT ở nam 
cao hơn so với nữ (13), tương quan thuận với 
độ tuổi và số gói-năm hút thuốc lá (13) và tương 
quan nghịch với chỉ số khối cơ thể (BMI) 
(14). Ở bệnh nhân COPD, LAA% tương quan 
thuận với mức độ khó thở (15) và khả năng 
khuếch tán khí CO qua màng phế nang mao 
mạch (D
LCO
), nhưng tương quan nghịch với 
FEV
1 
và FEV
1
/FVC (16). Điều này chứng tỏ 
rằng KPT góp phần vào việc giảm khả năng 
khuếch tán của màng phế nang mao mạch và 
gây giới hạn luồng khí thở. Một nghiên cứu 
gần đây ở bệnh nhân COPD tại Việt Nam và 
Nhật Bản cho thấy, KPT đóng góp vào việc 
giới hạn luồng khí thở nhiều gấp 2-3 lần tái 
cấu trúc đường dẫn khí (17).
3. ĐÁNH GIÁ KÍCH CỠ PHẾ QUẢN 
Định lượng kích cỡ phế quản trong COPD 
nhằm mục đích đánh giá mức độ dầy thành và 
hẹp lòng phế quản. Phần mềm phân tích CT 
có các thuật toán để nhận diện lòng phế quản 
(đậm độ lòng phế quản dao động từ –500 HU 
đến –577 HU), bờ trong và bờ ngoài thành 
phế quản (18). Bằng cách này, phần mềm phân 
tích hình ảnh CT có thể đo được đường kính 
trong và đường kính ngoài phế quản, chu vi 
lòng phế quản (inner perimeter, Pi), diện tích 
lòng phế quản (airway internal area, Ai) và 
diện tích thành phế quản (airway wall area: 
Aaw) trên các lát cắt CT (hình 4). Phần mềm 
có thể tính toán các chỉ số khác của kích cỡ 
phế quản bao gồm diện tích toàn bộ phế quản 
(airway outer area, Ao; Ao = Ai + Aaw), phần 
trăm diện tích thành phế quản [percentage of 
wall area, WA%; WA% = (Aaw/Ao)x100] 
và Pi10 (căn bậc 2 của diện tích thành phế 
quản của phế quản lý thuyết có chu vi trong 
10mm, square root of airway wall area of the 
hypothetical airway with an internal perimeter 
of 10 mm). Pi10 được tính từ tất cả các nhánh 
phế quản đo được bằng cách biểu diễn căn 
bậc 2 diện tích thành phế quản theo chu vi 
lòng phế quản (hình 5). Pi10 là số đo có thể so 
sánh được giữa các bệnh nhân vì điều chỉnh 
cho kích thước phế quản (19). Các phần mềm 
định lượng kích cỡ phế quản đã được kiểm 
chứng bằng mô hình phổi, phổi heo hoặc phổi 
cừu, thậm chí phổi người do phẫu thuật cắt 
phổi (20). Tuy nhiên, phương pháp định lượng 
kích cỡ phế quản vẫn chưa được thống nhất 
giống như phương pháp định lượng khí phế 
thũng, khả năng định lượng kích cỡ phế quản 
 TỔNG QUAN
5
Hô hấp số 14/2018
vẫn còn dừng lại ở các phế quản lớn, chưa tới 
các phế quản nhỏ có đường kính lòng < 2mm 
do độ phân giải của CT có giới hạn.
Hình 4. Định lượng kích cỡ phế quản bằng CT định 
lượng. A) Cây khí phế quản được tái tạo với mũi tên 
chỉ vị trí đo kích cỡ phế quản; (B) Lát cắt ngang tại vị 
trí được chỉ ở hình A với lòng phế quản được đánh dấu 
màu nâu và mũi tên chỉ nhánh phế quản được chọn để 
đo kích cỡ; (C) Bờ trong và bờ ngoài thành phế quản 
được phần mềm đánh dấu màu đỏ và màu xanh tương 
ứng. Những hình này được tạo ra từ một bệnh nhân 
COPD 75 tuổi có mức độ tắc nghẽn GOLD IV bằng 
phần mềm Apollo 1.1 (VIDA diagnostics, IA, USA).
Với sự xuất hiện của CT đa lát cắt và kiểu 
chụp xoắn ốc, toàn bộ cây khí phế quản có 
thể được tái tạo bằng cách dùng phần mềm 
phân tích CT 3 chiều. Các phần mềm này có 
thể dùng để đo kích cỡ của gần như tất cả các 
phế quản có thể nhìn thấy được tại những vị 
trí cụ thể, thậm chí những phế quản không 
chạy vuông góc với mặt cắt ngang của CT, 
thường cho đến phế quản thế hệ thứ 6 (21). Sự 
tương quan giữa diện tích thành phế quản lớn 
đo bằng CT định lượng với diện tích thành 
phế quản nhỏ đo bằng mô học (22) ám chỉ rằng 
việc đánh giá các phế quản lớn bằng CT định 
lượng phản ánh được biến đổi mô học của các 
phế quản nhỏ, vị trí bị tắc nghẽn chính trong 
COPD (23). 
WA%, Ai và Pi10 là các số đo kích cỡ 
phế quản thường dùng trong các nghiên cứu 
về COPD. WA% và Pi10 phản ánh tình trạng 
dầy thành phế quản hoặc tái cấu trúc phế quản. 
Trong khi đó, “Ai” phản ánh tình trạng hẹp 
lòng phế quản do dầy thành phế quản, chất 
tiết trong lòng phế quản và/hoặc mất lực kéo 
thành phế quản do hủy vách phế nang trong 
COPD. WA% và Pi10 giảm theo độ tuổi, tăng 
với số gói-năm hút thuốc lá, nam cao hơn nữ 
(13). Ở bệnh nhân COPD, WA% và Pi10 tương 
quan thuận với mức độ khó thở (24) và tương 
quan nghịch với FEV
1 
(19). 
Hình 5. Cách ước tính Pi10 bằng CT định lượng. Phần 
mềm phân tích hình ảnh CT đo chu vi lòng và diện tích 
thành của tất cả các nhánh phế quản có chu vi lòng phế 
quản dao động từ 6-20 mm. Pi10 được tính từ phương 
trình hồi quy tuyến tính của biểu đồ biểu diễn căn bậc 
2 diện tích thành phế quản theo chu vi lòng phế quản.
4. PHÂN LOẠI KIỂU HÌNH COPD DỰA 
VÀO CT NGỰC
Chiến lược toàn cầu về COPD (Global 
initiative for chronic Obstructive Lung 
Disease, GOLD) hiện phân nhóm bệnh nhân 
COPD dựa vào tiền căn đợt cấp trong năm 
qua và mức độ triệu chứng hiện tại để lựa 
chọn thuốc điều trị (1). Cách phân loại này có 
thể gộp những bệnh nhân COPD có những cơ 
chế bệnh sinh khác nhau vào cùng một nhóm 
và có đáp ứng khác nhau với biện pháp điều 
trị. Cách phân loại này không đề cập đến bất 
thường về cấu trúc của phổi, một thành phần 
trong định nghĩa của COPD (1). Bệnh nhân 
COPD trong cùng một phân nhóm ABCD 
nhưng có kiểu bất thường cấu trúc phổi khác 
nhau có thể có diễn tiến khác nhau và cần 
 TỔNG QUAN
6
Hô hấp số 14/2018
liệu pháp điều trị tối ưu khác nhau. Do đó, 
trong quá trình theo dõi và điều trị bệnh nhân 
COPD, nếu bệnh nhân có diễn tiến không 
thuận lợi hoặc đáp ứng không tốt với điều 
trị hiện tại, bác sĩ lâm sàng có thể xem xét 
phân loại kiểu hình COPD dựa vào CT ngực 
để đánh giá bệnh nhân toàn diện hơn và lựa 
chọn các điều trị phù hợp hơn. 
Kiểu hình giãn phế quản:
Bệnh nhân COPD có kiểu hình giãn phế quản 
thường ho khạc đàm nhiều hơn, đợt cấp nhiều 
hơn, chức năng hô hấp xấu hơn và nhiễm trùng 
nhiều hơn so với bệnh nhân COPD không có 
kiểu hình giãn phế quản; thường liên quan 
đến đáp ứng viêm tăng bạch cầu đa nhân 
trung tính. Khi đánh giá bằng mắt thường, 
tiêu chuẩn giãn phế quản ở bệnh nhân COPD 
bao gồm: (1) Tỉ số giữa đường kính lòng phế 
quản và đường kính động mạch phổi đi kèm 
lớn hơn 1; (2) Lòng phế quản không nhỏ dần 
cho một chiều dài ít nhất 2 cm; (3) Thấy được 
lòng phế quản trong vòng 1cm kể từ màng 
phổi (25). Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu 
trước đây đã chẩn đoán giãn phế quản cho 
bệnh nhân COPD chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn 
(1) và thường có khuynh hướng ước lượng 
quá mức kiểu hình giãn phế quản. Một phân 
tích gộp ở 881 bệnh nhân COPD cho thấy tỉ lệ 
có kiểu hình giãn phế quản là 54,3% (26). Tuy 
nhiên, nghiên cứu này không bao gồm 2164 
bệnh nhân COPD thuộc nghiên cứu ECLIPSE 
(the Evaluation of COPD Longitudinally to 
Identify Predictive Surrogate Endpoints). 
Trong nghiên cứu ECLIPSE, tỉ lệ giãn phế 
quản dao động từ 4-9%, COPD càng nặng thì 
tỉ lệ giãn phế quản càng cao (27). 
Tỉ lệ giãn phế quản trong nghiên cứu 
ECLIPSE có thể phản ánh đúng tỉ lệ kiểu 
hình giãn phế quản có ý nghĩa về mặt lâm 
sàng trong số bệnh nhân COPD nói chung. 
Kết quả này được củng cố bằng một nghiên 
cứu gần đây trong số 300 bệnh nhân COPD 
thuộc nghiên cứu COPDGene. Trong nghiên 
cứu này, chỉ có 25 bệnh nhân (chiếm 8%) 
được chẩn đoán có giãn phế quản bằng mắt 
thường. Khi so sánh giữa CT định tính và CT 
định lượng thì tiêu chuẩn chẩn đoán giãn phế 
quản dựa vào tiêu chuẩn (1) phù hợp ở 90% 
bệnh nhân. Nghiên cứu này cũng cho thấy, khi 
dựa vào tiêu chuẩn (1) để chẩn đoán giãn phế 
quản sẽ ước lượng quá mức kiểu hình giãn 
phế quản ở bệnh nhân COPD, nghĩa là nhận 
dạng một nhóm bệnh nhân COPD bị “giãn 
phế quản” giả và không có ý nghĩa về mặt 
lâm sàng. Tỉ số đường kính lòng phế quản/
động mạch phổi >1 ở nhóm bệnh nhân COPD 
này là do động mạch phổi co nhỏ chứ không 
phải do lòng phế quản bị giãn. Nghiên cứu 
này cho thấy, đường kính lòng phế quản của 
bệnh nhân COPD bị “giãn phế quản” và bệnh 
nhân COPD không giãn phế quản không có 
sự khác biệt tại các thế hệ phế quản từ thứ 4 
đến thứ 6. Độ bão hòa oxy tương quan thuận 
với đường kính động mạch phổi, gợi ý động 
mạch phổi co thắt liên quan đến thiếu oxy 
máu (28). 
Khi đánh giá giãn phế quản ở bệnh nhân 
COPD, giãn phế quản dựa vào tiêu chuẩn CT 
có thể thường gặp nhưng giãn phế quản có ý 
nghĩa về mặt lâm sàng có thể thấp hơn. Vậy 
trên lâm sàng, chúng ta phải làm gì với COPD 
+ giãn phế quản trên CT? Nếu bệnh nhân có ho 
khạc đàm mủ và cấy phân lập được vi khuẩn 
gây bệnh, dù có hay không có đợt cấp thường 
xuyên cần chẩn đoán COPD có kiểu hình giãn 
phế quản và điều trị 2 bệnh cùng lúc. Điều trị 
giãn phế quản ở bệnh nhân COPD bao gồm 
hướng dẫn ho khạc đàm chủ động và xem 
xét kháng sinh phòng ngừa. Nếu bệnh nhân 
không có ho khạc đàm mủ, thành phế quản 
không dầy hoặc không có nhiều đợt cấp, “giãn 
 TỔNG QUAN
7
Hô hấp số 14/2018
phế quản” theo tiêu chuẩn CT ngực là do động 
mạch phổi co thắt nên không có ý nghĩa lâm 
sàng và không cần điều trị giãn phế quản. 
Kiểu hình khí phế thũng:
Cách đơn giản nhất để đánh giá kiểu hình 
COPD dựa vào CT ngực là xem bệnh nhân có 
kiểu hình khí phế thũng hay không. CT định 
tính có thể giúp bác sĩ ước lượng mức độ khí 
phế thũng như đã mô tả ở phần trên. Ngoài ra, 
CT định tính có thể phân loại được kiểu khí 
phế thũng trong khi CT định lượng thì không 
(11). Ở Việt Nam, bệnh nhân COPD chủ yếu có 
kiểu khí phế thũng trung tâm tiểu thùy hoặc 
cạnh vách liên quan đến hút thuốc lá, không 
có kiểu khí phế thũng toàn tiểu thùy liên quan 
đến thiếu α1 anti-tripsin.
Bệnh nhân có kiểu hình khí phế thũng 
kém đáp ứng với corticoid hít (ICS) kết 
hợp thuốc kích thích beta 2 tác dụng kéo 
dài (LABA) (29). Những bệnh nhân này nên 
xem xét điều trị bằng thuốc kháng thụ thể 
muscarinic kéo dài (LAMA) và/hoặc LABA 
và phục hồi chức năng phổi. Một nghiên cứu 
gần đây ở 240 bệnh nhân COPD do hút thuốc 
lá tại Việt Nam cho thấy, bệnh nhân có kiểu 
hình khí phế thũng dựa vào CT định lượng có 
tỉ lệ có bạch cầu ái toan/máu ≥3% thấp hơn 
so với bệnh nhân không có kiểu hình khí phế 
thũng (50,7% so với 72,5%; RR 0,70; 95%CI 
0,57-0,86; P=0.0007) (30). Trong khi đó, có 
nhiều bằng chứng cho thấy, bệnh nhân COPD 
có bạch cầu ái toan/máu cao thì có khả năng 
đáp ứng với ICS/LABA tốt hơn giả dược 
hoặc LAMA (31). Điều đó lý giải tại sao bệnh 
nhân có kiểu hình khí phế thũng ít đáp ứng 
với ICS/LABA hơn kiểu hình không khí phế 
thũng. Một nghiên cứu khác cho thấy rằng, 
những bệnh nhân COPD chồng lấp hen có 
LAA% thấp, nghĩa là có kiểu hình CT không 
khí phế thũng (32). 
CT định lượng có thể giúp để chọn lọc 
nhóm bệnh nhân COPD có kiểu hình đáp 
ứng với điều trị giảm thể tích phổi bằng phẫu 
thuật (lung volume reduction surgery, LVRS) 
hoặc bằng valve một chiều qua đường nội soi 
phế quản. Đây là những bệnh nhân có rãnh 
liên thùy gần nguyên vẹn trên CT (liên tục ít 
nhất 90%) và có kiểu hình khí phế thũng tập 
trung chủ yếu ở thùy trên (9,33). Kiểu hình khí 
phế thũng tập trung chủ yếu ở thùy trên được 
chứng minh liên quan đến các kiểu gene như 
GSTP1, EPHX1 và MMP1 (34). Trong số các 
bệnh nhân COPD được đặt valve một chiều 
làm giảm thể tích phổi, bệnh nhân được xem 
như có đáp ứng nếu CT định lượng 3 tháng 
sau đó cho thấy thể tích thùy phổi được đặt 
valve giảm > 350 mL(35) (hình 6).
Hình 6. CT định lượng giúp đánh giá hiệu quả phương 
pháp giảm thể tích phổi bằng valve một chiều. Thể tích 
thùy dưới phải giảm 1,752 ml (mũi tên) sau khi đặt 
valve một chiều.
Về phương diện tiên lượng, bệnh nhân 
có mức độ khí phế thũng càng nặng tại thời 
điểm đánh giá thì FEV
1
 sụt giảm càng nhanh 
sau 3 hoặc 5 năm theo dõi (36,37). Mức độ khí 
phế thũng đánh giá bằng CT định lượng là 
một yếu tố tiên lượng cho bệnh nhân COPD. 
Bệnh nhân có LAA% cao thì có tỉ lệ tử vong 
do nguyên nhân hô hấp cao hơn bệnh nhân có 
LAA% thấp (38). Tương tự như vậy, một nghiên 
cứu khác cho thấy, bệnh nhân có LAA% càng 
cao thì tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân càng 
cao sau 8 năm theo dõi (39). Một trong những 
nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm bệnh 
 TỔNG QUAN
8
Hô hấp số 14/2018
nhân có khí phế thũng nhiều là do ung thư 
phổi. Mức độ khí phế thũng tương quan thuận 
với nguy cơ ung thư phổi ở người hút thuốc 
lá kể cả sau khi hiệu chỉnh cho tuổi, giới, tiền 
căn hút thuốc lá và FEV
1 
(40). 
Kiểu hình chủ yếu dầy thành phế quản so với 
chủ yếu khí phế thũng:
Bằng cách sử dụng các phần mềm có thể định 
lượng được cả mức độ khí phế thũng (LAA% 
hoặc LAV%) và kích cỡ phế quản (WA% hoặc 
Pi10), bệnh nhân COPD có thể được chia 
thành 4 kiểu hình khác nhau dựa vào CT định 
lượng: Chủ yếu dầy thành phế quản (WA% 
hoặc Pi10 tăng và LAA% hoặc LAV% bình 
thường), Chủ yếu khí phế thũng (WA% hoặc 
Pi10 bình thường và LAA% hoặc LAV% 
tăng), Hỗn hợp (WA% hoặc Pi10 tăng và 
LAA% hoặc LAV% tăng) và CT bình thường 
(WA% hoặc Pi10 bình thường và LAA% 
hoặc LAV% bình thường) (41,42). Bệnh nhân 
có kiểu hình dầy thành phế quản có BMI cao 
hơn, khạc đàm mạn tính nhiều hơn, khò khè 
nhiều hơn và đáp ứng với ICS/LABA tốt hơn 
bệnh nhân có kiểu hình khí phế thũng hoặc 
hỗn hợp (29,43). Bệnh nhân có kiểu hình hỗn 
hợp có mức độ khó thở nặng hơn và có tiền 
căn nhập viện trong năm qua nhiều hơn các 
kiểu hình còn lại, sau khi hiệu chỉnh cho tuổi, 
gói-năm thuốc lá, còn hay ngưng hút thuốc lá, 
BMI và FEV
1 
(42). 
Các kiểu hình COPD dựa vào CT có thể 
có sự đóng góp của yếu tố di truyền. Khi sử 
dụng CT định lượng để đánh giá mức độ khí 
phế thũng và dầy thành phế quản ở 519 người 
bị COPD và 640 anh/chị em ruột của họ, Patel 
và cộng sự thấy rằng khí phế thũng phổ biến 
ở anh/chị em ruột của những người COPD có 
khí phế thũng hơn những người COPD không 
có khí phế thũng. Tương tự như vậy, Pi10 của 
những người cận huyết tương quan với Pi10 
của những người bị bệnh COPD (19). Nghiên 
cứu gần đây ở 12.031 người hút thuốc lá từ các 
nghiên cứu COPDGene, NETT, GenKOLS 
và ECLIPSE cho thấy rằng kiểu hình khí 
phế thũng liên quan đến các kiểu gene HHIP, 
CHRNA3, AGER, DLC1 và SERPINA10; 
Kiểu hình dầy thành phế quản liên quan đến 
kiểu gene MIR2054 (44).
KẾT LUẬN 
CT ngực rất hữu ích trong việc đánh giá các 
bất thường về cấu trúc phổi trong COPD. Bác 
sĩ lâm sàng nên tận dụng những CT ngực 
có sẵn như trong các chương trình tầm soát 
ung thư phổi liều thấp để đánh giá bệnh nhân 
COPD toàn diện hơn và lựa chọn điều trị phù 
hợp hơn. Với sự tiến bộ của kỹ thuật CT và 
phần mềm phân tích CT, CT định lượng trong 
COPD trở nên tiện lợi hơn và kết quả đáng 
tin cậy hơn. Phân loại kiểu hình COPD dựa 
vào CT định tính hoặc định lượng có thể giúp 
nhận ra các nhóm bệnh nhân COPD có khả 
năng đáp ứng với các điều trị phù hợp hoặc 
hữu ích trong các thử nghiệm lâm sàng như 
những can thiệp nhắm đến tái cấu trúc đường 
dẫn khí hoặc nhắm đến quá trình phá hủy 
vách phế nang (khí phế thũng) (45). 
Tài liệu tham khảo
1. GOLD. The Global Strategy for the Diagnosis, 
Management, and Prevention of COPD, Global 
Initiative for Chronic Obstructive Lung Disease 
(GOLD) 2018. Available from: 
org. Accessed: 28 March 2018. 2018
2. Hogg JC. Pathophysiology of airflow limitation in 
chronic obstructive pulmonary disease. Lancet. 
2004;364(9435):709-721.
3. Thurlbeck WM, Muller NL. Emphysema: definition, 
imaging, and quantification. AJR Am J Roentgenol. 
 TỔNG QUAN
9
Hô hấp số 14/2018
1994;163(5):1017-1025.
4. Lynch DA, Austin JH, Hogg JC, et al. CT-Definable 
Subtypes of Chronic Obstructive Pulmonary 
Disease: A Statement of the Fleischner Society. 
Radiology. 2015;277(1):192-205.
5. Goddard PR, Nicholson EM, Laszlo G, Watt I. 
Computed tomography in pulmonary emphysema. 
Clin Radiol. 1982;33:379-387.
6. Barr RG, Berkowitz EA, Bigazzi F, et al. A 
combined pulmonary-radiology workshop for 
visual evaluation of COPD: study design, chest 
CT findings and concordance with quantitative 
evaluation. COPD. 2012;9(2):151-159.
7. Van Tho N, Wada H, Ogawa E, Nakano Y. Recent 
findings in chronic obstructive pulmonary disease 
by using quantitative computed tomography. 
Respir Investig. 2012;50(3):78-87.
8. Muller NL, Staples CA, Miller RR, Abboud RT. 
“Density mask”. An objective method to quantitate 
emphysema using computed tomography. Chest. 
1988;94:782-787.
9. Nakano Y, Coxson HO, Bosan S, et al. Core to 
rind distribution of severe emphysema predicts 
outcome of lung volume reduction surgery. Am J 
Respir Crit Care Med. 2001;164:2195-2199.
10. Tho NV, Trang le TH, Murakami Y, et al. Airway 
wall area derived from 3-dimensional computed 
tomography analysis differs among lung lobes in 
male smokers. PLoS One. 2014;9(5):e98335.
11. Gietema HA, Muller NL, Fauerbach PV, et al. 
Quantifying the extent of emphysema: factors 
associated with radiologists’ estimations and 
quantitative indices of emphysema severity using 
the ECLIPSE cohort. Acad Radiol. 2011;18(6):661-
671.
12. Madani A, Zanen J, de Maertelaer V, Gevenois PA. 
Pulmonary emphysema: objective quantification 
at multi-detector row CT--comparison with 
macroscopic and microscopic morphometry. 
Radiology. 2006;238:1036-1043.
13. Grydeland TB, Dirksen A, Coxson HO, et al. 
Quantitative computed tomography: emphysema 
and airway wall thickness by sex, age and smoking. 
Eur Respir J. 2009;34(4):858-865.
14. Ogawa E, Nakano Y, Ohara T, et al. Body mass 
index in male patients with COPD: correlation with 
low attenuation areas on CT. Thorax. 2009;64:20-
25.
15. Grydeland TB, Dirksen A, Coxson HO, et al. 
Quantitative computed tomography measures of 
emphysema and airway wall thickness are related 
to respiratory symptoms. Am J Respir Crit Care 
Med. 2010;181(4):353-359.
16. Nakano Y, Muro S, Sakai H, et al. Computed 
tomographic measurements of airway dimensions 
and emphysema in smokers. Correlation with 
lung function. Am J Respir Crit Care Med. 
2000;162:1102-1108.
17. Tho NV, Ryujin Y, Ogawa E, et al. Relative 
contributions of emphysema and airway 
remodelling to airflow limitation in COPD: 
Consistent results from two cohorts. Respirology. 
2015;20(4):594-601.
18. King GG, Muller NL, Whittall KP, Xiang QS, 
Pare PD. An analysis algorithm for measuring 
airway lumen and wall areas from high-resolution 
computed tomographic data. Am J Respir Crit 
Care Med. 2000;161(2 Pt 1):574-580.
19. Patel BD, Coxson HO, Pillai SG, et al. Airway wall 
thickening and emphysema show independent 
familial aggregation in chronic obstructive 
pulmonary disease. Am J Respir Crit Care Med. 
2008;178:500-505.
20. Tschirren J, Hoffman EA, McLennan G, Sonka M. 
Intrathoracic airway trees: segmentation and airway 
morphology analysis from low-dose CT scans. 
IEEE Trans Med Imaging. 2005;24(12):1529-1539.
21. Hasegawa M, Nasuhara Y, Onodera Y, et al. 
Airflow limitation and airway dimensions in chronic 
obstructive pulmonary disease. Am J Respir Crit 
Care Med. 2006;173:1309-1315.
22. Nakano Y, Wong JC, de Jong PA, et al. The 
prediction of small airway dimensions using 
computed tomography. Am J Respir Crit Care 
Med. 2005;171:142-146.
23. Hogg JC, Chu F, Utokaparch S, et al. The 
nature of small-airway obstruction in chronic 
obstructive pulmonary disease. N Engl J Med. 
2004;350(26):2645-2653.
24. Martinez CH, Chen YH, Westgate PM, et al. 
Relationship between quantitative CT metrics and 
health status and BODE in chronic obstructive 
pulmonary disease. Thorax. 2012;67(5):399-406.
25. O’Brien C, Guest PJ, Hill SL, Stockley RA. 
Physiological and radiological characterisation 
of patients diagnosed with chronic obstructive 
pulmonary disease in primary care. Thorax. 
2000;55(8):635-642.
26. Ni Y, Shi G, Yu Y, Hao J, Chen T, Song H. Clinical 
characteristics of patients with chronic obstructive 
pulmonary disease with comorbid bronchiectasis: 
a systemic review and meta-analysis. Int J Chron 
Obstruct Pulmon Dis. 2015;10:1465-1475.
27. Agusti A, Calverley PM, Celli B, et al. 
Characterisation of COPD heterogeneity in the 
ECLIPSE cohort. Respir Res. 2010;11:122.
28. Diaz AA, Young TP, Maselli DJ, et al. Quantitative 
CT Measures of Bronchiectasis in Smokers. Chest. 
2017;151(6):1255-1262.
29. Fujimoto K, Kitaguchi Y, Kubo K, Honda T. Clinical 
 TỔNG QUAN
10
Hô hấp số 14/2018
analysis of chronic obstructive pulmonary disease 
phenotypes classified using high-resolution 
computed tomography. Respirology. 2006;11:731-
740.
30. Tho NV, Lan LTT, Ogawa E, Nakano Y. Eosinophilia 
is less likely to occur in COPD smokers 
with emphysema phenotype. Respirology. 
2017;22(3):Abstract AO006.
31. Pavord ID, Lettis S, Locantore N, et al. Blood 
eosinophils and inhaled corticosteroid/long-
acting beta-2 agonist efficacy in COPD. Thorax. 
2016;71(2):118-125.
32. Cosentino J, Zhao H, Hardin M, et al. Analysis 
of Asthma-Chronic Obstructive Pulmonary 
Disease Overlap Syndrome Defined on 
the Basis of Bronchodilator Response and 
Degree of Emphysema. Ann Am Thorac Soc. 
2016;13(9):1483-1489.
33. Washko GR, Martinez FJ, Hoffman EA, et 
al. Physiological and computed tomographic 
predictors of outcome from lung volume 
reduction surgery. Am J Respir Crit Care Med. 
2010;181(5):494-500.
34. DeMeo DL, Hersh CP, Hoffman EA, et al. Genetic 
determinants of emphysema distribution in the 
national emphysema treatment trial. Am J Respir 
Crit Care Med. 2007;176:42-48.
35. Schuhmann M, Raffy P, Yin Y, et al. Computed 
tomography predictors of response to 
endobronchial valve lung reduction treatment. 
Comparison with Chartis. Am J Respir Crit Care 
Med. 2015;191(7):767-774.
36. Mohamed Hoesein FA, de Hoop B, Zanen P, et al. 
CT-quantified emphysema in male heavy smokers: 
association with lung function decline. Thorax. 
2011;66(9):782-787.
37. Nishimura M, Makita H, Nagai K, et al. Annual 
change in pulmonary function and clinical phenotype 
in chronic obstructive pulmonary disease. Am J 
Respir Crit Care Med. 2012;185(1):44-52.
38. Haruna A, Muro S, Nakano Y, et al. CT scan 
findings of emphysema predict mortality in COPD. 
Chest. 2010;138(3):635-640.
39. Johannessen A, Skorge TD, Bottai M, et al. Mortality 
by level of emphysema and airway wall thickness. 
Am J Respir Crit Care Med. 2013;187(6):602-608.
40. Wilson DO, Weissfeld JL, Balkan A, et al. 
Association of radiographic emphysema and 
airflow obstruction with lung cancer. Am J Respir 
Crit Care Med. 2008;178:738-744.
41. Nakano Y, Muller NL, King GG, et al. Quantitative 
assessment of airway remodeling using high-
resolution CT. Chest. 2002;122:271S-275S.
42. Van Tho N, Ogawa E, Trang le TH, et al. A 
mixed phenotype of airway wall thickening and 
emphysema is associated with dyspnea and 
hospitalization for chronic obstructive pulmonary 
disease. Ann Am Thorac Soc. 2015;12(7):988-996.
43. Kim V, Han MK, Vance GB, et al. The chronic 
bronchitic phenotype of COPD: an analysis of the 
COPDGene study. Chest. 2011;140(3):626-633.
44. Cho MH, Castaldi PJ, Hersh CP, et al. A Genome-
Wide Association Study of Emphysema and Airway 
Quantitative Imaging Phenotypes. Am J Respir 
Crit Care Med. 2015;192(5):559-569.
45. Coxson HO. Quantitative computed tomography 
assessment of airway wall dimensions: current 
status and potential applications for phenotyping 
chronic obstructive pulmonary disease. Proc Am 
Thorac Soc. 2008;5:940-945.

File đính kèm:

  • pdftong_quan_vai_tro_ct_nguc_trong_phan_loai_kieu_hinh_copd.pdf