Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là bệnh mạn tính, nặng dần theo thời gian, với các đợt cấp xen kẽ các giai đoạn ổn định. Đợt cấp là nguyên nhân hàng đầu gây suy hô hấp khiến bệnh nhân BPTNMT phải nhập viện. Tỷ lệ tử vong của bệnh còn cao, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong trong đợt cấp từ 16 - 80% (1,2).
Có nhiều định nghĩa về đợt cấp BPTNMT, các định nghĩa này vẫn còn những điểm không thống nhất.
Theo Anthonisen N. R và cs (1987) (3): “Đợt cấp BPTNMT được biểu hiện bằng 3 triệu chứng chính: khó thở tăng, số lượng đờm tăng và đờm nhầy mủ”
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
2 Hô hấp số 13/2017 ĐịNH NgHĩA Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là bệnh mạn tính, nặng dần theo thời gian, với các đợt cấp xen kẽ các giai đoạn ổn định. Đợt cấp là nguyên nhân hàng đầu gây suy hô hấp khiến bệnh nhân BPTNMT phải nhập viện. Tỷ lệ tử vong của bệnh còn cao, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong trong đợt cấp từ 16 - 80% (1,2). Có nhiều định nghĩa về đợt cấp BPTNMT, các định nghĩa này vẫn còn những điểm không thống nhất. Theo Anthonisen N. R và cs (1987) (3): “Đợt cấp BPTNMT được biểu hiện bằng 3 triệu chứng chính: khó thở tăng, số lượng đờm tăng và đờm nhầy mủ”. Theo ATS/ERS (2004) (4): “Đợt cấp BPTNMT là một sự thay đổi cấp tính các triệu chứng cơ bản ho, khó thở và/hoặc khạc đờm ngoài những diễn biến hàng ngày và đòi hỏi phải thay đổi trị liệu hàng ngày của bệnh nhân”. Theo định nghĩa của gOLD (2009) (5): “Đợt cấp BPTNMT là tình trạng xảy ra trong diễn biến tự nhiên của bệnh, được đặc trưng bởi sự thay đổi các triệu chứng cơ bản của bệnh nhân như ho, khạc đờm, khó thở khác với những diễn biến thường ngày, khởi phát cấp tính và đòi hỏi phải thay đổi thuốc điều trị thường ngày trên bệnh nhân BPTNMT”. Theo Papi và cs đợt cấp BPTNMT là “sự xấu đi của triệu chứng hô hấp dẫn đến bệnh nhân cần có các chăm sóc y tế” (6). Theo Pauwels và cs đợt cấp BPTNMT là “tình trạng xấu đi của triệu chứng hô hấp, khởi phát cấp tính đòi hỏi bệnh nhân tìm đến sự hỗ trợ y tế hoặc thay đổi trong điều trị” (7). Như vậy có thể thấy, mặc dù còn một số điểm chưa thống nhất, tuy nhiên, hầu hết các định nghĩa về đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đều bao gồm hai điểm: (1) Sự xấu đi so với bình thường của triệu chứng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính và (2) Cần sự thay đổi điều trị so với điều trị hàng ngày của bệnh nhân. TÌNH HÌNH MẮC BPTNMT VÀ ĐỢT CẤP Tình hình mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trên thế giới: Theo gOLD (2017): thế giới có khoảng 384 triệu bệnh nhân BPTNMT trong năm 2010, với ba triệu người tử vong hàng năm. Tỷ lệ bệnh tăng theo tỷ lệ hút thuốc, tuổi cao. Dự báo trong 30 năm tới: mỗi năm thế giới sẽ có 4,5 triệu người tử vong do BPTNMT (8). Trên phạm vi từng quốc gia, khu vực cũng có nhiều nghiên cứu đã tiến hành và xác định tỷ lệ mặc BPTNMT. Menezes A và cộng sự (2015) tiến hành nghiên cứu về BPTNMT tại 05 quốc gia (Braxin, Tổng quan TÌNH HÌNH MẮC VÀ GÁNH NẶNG ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TS.BS Nguyễn Thanh Hồi CEO Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng E-mail: [email protected] Tổng quan 3 Hô hấp số 13/2017 Chile, Mexico, Uruguay và Venezuela) thuộc châu Mỹ La Tinh (dự án PLATINO) ở những đối tượng từ 40 tuổi trở lên cho kết quả là tỷ lệ mắc BPTNMT gặp nhiều ở nam, kết quả rối loạn thông khí tắc nghẽn tăng theo lứa tuổi, tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở lứa tuổi trên 60 tuổi và tỷ lệ mắc bệnh ở lứa tuổi này thấp nhất là ở thành phố Mexico là 18,4% và cao nhất là 32,1% ở thành phố Montevideo của Uruguay (9). Tuy nhiên, đây là tỷ lệ các đối tượng từ 40 tuổi trở lên có rối loạn thông khí tắc nghẽn, chứ chưa phải tỷ lệ chính xác của BPTNMT. Theo Wan C và cs (2003): khi nghiên cứu về BPTNMT ở 12 nước thuộc vùng Châu Á Thái Bình Dương (BOLD) cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ mắc BPTNMT giữa các vùng trong đó tỉ lệ thấp nhất là 3,5% ở Hồng Kông và Singapore và cao nhất là ở Việt Nam với tỉ lệ 6,7% (10). Tại Mỹ theo nghiên cứu quốc gia về tỷ lệ BPTNMT, tiến hành thông qua phỏng vấn bằng bộ câu hỏi, khám lâm sàng và đo chức năng thông khí, cho kết quả 23,6 triệu người mắc BPTNMT trong đó có 2,6 triệu mắc bệnh ở giai đoạn nặng. Ước tính mức độ lưu hành của bệnh BPTNMT vào khoảng 10% dân số, trong đó có tới 50% số bệnh nhân bị bỏ sót không được chẩn đoán (11). Ở Canada, BPTNMT cũng được coi là gánh nặng lớn về sức khỏe, theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm theo dõi sức khỏe Quốc gia Canada (National Population Health Survey - NPHS) khẳng định 750.000 người Canada mắc viêm phế quản mạn tính (VPQMT) và khí phế thũng (KPT). Trong đó tỷ lệ mắc tăng theo tuổi phân bố như sau: 4,6% cho độ tuổi từ 55-64; 5,0% cho độ tuổi từ 65-74 và 6,8% cho lứa tuổi trên 75 (12). Ở Pháp có 2,5 triệu người mắc BPTNMT (bao gồm những người hút thuốc lá và có triệu chứng của VPQMT), tỷ lệ mắc chiếm khoảng 5% dân số cả nước. Theo dữ liệu của PMSI thì cũng trong năm 1998 có 97,235 bệnh nhân nhập viện vì bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính với số ngày nằm viện trung bình là 9,9 ngày. Năm 2000, 54% số bệnh nhân BPTNMT (gần 40.000 người) phải thở oxy và thông khí nhân tạo tại nhà (13). Tại Australia, BPTNMT là bệnh gây gánh nặng bệnh tật về sức khỏe đứng hàng thứ 3 và là nguyên nhân đứng hàng thứ tư trong các nguyên nhân gây tử vong. Theo một nghiên cứu vào năm 2000 số bệnh nhân mắc BPTNMT tại nước này là 300.000 trường hợp và số bệnh nhân xuất hiện mới hằng năm là khoảng 20.000 trường hợp. Năm 2004, một nghiên cứu trên toàn quốc gia báo cáo tỉ lệ mắc BPTNMT là 3% và tỉ lệ mắc bệnh tăng theo lứa tuổi, 2,8% ở những bệnh nhân thuộc lứa tuổi 45-54 và 8,8% ở những đối tượng trên 75 tuổi (14). Trung Quốc là nước có tỷ lệ mắc BPTNMT cao nhất so với các nước khác trong cùng khu vực (26,2/1.000 ở nam và 23,7/1.000 ở nữ). Theo nghiên cứu của Zhong và cs (2007), tiến hành trên 20.245 đối tượng từ 40 tuổi trở lên sống ở trên 7 tỉnh và thành phố cho kết quả tỉ lệ mắc BPTNMT là 8,2% (trong đó ở nam là 12,4% và nữ là 5,1%) và bệnh nhân BPTNMT gặp nhiều ở nông thôn, tiền sử hút thuốc, tuổi cao và trình độ văn hóa thấp. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 4 ở thành phố lớn và đứng hàng đầu ở nông thôn với trên 50% nam giới hút thuốc (15). Tình hình mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở Việt Nam Ở Việt Nam, theo Nguyễn Đình Hường (1994), VPQMT là bệnh hay gặp nhất trong số các bệnh phổi mạn tính ở người lớn, với tỷ lệ mắc từ 4-5%. Tổng quan 4 Hô hấp số 13/2017 Đinh Ngọc Sỹ, và cs (2009) tiến hành nghiên cứu về dịch tễ học BPTNMT ở Việt Nam nhận thấy tỉ lệ mắc bệnh chung trên cả nước là 4,2%, tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 7,1% và nữ giới là 1,9%. Tỷ lệ mắc của bệnh tăng theo lứa tuổi (16). Bên cạnh đó, cũng có nhiều nghiên cứu về tỷ lệ mắc BPTNMT theo các khu vực dân cư khác nhau: Trong nghiên cứu điều tra của Nguyễn Quỳnh Loan và Ngô Quý Châu (2002) nhận thấy tỷ lệ mắc BPTNMT trong cộng đồng dân cư Phường Khương Mai, Quận Thanh Xuân, Hà Nội là 1,53% (17). Một số nghiên cứu tiến hành trên phạm vi các tỉnh, thành phố hoặc các nhà máy cho thấy: tỷ lệ mắc BPTNMT dao động từ 2 - 7,1%. Trong đó tỷ lệ mắc ở nam cao hơn nữ. Tiếp xúc với khói thuốc lá, thuốc lào, bụi nghề nghiệp là những nguyên nhân hàng đầu gây BPTNMT ở Việt Nam (18, 19-22). Như vậy, có thể nhận thấy: tỷ lệ mắc BPTNMT thay đổi khá nhiều (từ 1,53% tới 10%). Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới cao hơn rõ rệt so với nữ giới. Bên cạnh đó, còn một tỷ lệ không nhỏ các bệnh nhân bị bỏ sót chẩn đoán (11). Tình hình mắc đợt cấp BPTNMT: Đợt cấp là quá trình tự nhiên trong diễn biến BPTNMT. Sau khi xuất hiện đợt cấp, các bệnh nhân có BPTNMT thường có chức năng thông khí phổi xấu đi rõ rệt, điểm chất lượng cuộc sống giảm đi so với trước khi có đợt cấp. Theo thống kê trung bình mỗi năm một bệnh nhân BPTNMT có từ 1,5 - 2,5 đợt cấp/ năm (24). Trong đó bệnh nhân FEV 1 <40% là khoảng 2,3 lần/năm, FEV 1 >60% chỉ khoảng 1,6 lần/năm (25). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT sẽ thường có nguy cơ mắc đợt cấp BPTNMT nhiều hơn. Các nguy cơ gây đợt cấp BPTNMT bao gồm: Bảng 1. Yếu tố nguy cơ xuất hiện đợt cấp BPTNMT (29) - Tuổi - Các bệnh lý mạn tính như bệnh tim mạch - Có sử dụng các thuốc điều trị BPTNMT trước đây - Thời gian có BPTNMT càng dài càng có nguy cơ cao có đợt cấp - Mức độ nặng của tắc nghẽn đường thở - Chất lượng cuộc sống kém - Có cư trú thường xuyên của vi khuẩn tại đường thở - Tiền sử có nhiều đợt cấp - Ho khạc đờm thường xuyên, thở rít - Sử dụng kháng sinh, corticoid toàn thân Theo Tam Dang Tan (2017): Tần suất xuất hiện đợt cấp BPTNMT trên những bệnh nhân đã từng có đợt cấp BPTNMT là 34,3/100 bệnh nhân/năm. Thời gian trung bình đến khi xuất hiện một đợt cấp là 37 tháng (27). Tại Việt Nam: Mặc dù chưa có nghiên cứu đầy đủ về tần suất đợt cấp BPTNMT, tuy nhiên đã có nhiều nghiên cứu cho thấy đợt cấp BPTNMT là nguyên nhân thường xuyên khiến bệnh nhân nhập viện. Tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong thống kê từ năm 1981 - 1984 VPQMT chiếm tỷ lệ 12,1% tổng số bệnh nhân nhập viện tại Khoa Hô hấp. Từ năm 1996 - 2000 theo Ngô Quý Châu và cs trong số 3.606 bệnh nhân vào điều trị tại Khoa Hô hấp tỷ lệ bệnh nhân chẩn đoán BPTNMT lúc ra viện chiếm 25,1%, đứng hàng đầu trong các bệnh lý về phổi và có 15,7% bệnh nhân trong số này được chẩn đoán là tâm phế mạn (28). Các bệnh nhân BPTNMT nhập viện điều trị tại bệnh viện hầu hết đều là do đợt cấp BPTNMT. Qua các số liệu nêu trên có thể thấy: tỷ lệ bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT Tổng quan 5 Hô hấp số 13/2017 liên tục tăng theo thời gian, tỷ lệ bệnh nhân vào điều trị tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai đã tăng gấp hơn 2 lần sau 15 năm. gÁNH NẶNg VÀ CHI PHÍ ĐIỀU TRị ĐỢT CẤP BPTNMT Trong các chi phí điều trị BPTNMT, chi phí cho điều trị đợt cấp BPTNMT là chi phí quan trọng và tốn kém nhất. Tại Mỹ năm 1995, ước tính tổng chi phí cho điều trị đợt cấp BPTNMT khoảng 1.592 triệu đô. Trong đó chi phí trung bình cho một bệnh nhân điều trị ngoại trú 152 đô la/1 đợt, chi phí cho thuốc chỉ chiếm khoảng 11,2% (26). Một vài nghiên cứu thống kê cho thấy: chi phí điều trị tại bệnh viện chiếm 40% - 57% chi phí điều trị đợt cấp (30,31). Theo David M. g. Halpin (2006): chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT tại Mỹ chiếm 40-57% tổng chi phí trực tiếp cho điều trị BPTNMT. Tính trung bình, mỗi bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT nhập viện tiêu tốn 7.100USD (hình 1) (32). Theo Perera P.N, năm 2012: toàn nước Mỹ có 1.254.703 lần bệnh nhân nhập viện vì đợt cấp BPTNMT, với trung bình chi phí cho một đợt điều trị đợt cấp BPTNMT là: 9.545 ± 12.700USD, với tổng chi phí y tế cho đợt cấp BPTNMT là 11,9 tỷ USD. Như vậy, chỉ sau 7 năm, tổng chi phí cho điều trị đợt cấp BPTNMT tại Mỹ đã tăng tới 7,7 lần. Điều này càng cho thấy mức độ nghiêm trọng của chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT (33). Tại Thụy Điển thống kê năm 2002 cho thấy chi phí điều trị những đợt cấp chiếm 35-45% tổng chi phí điều trị một bệnh nhân BPTNMT. Trung bình chi phí điều trị hàng năm một đợt cấp nặng khoảng 415 USD, mức độ trung bình 382 USD, mức độ nhẹ 228 USD (23). Hình 1. Phân bổ chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT (32) Một nghiên cứu về chi phí cho BPTNMT được tiến hành ở 212 bệnh nhân BPTNMT ở Thụy Điển, cho thấy trong toàn bộ số BN của nghiên cứu chỉ có 4% số bệnh nhân bệnh nặng nhưng chi phí cho những bệnh nhân này đã chiếm tới 30% tổng số chi phí của các bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu. Cũng tại quốc gia này một nghiên cứu trên 1.510 bệnh nhân BPTNMT trong khoảng thời gian 01 năm thấy chi phí trung bình cho một bệnh nhân trong 01 năm là 1.876 USD. Khi phân tích về chi phí trực tiếp các nghiên cứu cho thấy chi phí nằm viện chiếm 43%, chi phí cho thuốc chiếm 40%, thăm khám và làm các xét nghiệm chẩn đoán 17% (34). Theo Miravitlles M (2002): chi phí thuốc chiếm 32% tổng chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT (35). Tại Việt Nam, theo Ngô Quý Châu và cs nhận thấy: chi phí trung bình điều trị một đợt cấp khoảng 7,3 ± 4,6 triệu đồng. Đây thực sự là gánh nặng với kinh tế y tế nước ta do tỷ lệ mắc bệnh còn khá cao. Do đó việc xác định mức độ nặng, kế hoạch điều trị hợp lý và quản lý BPTNMT là rất quan trọng. KẾT LUẬN Tỷ lệ mắc BPTNMT khá cao và thay đổi theo từng quốc gia. Đợt cấp BPTNMT là diễn biến tự nhiên của bệnh. Khi bệnh nhân đã có đợt cấp BPTNMT thì có nguy cơ xuất hiện đợt cấp tiếp theo cao hơn hẳn so với bệnh nhân chưa từng có đợt cấp BPTNMT. Tổng quan 6 Hô hấp số 13/2017 Chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT chiếm phần quan trọng trong chi phí điều trị BPTNMT. Chi phí này tăng nhanh theo thời gian. Tại Việt Nam: chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT là gánh nặng không chỉ cho gia đình các bệnh nhân, mà còn là gánh nặng chung cho toàn xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Nseir S, Di Pompeo, C, Cavestri, B, et al (2006), “Multiple-drug-resistant bacter34ia in patients with severe acute exacerbation of chronic obstructive pulmona35ry disease: Prevalence, risk factors, and outcome (2006), “Multiple-drug-resistant bacteria in patients with severe acute exacerbation of chronic obstructive pulmonary disease: Prevalence, risk factors, and outcome”, Crit Care Med 34, pp. 2959. 2. Timothy G, Quinnell MSP, John M et al (2006), “Prolonged Invasive Ventilation Following Acute Ventilatory Failure in COPD * Weaning Results, Survival, and the Role of Noninvasive Ventilation”, CHEST 129, pp. 133 – 139. 3. Anthonisen NR MJ, Warren CPW, Hershfield ES, Harding GK, Nelson NA, (1987), “Antibiotic therapy in exacerbations of chronic obstructive pulmonary disease”, Ann Intern Med, 106, pp. 196-204. 4. ATS/ERS (2004), “Standard for diagnosis and management of patiens with COPD”, Am. J. .Respir, Crit Care Med, 152, pp. 8-222. 5. GOLD (2009), “Executive summary: Global Strategy for the Diagnosis, Managenment, and Prevention of COPD updated 2009” 6. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F và cộng sự (2006), “Infections and airway inflammation in chronic obstructive pulmonary disease severe exacerbations. Am J Respir Crit Care Med 2006; 173:1114–1121” Am J Respir Crit Care Med, 173, pp. 1114-1121. 7. Pauwels R, Calverley P, Buist AS và cộng sự (2004), “COPD exacerbations: the importance of a standard definition”, Respir Med J, 98, pp. 99-107. 8. GOLD (2017), “Executive summary: Global Strategy for the Diagnosis, Managenment, and Prevention of COPD updated 2009” 9. Menezes A, Pezez P et al (2005), “Chronic obstructive pulmonary disease in five Latin American cities, the PLATINO study): a prevalence study”, Lancet, 366, pp. 1875 - 1881. 10. Wan C et al (2003), “COPD prevalence in 12 Asia-Pacific countries and regions: Projections based on the COPD prevalence estimation model: REGIONAL COPD WORKING GROUP”, Respirology, 8, pp. 192 - 198. 11. NHLBI/WHO (2008) “Global strategy for the diagnosis, management and prevention of chronic obstructive pulmonary disease”, Workshop report, p. 90. 12. Yue C, Krista B, Nazeem M (2000), “Occurrence of chronic obstructive pulmonary disease among Canadians and sex - related risk factors”, Journal of Clinical Epidemiology, 53, pp. 755 - 761. 13. Societe de pneumologie de la langue francaise (SPLF) (2003), “Recommandations pour la prise en charge de la BPCO”, Rev Mal Respir, 20, pp. 4S5 - 4S68 14. Peter F, Adrian E, Tony J (2004), “Chronic obstructive pulmonary disease (COPD) in Australia: An under - recognized and under - treated burden”, Report for the Australia Lung Foundation, pp. 10 – 13 15. Zhong N, Wang C, Yao W (2007), “Prevalence of chronic obstructive pulmonary disease in China: a large, population - based survey”, Am J Respir Crit Care Med, 176, pp. 732 – 733 16. Đinh Ngọc Sỹ và CS (2009), Dịch tễ học Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) ở Việt Nam và các biện pháp dự phòng, điều trị, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp nhà nước. 17. Nguyễn Quỳnh Loan (2002), Nghiên cứu dịch tễ lâm sàng BPTNMT tại Phường Khương Mai - Quận Thanh Xuân - Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Y học, Học viện Quân Y Hà Nội. 18. Ngô Quý Châu, Chu Thị Hạnh và cộng sự (2005), Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong dân cư thành phố Hà Nội, Báo cáo nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Y tế. 19. Ngô Quý Châu và cộng sự (2006), Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở một số tỉnh thành phố khu vực phía Bắc Việt Nam, Báo cáo đề tài nghiệm thu cấp bộ, Bộ Y tế. 20. Chu Thị Hạnh, Ngô Quý Châu (2007), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong công nhân một số nhà máy công nghiệp Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường Đại Học Y Hà Nội. 21. Lê Vân Anh, Ngô Quý Châu (2006), Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong dân cư thành phố Bắc Giang, Luận văn Bác sĩ chuyên khoa 2, Trường Đại học Y Hà Nội. Tổng quan 7 Hô hấp số 13/2017 22. Phan Thu Phương, Ngô Quý Châu (2009), Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở khu vực ngoại thành thành phố Hà Nội và tỉnh Bắc GIang, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường Đại Học Y Hà Nội. 23. Andersson M, Llor C, Naberan K, Cots JM, Molina J (2005), “Variables associated with recovery from acute exacerbation of chronic bronchitis and chronic obstructive pulmonary disease”, Respir Med J, 99, pp. 955-965. 24. Burge PS, Calverley PMA, Jones PW, Spencer S, Anderson JA, Maslen TK (2000), “randomised, double blind, placebo controlled study of fluticasone propionate in patients with moderate to severe chronic obstructive pulmonary disease: the ISOLDE trial “, Br Med J, 320, pp. 1297-1303. 25. Miravitlles M, Mayordomo C, Artés M, Sánchez- Agudo L, Nicolau F Segú JL (1999), “treatment of chronic obstructive pulmonary disease and its exacerbations in general practice”, Respir Med J, 93, pp. 173-179 26. Qureshi H, Sharafkhaneh A, Nicola A. (2014). Chronic obstructive pulmonary disease exacerbations: latest evidence and clinical implications. Ther Adv Chronic Dis 2014, Vol. 5(5) 212–227 27. Tam Dang Tan, Zhang S, Tavares RV et al (2017). “The Burden of Illness Related to Chronic Obstructive Pulmonary Disease Exacerbations in Québec, Canada”. Can Respir J; 2017: 8184915. 28. Ngô Quý Châu và CS (2002), “Tình hình chẩn đoán và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong 5 năm 1996 - 2000”, Thông tin Y học lâm sàng, NXB Y học, tr. 50 - 58. 29. Niederman MS McCombs JS Unger AN Kumar A Popovian R (1999), “Treatment cost of acute exacerbations of chronic bronchitis”, Clin Ther, 21, pp. 576-591. 30. Masa JF, Sobradillo V, Villasante C et al (2004), “costs of chronic obstructive pulmonary disease in Spain: Estimation from a population-based study”, Arch Bronconeumol, 40, pp. 72-79. 31. Miravitlles M, Murio C, Guerrero T, Gisbert R (2003), “on behalf of the DAFNE study group. Costs of chronic bronchitis and COPD. A one year follow-up study”, CHEST, 123, pp. 784-791. 32. David M. G. Halpin, and Marc Miravitlles. (2006). “Chronic Obstructive Pulmonary Disease - The Disease and Its Burden to Society”. ATS Journal. Vol. 3, No. 7. 33. Perera P.N, Armstrong E.P, Sherrill D.L et al (2012). “Acute Exacerbations of COPD in the United States: Inpatient Burden and Predictors of Costs and Mortality” COPD, 9:131–141 34. World Health Organization (1999), A comprehensive of mortality and disability from diseases, injuries, and risk factors in 1990 and projected to 2020, World health Report. Geneva: WHO, 1999. 35. Miravitlles M, Murio C, Guerrero T, Gisbert R (2002), “Pharmacoeconomic evaluation of acute exacerbations of chronic bronchitis and COPD”, CHEST, 121, pp. 1449-1455.
File đính kèm:
tong_quan_tinh_hinh_mac_va_ganh_nang_dot_cap_benh_phoi_tac_n.pdf

