Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là bệnh mạn tính, nặng dần theo thời gian, với các đợt cấp xen kẽ các giai đoạn ổn định. Đợt cấp là nguyên nhân hàng đầu gây suy hô hấp khiến bệnh nhân BPTNMT phải nhập viện. Tỷ lệ tử vong của bệnh còn cao, nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tử vong trong đợt cấp từ 16 - 80% (1,2).

Có nhiều định nghĩa về đợt cấp BPTNMT, các định nghĩa này vẫn còn những điểm không thống nhất.

Theo Anthonisen N. R và cs (1987) (3): “Đợt cấp BPTNMT được biểu hiện bằng 3 triệu chứng chính: khó thở tăng, số lượng đờm tăng và đờm nhầy mủ”

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Tổng quan Tình hình mắc và gánh nặng đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
2
Hô hấp số 13/2017
ĐịNH NgHĩA
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) là 
bệnh mạn tính, nặng dần theo thời gian, với 
các đợt cấp xen kẽ các giai đoạn ổn định. Đợt 
cấp là nguyên nhân hàng đầu gây suy hô hấp 
khiến bệnh nhân BPTNMT phải nhập viện. 
Tỷ lệ tử vong của bệnh còn cao, nhiều nghiên 
cứu cho thấy tỷ lệ tử vong trong đợt cấp từ 
16 - 80% (1,2).
Có nhiều định nghĩa về đợt cấp BPTNMT, 
các định nghĩa này vẫn còn những điểm 
không thống nhất. 
Theo Anthonisen N. R và cs (1987) (3): 
“Đợt cấp BPTNMT được biểu hiện bằng 3 
triệu chứng chính: khó thở tăng, số lượng 
đờm tăng và đờm nhầy mủ”.
Theo ATS/ERS (2004) (4): “Đợt cấp 
BPTNMT là một sự thay đổi cấp tính các triệu 
chứng cơ bản ho, khó thở và/hoặc khạc đờm 
ngoài những diễn biến hàng ngày và đòi hỏi 
phải thay đổi trị liệu hàng ngày của bệnh nhân”.
Theo định nghĩa của gOLD (2009) (5): 
“Đợt cấp BPTNMT là tình trạng xảy ra trong 
diễn biến tự nhiên của bệnh, được đặc trưng 
bởi sự thay đổi các triệu chứng cơ bản của 
bệnh nhân như ho, khạc đờm, khó thở khác 
với những diễn biến thường ngày, khởi phát 
cấp tính và đòi hỏi phải thay đổi thuốc điều 
trị thường ngày trên bệnh nhân BPTNMT”.
Theo Papi và cs đợt cấp BPTNMT là 
“sự xấu đi của triệu chứng hô hấp dẫn đến 
bệnh nhân cần có các chăm sóc y tế” (6). Theo 
Pauwels và cs đợt cấp BPTNMT là “tình 
trạng xấu đi của triệu chứng hô hấp, khởi phát 
cấp tính đòi hỏi bệnh nhân tìm đến sự hỗ trợ y 
tế hoặc thay đổi trong điều trị” (7). 
Như vậy có thể thấy, mặc dù còn một số 
điểm chưa thống nhất, tuy nhiên, hầu hết các 
định nghĩa về đợt cấp của bệnh phổi tắc nghẽn 
mạn tính đều bao gồm hai điểm: (1) Sự xấu đi 
so với bình thường của triệu chứng bệnh phổi 
tắc nghẽn mạn tính và (2) Cần sự thay đổi điều 
trị so với điều trị hàng ngày của bệnh nhân.
TÌNH HÌNH MẮC BPTNMT VÀ ĐỢT CẤP 
Tình hình mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính trên thế giới:
Theo gOLD (2017): thế giới có khoảng 384 
triệu bệnh nhân BPTNMT trong năm 2010, 
với ba triệu người tử vong hàng năm. Tỷ lệ 
bệnh tăng theo tỷ lệ hút thuốc, tuổi cao. Dự 
báo trong 30 năm tới: mỗi năm thế giới sẽ có 
4,5 triệu người tử vong do BPTNMT (8).
Trên phạm vi từng quốc gia, khu vực 
cũng có nhiều nghiên cứu đã tiến hành và xác 
định tỷ lệ mặc BPTNMT.
Menezes A và cộng sự (2015) tiến hành 
nghiên cứu về BPTNMT tại 05 quốc gia (Braxin, 
Tổng quan
TÌNH HÌNH MẮC VÀ GÁNH NẶNG ĐỢT CẤP 
BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH
TS.BS Nguyễn Thanh Hồi 
CEO Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hải Phòng 
E-mail: [email protected]
 Tổng quan
3
Hô hấp số 13/2017
Chile, Mexico, Uruguay và Venezuela) thuộc 
châu Mỹ La Tinh (dự án PLATINO) ở những 
đối tượng từ 40 tuổi trở lên cho kết quả là tỷ 
lệ mắc BPTNMT gặp nhiều ở nam, kết quả rối 
loạn thông khí tắc nghẽn tăng theo lứa tuổi, tỷ 
lệ mắc bệnh cao nhất ở lứa tuổi trên 60 tuổi 
và tỷ lệ mắc bệnh ở lứa tuổi này thấp nhất là 
ở thành phố Mexico là 18,4% và cao nhất là 
32,1% ở thành phố Montevideo của Uruguay 
(9). Tuy nhiên, đây là tỷ lệ các đối tượng từ 40 
tuổi trở lên có rối loạn thông khí tắc nghẽn, 
chứ chưa phải tỷ lệ chính xác của BPTNMT. 
Theo Wan C và cs (2003): khi nghiên cứu 
về BPTNMT ở 12 nước thuộc vùng Châu Á 
Thái Bình Dương (BOLD) cho thấy có sự 
khác nhau về tỷ lệ mắc BPTNMT giữa các 
vùng trong đó tỉ lệ thấp nhất là 3,5% ở Hồng 
Kông và Singapore và cao nhất là ở Việt Nam 
với tỉ lệ 6,7% (10). 
Tại Mỹ theo nghiên cứu quốc gia về tỷ 
lệ BPTNMT, tiến hành thông qua phỏng vấn 
bằng bộ câu hỏi, khám lâm sàng và đo chức 
năng thông khí, cho kết quả 23,6 triệu người 
mắc BPTNMT trong đó có 2,6 triệu mắc bệnh 
ở giai đoạn nặng. Ước tính mức độ lưu hành 
của bệnh BPTNMT vào khoảng 10% dân số, 
trong đó có tới 50% số bệnh nhân bị bỏ sót 
không được chẩn đoán (11).
Ở Canada, BPTNMT cũng được coi 
là gánh nặng lớn về sức khỏe, theo kết quả 
nghiên cứu của Trung tâm theo dõi sức 
khỏe Quốc gia Canada (National Population 
Health Survey - NPHS) khẳng định 750.000 
người Canada mắc viêm phế quản mạn tính 
(VPQMT) và khí phế thũng (KPT). Trong 
đó tỷ lệ mắc tăng theo tuổi phân bố như sau: 
4,6% cho độ tuổi từ 55-64; 5,0% cho độ tuổi 
từ 65-74 và 6,8% cho lứa tuổi trên 75 (12). 
Ở Pháp có 2,5 triệu người mắc BPTNMT 
(bao gồm những người hút thuốc lá và có triệu 
chứng của VPQMT), tỷ lệ mắc chiếm khoảng 
5% dân số cả nước. Theo dữ liệu của PMSI 
thì cũng trong năm 1998 có 97,235 bệnh nhân 
nhập viện vì bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 
với số ngày nằm viện trung bình là 9,9 ngày. 
Năm 2000, 54% số bệnh nhân BPTNMT (gần 
40.000 người) phải thở oxy và thông khí nhân 
tạo tại nhà (13).
Tại Australia, BPTNMT là bệnh gây gánh 
nặng bệnh tật về sức khỏe đứng hàng thứ 3 và 
là nguyên nhân đứng hàng thứ tư trong các 
nguyên nhân gây tử vong. Theo một nghiên 
cứu vào năm 2000 số bệnh nhân mắc BPTNMT 
tại nước này là 300.000 trường hợp và số bệnh 
nhân xuất hiện mới hằng năm là khoảng 20.000 
trường hợp. Năm 2004, một nghiên cứu trên 
toàn quốc gia báo cáo tỉ lệ mắc BPTNMT là 
3% và tỉ lệ mắc bệnh tăng theo lứa tuổi, 2,8% ở 
những bệnh nhân thuộc lứa tuổi 45-54 và 8,8% 
ở những đối tượng trên 75 tuổi (14).
Trung Quốc là nước có tỷ lệ mắc BPTNMT 
cao nhất so với các nước khác trong cùng khu 
vực (26,2/1.000 ở nam và 23,7/1.000 ở nữ). 
Theo nghiên cứu của Zhong và cs (2007), 
tiến hành trên 20.245 đối tượng từ 40 tuổi trở 
lên sống ở trên 7 tỉnh và thành phố cho kết 
quả tỉ lệ mắc BPTNMT là 8,2% (trong đó ở 
nam là 12,4% và nữ là 5,1%) và bệnh nhân 
BPTNMT gặp nhiều ở nông thôn, tiền sử hút 
thuốc, tuổi cao và trình độ văn hóa thấp. Bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính là nguyên nhân gây 
tử vong đứng hàng thứ 4 ở thành phố lớn và 
đứng hàng đầu ở nông thôn với trên 50% nam 
giới hút thuốc (15). 
Tình hình mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo Nguyễn Đình Hường 
(1994), VPQMT là bệnh hay gặp nhất trong 
số các bệnh phổi mạn tính ở người lớn, với tỷ 
lệ mắc từ 4-5%.
 Tổng quan
4
Hô hấp số 13/2017
Đinh Ngọc Sỹ, và cs (2009) tiến hành 
nghiên cứu về dịch tễ học BPTNMT ở Việt 
Nam nhận thấy tỉ lệ mắc bệnh chung trên cả 
nước là 4,2%, tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 
7,1% và nữ giới là 1,9%. Tỷ lệ mắc của bệnh 
tăng theo lứa tuổi (16).
Bên cạnh đó, cũng có nhiều nghiên cứu 
về tỷ lệ mắc BPTNMT theo các khu vực dân 
cư khác nhau: Trong nghiên cứu điều tra 
của Nguyễn Quỳnh Loan và Ngô Quý Châu 
(2002) nhận thấy tỷ lệ mắc BPTNMT trong 
cộng đồng dân cư Phường Khương Mai, 
Quận Thanh Xuân, Hà Nội là 1,53% (17).
Một số nghiên cứu tiến hành trên phạm 
vi các tỉnh, thành phố hoặc các nhà máy 
cho thấy: tỷ lệ mắc BPTNMT dao động từ 
2 - 7,1%. Trong đó tỷ lệ mắc ở nam cao hơn 
nữ. Tiếp xúc với khói thuốc lá, thuốc lào, bụi 
nghề nghiệp là những nguyên nhân hàng đầu 
gây BPTNMT ở Việt Nam (18, 19-22). 
Như vậy, có thể nhận thấy: tỷ lệ mắc 
BPTNMT thay đổi khá nhiều (từ 1,53% tới 
10%). Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới cao hơn rõ 
rệt so với nữ giới. Bên cạnh đó, còn một tỷ 
lệ không nhỏ các bệnh nhân bị bỏ sót chẩn 
đoán (11). 
Tình hình mắc đợt cấp BPTNMT:
Đợt cấp là quá trình tự nhiên trong diễn biến 
BPTNMT. Sau khi xuất hiện đợt cấp, các 
bệnh nhân có BPTNMT thường có chức năng 
thông khí phổi xấu đi rõ rệt, điểm chất lượng 
cuộc sống giảm đi so với trước khi có đợt 
cấp. Theo thống kê trung bình mỗi năm một 
bệnh nhân BPTNMT có từ 1,5 - 2,5 đợt cấp/
năm (24). Trong đó bệnh nhân FEV
1 
<40% là 
khoảng 2,3 lần/năm, FEV
1
 >60% chỉ khoảng 
1,6 lần/năm (25).
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi bệnh 
nhân có đợt cấp BPTNMT sẽ thường có nguy 
cơ mắc đợt cấp BPTNMT nhiều hơn. Các 
nguy cơ gây đợt cấp BPTNMT bao gồm:
Bảng 1. Yếu tố nguy cơ xuất hiện đợt cấp 
BPTNMT (29)
- Tuổi - Các bệnh lý mạn tính 
như bệnh tim mạch
- Có sử dụng các thuốc 
điều trị BPTNMT 
trước đây
- Thời gian có BPTNMT 
càng dài càng có nguy 
cơ cao có đợt cấp
- Mức độ nặng của tắc 
nghẽn đường thở
- Chất lượng cuộc sống 
kém
- Có cư trú thường 
xuyên của vi khuẩn tại 
đường thở
- Tiền sử có nhiều đợt 
cấp
- Ho khạc đờm thường 
xuyên, thở rít
- Sử dụng kháng sinh, 
corticoid toàn thân
Theo Tam Dang Tan (2017): Tần suất 
xuất hiện đợt cấp BPTNMT trên những bệnh 
nhân đã từng có đợt cấp BPTNMT là 34,3/100 
bệnh nhân/năm. Thời gian trung bình đến khi 
xuất hiện một đợt cấp là 37 tháng (27). 
Tại Việt Nam: Mặc dù chưa có nghiên 
cứu đầy đủ về tần suất đợt cấp BPTNMT, tuy 
nhiên đã có nhiều nghiên cứu cho thấy đợt 
cấp BPTNMT là nguyên nhân thường xuyên 
khiến bệnh nhân nhập viện. Tại Khoa Hô hấp 
Bệnh viện Bạch Mai trong thống kê từ năm 
1981 - 1984 VPQMT chiếm tỷ lệ 12,1% tổng 
số bệnh nhân nhập viện tại Khoa Hô hấp. Từ 
năm 1996 - 2000 theo Ngô Quý Châu và cs 
trong số 3.606 bệnh nhân vào điều trị tại Khoa 
Hô hấp tỷ lệ bệnh nhân chẩn đoán BPTNMT 
lúc ra viện chiếm 25,1%, đứng hàng đầu 
trong các bệnh lý về phổi và có 15,7% bệnh 
nhân trong số này được chẩn đoán là tâm phế 
mạn (28). Các bệnh nhân BPTNMT nhập viện 
điều trị tại bệnh viện hầu hết đều là do đợt 
cấp BPTNMT. Qua các số liệu nêu trên có thể 
thấy: tỷ lệ bệnh nhân có đợt cấp BPTNMT 
 Tổng quan
5
Hô hấp số 13/2017
liên tục tăng theo thời gian, tỷ lệ bệnh nhân 
vào điều trị tại Khoa Hô hấp Bệnh viện Bạch 
Mai đã tăng gấp hơn 2 lần sau 15 năm.
gÁNH NẶNg VÀ CHI PHÍ ĐIỀU TRị ĐỢT 
CẤP BPTNMT
Trong các chi phí điều trị BPTNMT, chi phí 
cho điều trị đợt cấp BPTNMT là chi phí quan 
trọng và tốn kém nhất.
Tại Mỹ năm 1995, ước tính tổng chi phí 
cho điều trị đợt cấp BPTNMT khoảng 1.592 
triệu đô. Trong đó chi phí trung bình cho một 
bệnh nhân điều trị ngoại trú 152 đô la/1 đợt, 
chi phí cho thuốc chỉ chiếm khoảng 11,2% 
(26). Một vài nghiên cứu thống kê cho thấy: chi 
phí điều trị tại bệnh viện chiếm 40% - 57% 
chi phí điều trị đợt cấp (30,31).
Theo David M. g. Halpin (2006): chi 
phí điều trị đợt cấp BPTNMT tại Mỹ chiếm 
40-57% tổng chi phí trực tiếp cho điều trị 
BPTNMT. Tính trung bình, mỗi bệnh nhân 
có đợt cấp BPTNMT nhập viện tiêu tốn 
7.100USD (hình 1) (32).
Theo Perera P.N, năm 2012: toàn nước 
Mỹ có 1.254.703 lần bệnh nhân nhập viện vì 
đợt cấp BPTNMT, với trung bình chi phí cho 
một đợt điều trị đợt cấp BPTNMT là: 9.545 
± 12.700USD, với tổng chi phí y tế cho đợt 
cấp BPTNMT là 11,9 tỷ USD. Như vậy, chỉ 
sau 7 năm, tổng chi phí cho điều trị đợt cấp 
BPTNMT tại Mỹ đã tăng tới 7,7 lần. Điều 
này càng cho thấy mức độ nghiêm trọng của 
chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT (33).
Tại Thụy Điển thống kê năm 2002 cho 
thấy chi phí điều trị những đợt cấp chiếm 
35-45% tổng chi phí điều trị một bệnh nhân 
BPTNMT. Trung bình chi phí điều trị hàng 
năm một đợt cấp nặng khoảng 415 USD, 
mức độ trung bình 382 USD, mức độ nhẹ 228 
USD (23). 
Hình 1. Phân bổ chi phí điều trị đợt cấp 
BPTNMT (32)
Một nghiên cứu về chi phí cho BPTNMT 
được tiến hành ở 212 bệnh nhân BPTNMT ở 
Thụy Điển, cho thấy trong toàn bộ số BN của 
nghiên cứu chỉ có 4% số bệnh nhân bệnh nặng 
nhưng chi phí cho những bệnh nhân này đã 
chiếm tới 30% tổng số chi phí của các bệnh 
nhân tham gia vào nghiên cứu. Cũng tại quốc 
gia này một nghiên cứu trên 1.510 bệnh nhân 
BPTNMT trong khoảng thời gian 01 năm thấy 
chi phí trung bình cho một bệnh nhân trong 01 
năm là 1.876 USD. Khi phân tích về chi phí trực 
tiếp các nghiên cứu cho thấy chi phí nằm viện 
chiếm 43%, chi phí cho thuốc chiếm 40%, thăm 
khám và làm các xét nghiệm chẩn đoán 17% (34). 
Theo Miravitlles M (2002): chi phí thuốc chiếm 
32% tổng chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT (35).
Tại Việt Nam, theo Ngô Quý Châu và cs 
nhận thấy: chi phí trung bình điều trị một đợt 
cấp khoảng 7,3 ± 4,6 triệu đồng. Đây thực 
sự là gánh nặng với kinh tế y tế nước ta do 
tỷ lệ mắc bệnh còn khá cao. Do đó việc xác 
định mức độ nặng, kế hoạch điều trị hợp lý và 
quản lý BPTNMT là rất quan trọng.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ mắc BPTNMT khá cao và thay đổi theo 
từng quốc gia. Đợt cấp BPTNMT là diễn biến 
tự nhiên của bệnh. Khi bệnh nhân đã có đợt 
cấp BPTNMT thì có nguy cơ xuất hiện đợt 
cấp tiếp theo cao hơn hẳn so với bệnh nhân 
chưa từng có đợt cấp BPTNMT.
 Tổng quan
6
Hô hấp số 13/2017
Chi phí điều trị đợt cấp BPTNMT 
chiếm phần quan trọng trong chi phí điều trị 
BPTNMT. Chi phí này tăng nhanh theo thời 
gian.
Tại Việt Nam: chi phí điều trị đợt cấp 
BPTNMT là gánh nặng không chỉ cho gia 
đình các bệnh nhân, mà còn là gánh nặng 
chung cho toàn xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Nseir S, Di Pompeo, C, Cavestri, B, et al (2006), 
“Multiple-drug-resistant bacter34ia in patients with 
severe acute exacerbation of chronic obstructive 
pulmona35ry disease: Prevalence, risk factors, 
and outcome (2006), “Multiple-drug-resistant 
bacteria in patients with severe acute exacerbation 
of chronic obstructive pulmonary disease: 
Prevalence, risk factors, and outcome”, Crit Care 
Med 34, pp. 2959.
2. Timothy G, Quinnell MSP, John M et al (2006), 
“Prolonged Invasive Ventilation Following Acute 
Ventilatory Failure in COPD * Weaning Results, 
Survival, and the Role of Noninvasive Ventilation”, 
CHEST 129, pp. 133 – 139.
3. Anthonisen NR MJ, Warren CPW, Hershfield ES, 
Harding GK, Nelson NA, (1987), “Antibiotic therapy 
in exacerbations of chronic obstructive pulmonary 
disease”, Ann Intern Med, 106, pp. 196-204.
4. ATS/ERS (2004), “Standard for diagnosis and 
management of patiens with COPD”, Am. J. 
.Respir, Crit Care Med, 152, pp. 8-222.
5. GOLD (2009), “Executive summary: Global Strategy 
for the Diagnosis, Managenment, and Prevention 
of COPD updated 2009”
6. Papi A, Bellettato CM, Braccioni F và cộng sự 
(2006), “Infections and airway inflammation in 
chronic obstructive pulmonary disease severe 
exacerbations. Am J Respir Crit Care Med 2006; 
173:1114–1121” Am J Respir Crit Care Med, 173, 
pp. 1114-1121.
7. Pauwels R, Calverley P, Buist AS và cộng sự 
(2004), “COPD exacerbations: the importance of a 
standard definition”, Respir Med J, 98, pp. 99-107.
8. GOLD (2017), “Executive summary: Global Strategy 
for the Diagnosis, Managenment, and Prevention 
of COPD updated 2009”
9. Menezes A, Pezez P et al (2005), “Chronic obstructive 
pulmonary disease in five Latin American cities, 
the PLATINO study): a prevalence study”, Lancet, 
366, pp. 1875 - 1881.
10. Wan C et al (2003), “COPD prevalence in 12 
Asia-Pacific countries and regions: Projections 
based on the COPD prevalence estimation 
model: REGIONAL COPD WORKING GROUP”, 
Respirology, 8, pp. 192 - 198.
11. NHLBI/WHO (2008) “Global strategy for the diagnosis, 
management and prevention of chronic obstructive 
pulmonary disease”, Workshop report, p. 90.
12. Yue C, Krista B, Nazeem M (2000), “Occurrence 
of chronic obstructive pulmonary disease among 
Canadians and sex - related risk factors”, Journal 
of Clinical Epidemiology, 53, pp. 755 - 761.
13. Societe de pneumologie de la langue francaise 
(SPLF) (2003), “Recommandations pour la prise 
en charge de la BPCO”, Rev Mal Respir, 20, pp. 
4S5 - 4S68
14. Peter F, Adrian E, Tony J (2004), “Chronic obstructive 
pulmonary disease (COPD) in Australia: An under - 
recognized and under - treated burden”, Report for 
the Australia Lung Foundation, pp. 10 – 13
15. Zhong N, Wang C, Yao W (2007), “Prevalence of 
chronic obstructive pulmonary disease in China: a 
large, population - based survey”, Am J Respir Crit 
Care Med, 176, pp. 732 – 733
16. Đinh Ngọc Sỹ và CS (2009), Dịch tễ học Bệnh 
phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) ở Việt Nam và 
các biện pháp dự phòng, điều trị, Báo cáo kết quả 
nghiên cứu đề tài cấp nhà nước.
17. Nguyễn Quỳnh Loan (2002), Nghiên cứu dịch tễ 
lâm sàng BPTNMT tại Phường Khương Mai - 
Quận Thanh Xuân - Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Y 
học, Học viện Quân Y Hà Nội.
18. Ngô Quý Châu, Chu Thị Hạnh và cộng sự (2005), 
Nghiên cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn 
tính trong dân cư thành phố Hà Nội, Báo cáo 
nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, 
Bộ Y tế.
19. Ngô Quý Châu và cộng sự (2006), Nghiên cứu dịch 
tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở một số tỉnh 
thành phố khu vực phía Bắc Việt Nam, Báo cáo đề 
tài nghiệm thu cấp bộ, Bộ Y tế.
20. Chu Thị Hạnh, Ngô Quý Châu (2007), Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng và dịch tễ học bệnh phổi 
tắc nghẽn mạn tính trong công nhân một số nhà 
máy công nghiệp Hà Nội, Luận án Tiến sỹ Y học, 
Trường Đại Học Y Hà Nội.
21. Lê Vân Anh, Ngô Quý Châu (2006), Nghiên cứu 
dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong 
dân cư thành phố Bắc Giang, Luận văn Bác sĩ 
chuyên khoa 2, Trường Đại học Y Hà Nội.
 Tổng quan
7
Hô hấp số 13/2017
22. Phan Thu Phương, Ngô Quý Châu (2009), Nghiên 
cứu dịch tễ học bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở 
khu vực ngoại thành thành phố Hà Nội và tỉnh Bắc 
GIang, Luận án Tiến sỹ Y học, Trường Đại Học Y 
Hà Nội.
23. Andersson M, Llor C, Naberan K, Cots JM, Molina 
J (2005), “Variables associated with recovery 
from acute exacerbation of chronic bronchitis and 
chronic obstructive pulmonary disease”, Respir 
Med J, 99, pp. 955-965.
24. Burge PS, Calverley PMA, Jones PW, Spencer S, 
Anderson JA, Maslen TK (2000), “randomised, 
double blind, placebo controlled study of 
fluticasone propionate in patients with moderate to 
severe chronic obstructive pulmonary disease: the 
ISOLDE trial “, Br Med J, 320, pp. 1297-1303.
25. Miravitlles M, Mayordomo C, Artés M, Sánchez-
Agudo L, Nicolau F Segú JL (1999), “treatment 
of chronic obstructive pulmonary disease and its 
exacerbations in general practice”, Respir Med J, 
93, pp. 173-179
26. Qureshi H, Sharafkhaneh A, Nicola A. (2014). 
Chronic obstructive pulmonary disease 
exacerbations: latest evidence and clinical 
implications. Ther Adv Chronic Dis 2014, Vol. 5(5) 
212–227
27. Tam Dang Tan, Zhang S, Tavares RV et al 
(2017). “The Burden of Illness Related to Chronic 
Obstructive Pulmonary Disease Exacerbations in 
Québec, Canada”. Can Respir J; 2017: 8184915.
28. Ngô Quý Châu và CS (2002), “Tình hình chẩn đoán 
và điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Khoa 
Hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong 5 năm 1996 - 
2000”, Thông tin Y học lâm sàng, NXB Y học, tr. 
50 - 58.
29. Niederman MS McCombs JS Unger AN Kumar 
A Popovian R (1999), “Treatment cost of acute 
exacerbations of chronic bronchitis”, Clin Ther, 21, 
pp. 576-591.
30. Masa JF, Sobradillo V, Villasante C et al (2004), 
“costs of chronic obstructive pulmonary disease in 
Spain: Estimation from a population-based study”, 
Arch Bronconeumol, 40, pp. 72-79.
31. Miravitlles M, Murio C, Guerrero T, Gisbert R 
(2003), “on behalf of the DAFNE study group. 
Costs of chronic bronchitis and COPD. A one year 
follow-up study”, CHEST, 123, pp. 784-791.
32. David M. G. Halpin, and Marc Miravitlles. (2006). 
“Chronic Obstructive Pulmonary Disease - The 
Disease and Its Burden to Society”. ATS Journal. 
Vol. 3, No. 7.
33. Perera P.N, Armstrong E.P, Sherrill D.L et al (2012). 
“Acute Exacerbations of COPD in the United 
States: Inpatient Burden and Predictors of Costs 
and Mortality” COPD, 9:131–141
34. World Health Organization (1999), A comprehensive 
of mortality and disability from diseases, injuries, 
and risk factors in 1990 and projected to 2020, 
World health Report. Geneva: WHO, 1999.
35. Miravitlles M, Murio C, Guerrero T, Gisbert R 
(2002), “Pharmacoeconomic evaluation of acute 
exacerbations of chronic bronchitis and COPD”, 
CHEST, 121, pp. 1449-1455.

File đính kèm:

  • pdftong_quan_tinh_hinh_mac_va_ganh_nang_dot_cap_benh_phoi_tac_n.pdf