Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu đến thời gian kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính
Thời gian kiểm toán là một vấn đề quan trọng đặt ra cho một cuộc
kiểm toán, bởi nó liên quan trực tiếp tới chi phí và chất lượng kiểm
toán. Thời gian kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất
rủi ro, đặc điểm và qui mô kinh doanh của khách hàng, trình độ, kinh
nghiệm, khả năng chuyên sâu của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán
viên đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu của khách hàng là lớn, cuộc
kiểm toán sẽ có thể cần nhiều thời gian hơn để thu thập các bằng
chứng xác đáng trước khi đưa ra ý kiến. Để đóng góp hoàn thiện hơn
vào các lý luận tại Việt Nam có liên quan đến rủi ro có sai sót trọng
yếu và thời gian kiểm toán, bài viết này tập trung tổng quan những
công trình nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót
trọng yếu đến thời gian kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ khóa: thời gian kiểm toán, rủi ro có sai sót trọng yếu, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu đến thời gian kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính
40 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu đến thời gian kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP Nguyễn Thị Thanh Mai Ngày nhận: 17/05/2018 Ngày nhận bản sửa: 14/06/2018 Ngày duyệt đăng: 24/07/2018 Thời gian kiểm toán là một vấn đề quan trọng đặt ra cho một cuộc kiểm toán, bởi nó liên quan trực tiếp tới chi phí và chất lượng kiểm toán. Thời gian kiểm toán phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính chất rủi ro, đặc điểm và qui mô kinh doanh của khách hàng, trình độ, kinh nghiệm, khả năng chuyên sâu của kiểm toán viên... Nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu của khách hàng là lớn, cuộc kiểm toán sẽ có thể cần nhiều thời gian hơn để thu thập các bằng chứng xác đáng trước khi đưa ra ý kiến. Để đóng góp hoàn thiện hơn vào các lý luận tại Việt Nam có liên quan đến rủi ro có sai sót trọng yếu và thời gian kiểm toán, bài viết này tập trung tổng quan những công trình nghiên cứu trên thế giới về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu đến thời gian kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính. Từ khóa: thời gian kiểm toán, rủi ro có sai sót trọng yếu, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện 1. Giới thiệu rong xu hướng phát triển toàn cầu và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các thực thể kinh doanh, các nền kinh tế hiện nay, để nâng cao uy tín của doanh nghiệp (DN), giúp DN tiếp cận được với những nguồn vốn tốt nhất, và cũng để cho các nhà đầu tư ra được những quyết định kinh tế hữu ích nhất thì chất lượng thông tin tài chính công bố ra bên ngoài là một trong những vấn đề quan trọng. Nền kinh tế ngày càng phát triển, các giao dịch kinh tế càng đa dạng, phức tạp thì khả năng các thông tin trên các báo cáo tài chính (BCTC) cũng có thể kém tin cậy hơn, dễ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho người sử dụng các thông tin trong việc ra các quyết định kinh tế. Chính vì vậy, kiểm toán tài chính do kiểm toán độc lập thực hiện được coi là phương thức góp phần đảm bảo sự minh bạch và công bằng của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Hiện nay, trên thế thế giới, xu QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 hướng tiếp cận kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro được áp dụng phổ biến và cũng được quy định trong các chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam. Với phương pháp này yêu cầu các KTV phải thực hiện việc đánh giá rủi ro kiểm toán (bao gồm rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu và rủi ro phát hiện) trong suốt quá trình kiểm toán (đặc biệt ở giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán), từ đó đề ra những phương hướng, chiến lược và kế hoạch kiểm toán chi tiết. Việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ảnh hưởng đến phạm vi công việc kiểm toán, số giờ kiểm toán. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung đề cập đến tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu đến số giờ kiểm toán trong kiểm toán BCTC. 2. Sự cần thiết của nghiên cứu về ảnh hưởng rủi ro có sai sót trọng yếu tới thời gian kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính Từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đến nay, những vụ bê bối tài chính trên thế giới mà nguyên nhân phần lớn xuất phát từ những gian lận trong lập BCTC của các tập đoàn đã dấy lên nghi vấn về vai trò của kiểm toán độc lập, tính phù hợp của các ý kiến kiểm toán có đảm bảo gia tăng niềm tin cho người sử dụng thông tin tài chính hay không. Điển hình nhất là trường hợp gian lận trong lập và trình bày BCTC của Tập đoàn Enron (năm 2001) và Worldcom (2002) tại Mỹ kéo theo sự sụp đổ của 1 trong 5 hãng kiểm toán lớn nhất thế giới đầu những năm 2000 là Athur Andersen, làm gia tăng sự nghi ngờ của người quan tâm đến chất lượng của các cuộc kiểm toán BCTC. Gần hơn khi nhìn về vụ sụp đổ của Ngân hàng Lehman Brothers năm 2008, mặc dù trong vụ sụp đổ này trách nhiệm của Hãng kiểm toán Ernst & Young tại Mỹ không bị cáo buộc nghiêm trọng, nhưng trong báo cáo của AntonR. Valukas, Chủ tịch của Công ty Luật Jenner & Block, đồng thời là thanh tra do Tòa án chỉ định cũng cho rằng các thủ tục kiểm toán được thực hiện bởi Ernst & Young là “cẩu thả” và các kiểm toán viên (KTV) của Hãng này đã rất “sơ suất” khi thực hiện kiểm toán. Nhiều tờ báo của Anh cũng cho rằng trong trường hợp này Ernst & Young đã thiếu sự cẩn trọng cần thiết trong xét đoán nghề nghiệp làm ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp của Hãng trên toàn cầu. Những sai lệch trong BCTC đã được kiểm toán như vậy đặt ra câu hỏi về trách nhiệm của KTV và công ty kiểm toán có liên đới hay không vẫn là những tranh cãi và chưa có kết luận cuối cùng. Theo The Wall Street Journal, tính đến tháng 7/2014, Ủy ban Giám sát kế toán các công ty đại chúng Mỹ (PCAOB) đã đưa ra thông báo phát hiện thiếu sót 15/59 cuộc kiểm toán của PwC mà cơ quan này tiến hành điều tra, với tỷ lệ 32% (trong khi tỷ lệ này năm 2013 là 39% tương ứng với 21/54 cuộc kiểm toán còn thiếu sót). Trong những thiếu sót mà PCAOB xác định trong các cuộc kiểm toán của PwC được thanh tra có thể kể đến như: Thiếu quy trình đánh giá doanh thu, thiếu phân tích về lợi thế thương mại và tài sản vô hình, thiếu sót trong kiểm tra hạch toán của công ty khách hàng về các nghiệp vụ mua bán, hay thiếu sự đánh giá cẩn trọng trong quy trình tìm hiểu khách hàng và kiểm soát nội bộ của khách hàng. Điển hình năm 2015, vụ bê bối về thao túng BCTC của Toshiba tại Nhật Bản, với sức ép từ Ban lãnh đạo của Tập đoàn này đã thổi phồng lợi nhuận từ năm 2008 đến năm 2015 lên tới ít nhất 1,2 tỷ USD. Trong vụ này, kiểm soát nội bộ của Toshiba đã bị vô hiệu, và mục tiêu về lập BCTC đáng tin cậy đã không đạt được. Tuy nhiên, Ernst & Young ShinNihon Nhật Bản đã thiếu cẩn trọng và xét đoán nghề nghiệp trong việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu. Vì vậy, các cơ quan quản lý tài chính Nhật Bản đã phạt hãng kiểm toán này 17,4 triệu USD (tương đương mức phí kiểm toán 2 năm) và đình chỉ hãng không được ký thêm hợp đồng kiểm toán mới trong 3 tháng. Tại Việt Nam, những năm gần đây cũng có không ít vụ việc liên quan đến gian lận của các công ty, đặc biệt các công ty niêm yết. Điển hình là chất lượng ý kiến của KTV liên quan đến một số công ty niêm yết như trường hợp cổ phiếu của Công ty CP Dược phẩm Viễn Đông (mã chứng khoán DVD), Công ty CP Bông Bạch Tuyết, hay gần đây là vụ bê bối liên quan đến đánh giá hàng tồn kho và dự phòng các khoản phải thu khó đòi của Công ty CP Gỗ Trường Thành (mã chứng khoán TTF) do KTV QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 42 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 Công ty TNHH Kiểm toán Ernst & Young phát hiện (nhưng trước đó, hãng kiểm toán DFK lại không phát hiện ra những sai phạm trọng yếu liên quan đến DN này). Những trường hợp trên đã gây hậu quả nặng nề cho nhà đầu tư, dẫn đến nghi ngờ về chất lượng ý kiến kiểm toán thực sự của các KTV. Sau sự kiện của DVD, lần đầu tiên Ủy ban Chứng khoán đưa ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 3 KTV các công ty kiểm toán có liên quan. Vụ việc này đã phần nào giải tỏa những nghi ngờ của nhà đầu tư và thị trường về những “nghi án” liên quan đến chất lượng kiểm toán tại các DN niêm yết, công ty chứng khoán. Tuy nhiên, vấn đề nhiều chuyên gia đặt ra là, ngoài trách nhiệm của KTV trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán, thì còn vai trò quan trọng của khâu soát xét chất lượng, thực hiện đánh giá rủi ro, đại diện ban giám đốc công ty kiểm toán ký báo cáo kiểm toán. Các vụ việc trên đặt ra nhiều vấn đề về chất lượng kiểm toán BCTC tại các công ty kiểm toán độc lập không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Đặc biệt, với một thị trường kiểm toán mà sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các hãng kiểm toán trong nước với nhau, giữa các hãng kiểm toán quốc tế, trong đó có sự cạnh tranh giữa Big4 (Big4- bốn hãng kiểm toán lớn nhất trên thế giới và tại Việt Nam là PwC, KPMG, E&Y, Deloitte). Với sự cạnh tranh mạnh mẽ này thì những yếu tố liên quan đến chi phí trực tiếp để thực hiện cuộc kiểm toán là vấn đề quan trọng đối với nhiều hãng kiểm toán, trong đó có thời gian thực hiện kiểm toán. Việc sắp xếp, lên kế hoạch cho số giờ thực hiện một cuộc kiểm toán ảnh hưởng đến khối lượng, phạm vi công việc mà các KTV thực hiện. Điều này dẫn đến khả năng liệu KTV đảm bảo thực hiện được đầy đủ các thủ tục theo hướng dẫn của chuẩn mực kiểm toán hay không, từ đó có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cuộc kiểm toán. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới thời gian thực hiện một cuộc kiểm toán. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung tổng quan về rủi ro có sai sót trọng yếu ảnh hưởng tới thời gian kiểm toán. Nghiên cứu góp phần giúp các hãng kiểm toán và các KTV có được những quyết định phù hợp trong việc cân đối giữa thời gian kiểm toán và chất lượng kiểm toán, bên cạnh đó cũng góp phần củng cố thêm vào lý luận về kiểm toán báo cáo tài chính do KTV độc lập thực hiện. 3. Tổng quan các nghiên cứu nước ngoài về mối quan hệ của rủi ro có sai sót trọng yếu với thời gian kiểm toán Nghiên cứu về thời gian kiểm toán trên thế giới hiện nay chưa nhiều, tại Việt Nam theo tìm hiểu của tác giả chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề này. Những nghiên cứu trong những năm gần đây trên thế giới đã chỉ ra rằng thời gian KTV sử dụng để thực hiện cuộc kiểm toán phụ thuộc vào số lượng khách hàng và bởi chính KTV. Các nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán đã tập trung vào các vấn đề rủi ro kiểm toán, rủi ro kinh doanh có liên quan đến KTV, kinh nghiệm của kiểm toán viên, xét đoán chuyên môn của KTV. Trong giới hạn bài viết này, tác giả tập trung đề cập đến rủi ro có sai sót trọng yếu và tác động của nó đến thời gian kiểm toán. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam (VSA) Số 200, Mục tiêu tổng thể của KTV, Đoạn 13 có trình bày “Rủi ro kiểm toán: Là rủi ro do KTV đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán là hệ quả của rủi ro có sai sót trọng yếu (gồm rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát) và rủi ro phát hiện”. Cũng trong Đoạn 13 này có quy định “Rủi ro có sai sót trọng yếu: Là rủi ro khi báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu trước khi kiểm toán”. Rủi ro có sai sót trọng yếu bao gồm hai bộ phận là rủi ro tiềm tàng (RRTT) và rủi ro kiểm soát (RRKS), trong đó “Rủi ro tiềm tàng: Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có, do khả năng cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh có thể chứa đựng sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, trước khi xem xét đến bất kỳ kiểm soát nào có liên quan” và “Rủi ro kiểm soát: Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, đối với cơ sở dẫn liệu của một nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay thông tin thuyết minh mà kiểm soát nội bộ của đơn vị không thể ngăn chặn hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”. Rủi ro phát hiện là thành QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 phần duy nhất trong ba yếu tố của rủi ro kiểm toán bị ảnh hưởng bởi chính KTV, KTV sẽ phải đánh giá RRTT và RRKS để xác định khả năng xảy ra sai sót trọng yếu ở cấp độ BCTC và cấp độ cơ sở dẫn liệu, từ đó xác định rủi ro phát hiện cần thiết để duy trì rủi ro kiểm toán cho cuộc kiểm toán ở mức thấp có thể chấp nhận được. Thứ nhất, ảnh hưởng của rủi ro tiềm tàng, rủi ro tiềm tàng bị ảnh hưởng bởi môi trường pháp lý, đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất phức tạp trong các nghiệp vụ, của đơn vị. VSA 315 (cả ISA 315) yêu cầu KTV khi lập kế hoạch kiểm toán phải đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu của đơn vị được kiểm toán thông qua việc tìm hiểu, đánh giá đặc điểm hoạt động, kinh doanh và kiểm soát nội bộ (KSNB) của đơn vị, từ đó thiết kế chiến lược, chương trình kiểm toán, qua đó sẽ tác động đến quyết định lựa chọn, phân bổ thời gian kiểm toán phù hợp và hiệu quả, hiệu suất cho cuộc kiểm toán. Trong các nghiên cứu trước đây của các tác giả Asthana (2010, Lee (2008) hay Blokdijk (2006), Ashton (1989) đề cập đến vấn đề về rủi ro kiểm toán có tác động đến thời gian KTV sử dụng cho cuộc kiểm toán. Nghiên cứu của Lee (2008) và Asthana (2010) cung cấp một số bằng chứng rằng thời gian kiểm toán tăng lên khi khách hàng kiểm toán có nhiều đơn vị và chi nhánh phải lập báo cáo. Các công ty hoạt động trong nhiều phân khúc thị trường hơn hoặc tham gia vào các hoạt động ở nước ngoài được xem là phức tạp hơn. Sự phức tạp này cũng dẫn đến KTV phải nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành, có thể là dưới hình thức rà soát lại công việc của nhóm kiểm toán, hoặc KTV khác, hoặc thu thập thêm các bằng chứng kiểm toán cần thiết. Tuy nhiên, một số nghiên cứu thì lại chỉ ra rằng cũng có mối liên hệ cùng chiều hoặc không có mối liên kết nào giữa tính phức tạp trong hoạt động và thời gian kiểm toán. Cụ thể, nghiên cứu của Hackenbrack và Knechel (1997) phát hiện ra các giám đốc kiểm toán (partner) sẽ tốn thời gian nhiều hơn cho những khách hàng có nhiều chi nhánh, đây là một yếu tố làm gia tăng tính phức tạp trong hoạt động của đơn vị, làm tăng RRTT. Liên quan đến các BCTC phức tạp, các BCTC chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng khác nhau và phải tuân thủ các chuẩn mực kế toán khác nhau và có thể phải tuân theo các chuẩn mực kiểm toán cụ thể vì phải yêu cầu các loại thủ tục kiểm toán và bằng chứng khác nhau. Vì vậy, đối với các khoản mục cụ thể mà có sự phức tạp, KTV thường phải sử dụng thời gian kiểm toán nhiều hơn. Các nghiên cứu trước đây chỉ ra mức độ hàng tồn kho, các khoản phải thu thì thời gian thực hiện kiểm toán lâu hơn (Asthana, 2010; Davidson và Gist, 1996). Thời gian kiểm toán cũng lâu hơn đối với các khoản mục bất thường vì KTV cần phải xác minh việc phân loại và đo lường các khoản mục đó, và vì vậy cần thêm thời gian kiểm toán (Ashton và cộng sự, 1989; Bamber và cộng sự, 1993). Cuộc kiểm toán cũng kéo dài hơn với sự có mặt của các khoản mục bất thường bởi vì KTV cần phải xác minh tính phân loại và đo lường các khoản mục này, vì vậy, dẫn đến yêu cầu thời gian kiểm toán bổ sung thêm (Ashton, 1989; Bamber, 1993). Tuy nhiên, KTV sử dụng nhiều thời gian hơn khi đưa ra ý kiến không phải dạng chấp nhận toàn phần (Asthana, 2010). Schwartz và Soo (1996), Lai và Cheuk (2005) cũng đưa ra những bằng chứng tương tự cho thấy độ trễ của cuộc kiểm toán sẽ dài hơn với sự hiện diện của ý kiến kiểm toán về vấn đề hoạt động liên tục. Thêm vào đó, một số ít các nghiên cứu cũng khảo sát các tình huống bất ngờ phát sinh, nhưng không tìm thấy bằng chứng có hệ thống rằng sự hiện diện của các sự kiện đó có ảnh hưởng đến độ trễ của kiểm toán ( ... doanh có thể tạo động cơ để ban giám đốc đơn vị thực hiện các vi phạm đối với BCTC. Động cơ này làm tăng rủi ro có sai sót trọng yếu và hạn chế hiệu quả của việc mở rộng các kết quả của các thủ tục kiểm toán giữa niên độ đến ngày kết thúc kỳ báo cáo. Do đó, KTV phải đối mặt với sự gia tăng rủi ro có sai sót trọng yếu có thể làm chậm lại các thủ tục kiểm toán cũng như phần lớn công việc để làm giảm rủi ro này. Trong nghiên cứu về các nhân tố tác động đến thời gian thực hiện các thủ tục kiểm toán giữa niên độ và kiểm toán chính thức, Bilal Makkawi và Mohammad Abdolmohammadi (2004) đã khảo sát ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ báo cáo tài chính trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Sử dụng tình huống liên quan đến chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp có liên quan đến hàng tồn kho, các tác giả đã kết nối với 48 KTV để đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu. Các tác giả thấy rằng KTV đã kết hợp việc đánh giá của họ trong việc lập kế hoạch về tổng số giờ kiểm toán và thời gian thực hiện các thủ tục kiểm toán sơ bộ và kiểm toán chính thức. Tiếp theo, các tác giả đã phân loại các KTV theo mức độ kinh nghiệm, mức độ chấp nhận cho những tình huống mơ hồ không rõ ràng và phân tích ảnh hưởng của các biến số này trong việc lập kế hoạch kiểm toán. Kết quả chỉ ra rủi ro có sai sót trọng yếu có ý nghĩa thống kê đáng kể trong việc giải thích sự thay đổi của tổng số giờ kiểm toán và thời gian thực hiện kiểm toán. Tuy nhiên, kinh nghiệm và mức độ chấp nhận cho những tình huống mơ hồ không rõ ràng cũng có ý nghĩa trong việc giải thích sự chênh lệch trong tổng số giờ kiểm toán theo kế hoạch đối với công việc kiểm toán tổng thể. Kết quả này cũng chỉ ra KTV thiếu kinh nghiệm với mức độ chấp nhận cho sự mơ hồ không rõ ràng thấp thì thủ tục kiểm toán sẽ nhiều hơn so với KTV có kinh nghiệm với mức độ chấp nhận cho sự mơ hồ không rõ. Ngoài ra, dựa vào nghiên cứu của Whittred (1980) cho thấy KTV sẽ dành thời gian nhiều hơn khi phát hành báo cáo kiểm toán về dấu hiệu hoạt động liên tục cho lần đầu tiên. Các nghiên cứu trước đây đưa ra nhận định, độ trễ của cuộc kiểm toán sẽ ngắn hơn đối với các công ty tài chính và dài hơn đối với công ty phi tài chính (ví dụ Newton và Ashton, 1989; Bamber và cộng sự, 1993; Schwartz và Soo, 1996; Knechel và Payne, 2001). Ashton (1989) lại đưa ra gợi ý nếu so sánh về mặt tiền tệ thì tài sản tài chính được kiểm toán dễ dàng hơn so với tài sản phi tài chính. Thứ hai, ảnh hưởng của rủi ro kiểm soát, rủi ro kiểm soát bị gây ra bởi các yếu tố thuộc về KSNB của đơn vị như môi trường kiểm soát, quy trình đánh giá rủi ro, các hoạt động kiểm soát, hệ thống thông tin truyền thông, giám sát kiểm soát. Murphy (1994) cho rằng hiệu quả tích cực của chất lượng kiểm soát nội bộ trong việc giảm thời gian kiểm toán đối với các công ty tài chính có thể là do sự phức tạp của hệ thống thông tin và môi trường pháp lý nghiêm ngặt của ngành tài chính khiến cho KTV phải dựa vào kiểm soát nội bộ. Rất ít nghiên cứu về hoạt QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 194- Tháng 7. 2018 động kiểm toán đưa ra báo cáo rằng thời gian kiểm toán ngắn hơn đối với các công ty tài chính (ví dụ Hackenbrack và Knechel, 1997; Luehlfing và cộng sự, 1995). Tuy nhiên, các nghiên cứu sau đó sử dụng dữ liệu sau năm 2000 không tìm thấy mối liên hệ ngược chiều giữa ngành tài chính và thời gian kiểm toán (ví dụ như Asthana, 2010; Ettredge và cộng sự, 2006). Ettredge và cộng sự (2006) đã quan sát sự chậm trễ của cuộc kiểm toán đối với các công ty tài chính trong năm 2003 cho thấy đây có thể là do sự phức tạp ngày càng tăng của các công cụ tài chính trong thập kỷ đó. Do tính chất khác nhau của hoạt động kiểm toán trong từng giai đoạn, nên khoản mục BCTC có những ảnh hưởng khác nhau trong giai đoạn lập kế hoạch, giai đoạn thực hiện và giai đoạn kết thúc kiểm toán. Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán, các giám đốc kiểm toán (partner) và chủ nhiệm kiểm toán (manager) có thể phải đàm phán với khách hàng để thực hiện các điều chỉnh mà KTV phát hiện được trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Mặc dù một số điều chỉnh có thể được thực hiện và giải quyết ngay trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, nhưng một số vấn đề khác có thể mất hàng tuần hoặc hàng tháng để giải quyết, sự khác biệt giữa KTV và khách hàng ở đây thường liên quan về các vấn đề kế toán sẽ có khả năng gia tăng khi có ít hướng dẫn rõ ràng từ các chuẩn mực, và các vấn đề chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan trong xét đoán (Salleh và Stewart, 2007). Đối với rủi ro kiểm soát, kiểm soát nội bộ là yếu tố chính mà KTV cân nhắc khi thực hiện kiểm toán. Lý thuyết kiểm toán đưa ra mô hình rủi ro kiểm toán là hàm số của rủi ro tiềm tàng (inherent risk), rủi ro kiểm soát (control risk) và rủi ro phát hiện (detection risk). Khi kiểm soát nội bộ có hiệu lực, KTV có thể tin tưởng vào kiểm soát nội bộ và giảm bớt khối lượng của các thử nghiệm cơ bản (substantive test). Các bằng chứng hiện có ủng hộ quan điểm cho rằng khi KTV có thể thực hiện một số công việc kiểm toán sơ bộ trong năm (interim), thì độ trễ trong kiểm toán khi thực hiện vào cuối năm sẽ giảm (Ashton và cộng sự, 1987; Knechel và Payne, 2001). Stein và cộng sự (1994) cho thấy sự tin tưởng vào kiểm soát nội bộ gắn liền với việc giảm số giờ kiểm toán của nhóm kiểm toán khi tính vào giờ kiểm toán khách hàng. Mặt khác, khi kiểm soát nội bộ không có hiệu lực, KTV phải thực hiện một số lượng đáng kể các thử nghiệm cơ bản tại cuộc kiểm toán cuối năm (kiểm toán chính thức) để bù đắp cho kiểm soát nội bộ kém, dẫn đến sự chậm trễ trong giai đoạn thực hiện kiểm toán lâu hơn. Các lý thuyết hiện tại cũng cung cấp bằng chứng cho rằng kiểm soát nội bộ kém hơn có liên quan đến sự chậm trễ trong kiểm toán lâu hơn (Ashton và cộng sự, 1987). Mặc dù các ý kiến đưa ra ở trên chỉ ra rằng RRKS cao có liên quan đến số lượng các thử nghiệm cơ bản nhiều hơn, và theo đó ảnh hưởng đến số lượng công việc thực hiện kiểm toán tại khách hàng. Khi các thử nghiệm được thực hiện nhiều trong giai đoạn thực hiện kiểm toán ở khách hàng bởi RRKS cao đưa ra gợi ý rằng, việc thực hiện soát xét nhiều hơn và phải nỗ lực nhiều hơn trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán có thể sẽ là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo cuộc kiểm toán đạt chất lượng, hoặc cũng có thể do KTV không tập trung đánh giá rủi ro kiểm soát và chỉ tập trung vào thực hiện các thử nghiệm cơ bản trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Blokdijk và cộng sự (2006) đã tìm ra bằng chứng rằng sự tin tưởng vào kiểm soát nội bộ (RRKS thấp) giúp giảm số giờ làm việc trong giai đoạn kết thúc kiểm toán của KTV trong 5 hãng kiểm toán lớn nhất (Big5). Mặc dù có các kết quả khác nhau, nhưng vẫn có lý do hợp lý để đưa ra những biện luận rằng về cân đối thời gian, KTV cũng vẫn cần thận trọng khi kiểm toán với những khách hàng có kiểm soát nội bộ yếu kém. Về mặt tổng thể, tác giả đánh giá rủi ro tiềm tàng gây ra bởi tính phức tạp của các hoạt động và các vấn đề về lập BCTC (ví dụ, các công cụ tài chính, nguồn tài nguyên thiên nhiên, suy giảm giá trị tài sản sinh học, tài sản vô hình, báo cáo kiểm toán về hoạt động liên tục lần đầu tiên) và rủi ro kiểm soát có liên quan đến độ dài thời gian kiểm toán. 4. Kết luận và gợi ý hướng nghiên cứu Như vậy, trong giới hạn tổng quan nghiên cứu QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 về ảnh hưởng của rủi ro có sai sót trọng yếu tới thời gian kiểm toán trong kiểm toán BCTC, các tác giả đưa ra giả thuyết rằng thời gian kiểm toán sẽ gia tăng khi rủi ro có sai sót trọng yếu tăng lên và kiểm chứng giả thuyết này. Cụ thể hơn, thời gian kiểm toán tăng khi đơn vị kiểm toán có sự phức tạp trong hoạt động kinh doanh, quy trình lập BCTC và KSNB của đơn vị được đánh giá là yếu kém. Tác giả dự kiến thực hiện nghiên cứu với giả thuyết thời gian kiểm toán sẽ gia tăng khi rủi ro có sai sót trọng yếu tăng lên- trường hợp tại Việt Nam. Việc phỏng vấn sâu các chuyên gia, các KTV cao cấp, điều tra, khảo sát và kiểm định bằng các mô hình định lượng để kiểm chứng cho giả thuyết trên sẽ được tác giả thực hiện trong nghiên cứu tiếp theo. Thời gian kiểm toán đóng vai trò quan trọng quyết định đến tính hiệu quả, hiệu năng của cuộc kiểm toán trong kiểm toán BCTC, đặc biệt đối với kiểm toán độc lập. Nghiên cứu về các Tài liệu tham khảo 1. Abernathy, J.L.,B.Beyer, and C.M.Stefaniak, 2011, Audit Committee Directors’ Financial expertise and Audit Report lag. Working paper, Oklahoma State University. 2. Asthana, S., 2010, Interpretation of abnormal audit delays: implications for earnings quality and firm value. Working paper, University of Texas. 3. Ashton, R.H., P.R.Graul, and J.D.Newton. 1989. Audit delay and the timeliness of corporate reporting. Contemporary Accounting Research 5: 657-673. 4. Bamber, E.M., L.S. Bamber, and J.H.Bylinski. 1988. A descriptive study of audit managers’ working paper revies. Auditing: A Journal of Practice and Theory 7: 137-149. 5. Blokdijk, H.,F.Drieenhuizen, D.A.Simunic, and M.T Stein, 2006, An analysis of cross-sectional differences in Big and Non- Big Public Accounting Firm’s Audit Programs, Auditing: A Journal of Practice and Theory 25: 27 – 28. 6. DeAngelo, L.E, 1981, Auditor size and audit quality, Journal of Accounting and Economics 3 (December). 7. E.Michael Bamber, Rober J.Ramsay, 1997, An investigation of the Effects of Specialization in Audit Workpaper Review, Contemporary Accounting Research. 8. Hackenbrack, K. And W.R.Knechel, 1997, Resource Allocation Decisions in Audit Engagements, Contemporary Accounting Research 14. 9. Lee,H., V.Mande, and M.Son, 2009, Do Lengthy Auditor Tenure and the Provision of Non-Audit Service by the External Auditor Reduce Audit Report Lags? International Journal of Auditing 13. 10. Knechel, W.R. and D.S Sharma. 2008. Auditor-Provided Non-Provided Non-Audit Services and Audit Effectiveness and Efficiency: Evidence from pre- and post-SOX Audit Report Lags. Working paper, University of Florida and Florida International University. 11. Myers, J.N, L.A.Myer, and T.C Omer, 2003, Exploring the term of the auditor-client relationship and the quality of earnings: A case for mandatory 21auditor rotation?, The Accounting Review 78 (3). Thông tin tác giả Nguyễn Thị Thanh Mai, Thạc sỹ Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Email: maintt@hvnh.edu.vn Summary Literature review on the impact of the risk of material misstatements on audit time in the audit of financial statements In Vietnam, there are not many researches on audit time in the financial audit. This is an important issue that affects the ability to detect material misstatements, thereby influencing the quality of financial audit. To better contribute to theories in Vietnam relating to the financial auditing, the author focuses on exploring the effects of risks of material misstatements to audit time in financial auditing. Key works: audit time, financial audit, independent audit, risk of material misstatements, inherent risk, control risk, detection risk, complex transactions. Mai Thi Thanh Nguyen, M.Acc. Accounting and Auditing Faculty, Banking Academy xem tiếp trang 54 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 194- Tháng 7. 2018 Thông tin tác giả Nguyễn Quốc Nghi, Tiến sĩ Đại học Cần Thơ Email: quocnghi@ctu.edu.vn Summary The effects of stress on the work performance of the employees in the banking sector In this study, Structural Equation Modeling (SEM) was used in the study aiming to test the effects of stress on the work performance of bank employees. The research data were collected by direct interview of 253 employees working in the banking system. Research results indicated that work pressures, higher pressures, income pressures, time pressures, relationships and working conditions are factors that contribute to job stress. Research has shown that job stress negatively impacts job performance. A number of recommendations have been proposed to help manage stress and improve work performance for bank employees. Keywords: stress on the work, performance, employees, bank. Nghi Quoc Nguyen, PhD. Cantho University nhân tố tác động đến thời gian kiểm toán có thể sẽ đóng góp vào lý luận về kiểm toán BCTC tại Việt Nam, vì hiện nay chưa có công trình nào trong nước đề cập đến vấn đề này. Bên cạnh đó, tác giả kỳ vọng từ tổng quan nghiên cứu được tổng hợp từ bài viết này sẽ giúp tác giả có những định hướng rõ ràng hơn để đi sâu vào tìm hiểu và giúp các chuyên gia trong lĩnh vực tại Việt Nam có những gợi ý nhằm thực hiện cuộc kiểm toán hiệu quả, sử dụng nguồn lực kiểm toán hợp lý mà vẫn đảm bảo chất lượng kiểm toán ở mức độ cao. ■ tiếp theo trang 46 HOSE. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí của S&P, hệ thống pháp luật Việt Nam về CBTT và điều kiện của TTCK Việt Nam, chỉ số CBTT đã được xây dựng để đo lường mức độ CBTT của các công ty niêm yết trên HOSE. Sử dụng số liệu của 207 công ty trong năm 2015, kết quả cứu cho thấy mức độ CBTT bình quân của các công ty là 73,1 điểm. Ngoài ra, kết quả phân tích hồi quy đã chỉ ra rằng quy mô HĐQT và tỷ lệ nữ trong HĐQT có mối tương quan thuận với mức độ CBTT của các công ty. Ngược lại, việc kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc/giám đốc làm giảm mức độ CBTT của các công ty. Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra rằng quy mô công ty và tỷ suất lợi nhuận có mối tương quan thuận với mức độ CBTT của tiếp theo trang 38 các công ty. Cuối cùng, nghiên cứu còn chỉ ra rằng các công ty được kiểm toán bởi một trong bốn công ty kiểm toán lớn nhất (Big 4) có mức tài chính khi về hưu, vừa đáp ứng được nhu cầu đầu tư tăng trưởng. Trên cơ sở tài khoản hưu trí được ủy thác và quản lý bởi các tổ chức quản lý quỹ, sinh lời của khoản tiền hưu trí sẽ được theo dõi và báo cáo thường xuyên. Người lao động sẽ chủ động được khoản thu nhập mình sẽ nhận trong tương lai thông qua các quỹ hưu trí. Thêm vào đó, tham gia quỹ hưu trí, khoản tiền tiết kiệm trên tài khoản hưu trí của người lao động sẽ được miễn thuế. Bốn là, tăng cường chính sách miễn giảm thuế. Cần thiết có chính sách ưu đãi thuế đối với người lao động và doanh nghiệp tham gia vào quỹ hưu trí. Đây là yếu tố cốt lõi để thu hút các đối tượng tham gia vào quỹ hưu trí trong thời gian đầu mới thành lập loại hình quỹ này. Hiện nay với Nghị định 88/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 về Chương trình Hưu trí bổ sung tự nguyện, chính sách ưu đãi thuế của chính phủ chưa thực sự hấp dẫn các đối tượng tham gia. Cụ thể, mức miễn thuế tối đa cho phép hiện nay chỉ là 1 triệu đồng/tháng, được áp dụng cho cả người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia vào quỹ hưu trí tự nguyện. ■ tiếp theo trang 29
File đính kèm:
- tong_quan_nghien_cuu_ve_anh_huong_cua_rui_ro_co_sai_sot_tron.pdf