Tổng quan Cập nhật chẩn đoán và điều trị viêm phổi cộng đồng
VPCĐ là bệnh lý có tính thực hành cao, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chẩn đoán không dễ dàng và cần
có sự hỗ trợ của Xquang ngực, CT scan ngực và biomaerker. Vi sinh gây bệnh cơ bản không khác so với
nhận định kinh điển. Việc mở rộng các chăm sóc y tế ra ngoài bệnh viện, trong đó có cả sử dụng kháng sinh,
làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn kháng thuốc và nhiễm khuẩn không phổ biến. Trong trường hợp này, cần
áp dụng các yếu tố dự đoán để chỉ định kháng sinh hợp lý. Đánh giá mức độ nặng trước khi quyết định điều
trị là việc làm mang tính bắt buộc và đây là cơ sở để quyết định hợp lý nơi điều trị và xử trí kháng sinh tiếp
theo. Các biện pháp điều trị hỗ trợ là rất quan trọng, có tác động làm giảm tử vong, nhất là tử vong sớm. Trị
liệu kháng sinh trong VPCĐ cần hướng tới vi khuẩn gây bệnh phổ biến là S.pneumoniae và H.influenzae.
Đã có một số khuyến cáo riêng cho tình hình kháng thuốc của hai loại vi khuẩn gây bệnh này ở Việt Nam
cần được xem xét áp dụng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan Cập nhật chẩn đoán và điều trị viêm phổi cộng đồng
2 Hô hấp số 19/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm phổi cộng đồng (Community-acquired pneumonia, VPCĐ) là bệnh nhiễm trùng phổ biến và có tính thực hành cao. Nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đã xây dựng các tài liệu hướng dẫn (guideline) để chuẩn hóa thực hành và cập nhật thông tin trong bệnh lý này. Năm 2012, Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam cũng đã công bố tài liệu “Hướng dẫn xử trí các bệnh nhiễm trùng hô hấp dưới không do lao” trong đó có 1 chương về viêm phổi cộng đồng. Nhìn chung tài liệu kể trên được biên soạn theo cách khuyến cáo dựa trên y học bằng chứng, cách mà các tài liệu hướng dẫn quốc tế sử dụng. Tuy nhiên, nhiều vấn đề trong thực hành VPCĐ thiếu các nghiên cứu có bằng chứng khuyến cáo mạnh, nhất là khi còn thiếu các nghiên cứu trong nước, nên việc xây dựng tài liệu Tổng quan CẬP NHẬT CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG TS.BS NGUyễN VăN THÀNH PCT Hội Phổi Việt Nam, PCT Hội Hô hấp Việt Nam E-mail: [email protected] Tóm tắt VPCĐ là bệnh lý có tính thực hành cao, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chẩn đoán không dễ dàng và cần có sự hỗ trợ của Xquang ngực, CT scan ngực và biomaerker. Vi sinh gây bệnh cơ bản không khác so với nhận định kinh điển. Việc mở rộng các chăm sóc y tế ra ngoài bệnh viện, trong đó có cả sử dụng kháng sinh, làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn kháng thuốc và nhiễm khuẩn không phổ biến. Trong trường hợp này, cần áp dụng các yếu tố dự đoán để chỉ định kháng sinh hợp lý. Đánh giá mức độ nặng trước khi quyết định điều trị là việc làm mang tính bắt buộc và đây là cơ sở để quyết định hợp lý nơi điều trị và xử trí kháng sinh tiếp theo. Các biện pháp điều trị hỗ trợ là rất quan trọng, có tác động làm giảm tử vong, nhất là tử vong sớm. Trị liệu kháng sinh trong VPCĐ cần hướng tới vi khuẩn gây bệnh phổ biến là S.pneumoniae và H.influenzae. Đã có một số khuyến cáo riêng cho tình hình kháng thuốc của hai loại vi khuẩn gây bệnh này ở Việt Nam cần được xem xét áp dụng. Abstract Update diagnosis and treatment of community- acquired pneumonia CAP is a highly practical pathology, however, in many cases, diagnosis is not easy and requires the support of chest X-ray, chest CT scan and biomaerker. Microorganisms that cause disease are not as different as the classics. The expansion of out-of-hospital medical care, including the use of antibiotics, increases the risk of uncommon pathogens infections and antibiotic resistance. In this case, predictive factors should be used to specify appropriate antibiotics. The assessment of the severity before deciding to treat is mandatory and this is the basis to rationally decide where to treat and then antibiotic for patient. Supportive treatment measures are very important and have an impact on reducing mortality rate, especially early deaths. Antimicrobial therapy in CAP should be directed towards the common pathogenic bacteria, S.pneumoniae and H.influenzae. There have been some specific recommendations for the drug resistance situation of these two type of bacteria in Vietnam to be considered for application. Tổng quan 3 Hô hấp số 19/2019 hướng dẫn dựa trên bằng chứng cũng có những nhược điểm. Bài viết này nhằm tổng quan các tài liệu hướng tới nhấn mạnh các quan điểm thực hành đồng thời cũng đề cập tới các dữ liệu cập nhật, các dữ liệu trong nước trong khoảng thời gian 2012 tới nay. 2. CHẨN ĐOÁN VI SINH VÀ VI SINH GÂy BỆNH Mặc dù là bệnh nhiễm trùng và vai trò của chẩn đoán vi sinh gây bệnh là rất quan trọng trong xử trí nhưng chẩn đoán vi sinh gây bệnh trong thực tế có rất nhiều trở ngại về tính đặc hiệu của kết quả vi sinh, nhiều tác nhân vi sinh gây bệnh không xét nghiệm được bằng các phương pháp thường quy và thời gian có kết quả thông thường chậm so với yêu cầu lâm sàng. Do vậy, các kết quả phân tích vi sinh mang nhiều tính nghiên cứu, hồi cứu và không được khuyến cáo thực hiện thường quy, nhất là trên những trường hợp không nặng và không nhập viện. Trong khoảng 1 thập niên trở lại đây, xét nghiệm vi sinh bằng phương pháp sinh học phân tử, còn gọi là phản ứng chuỗi định lượng (quantitative PCR) đã bổ sung một cách nhìn tổng thể vào quan niệm vi sinh gây bệnh kinh điển, trong đó là vai trò của virus, của vi khuẩn không điển hình (atypical pathogens, AP), của các tác nhân nhóm trực khuẩn Gram(-) và đặc biệt là hiện tượng đồng nhiễm (co-infecton). Năm 2013, trong một nghiên cứu phân tích hiệu quả chẩn đoán của các phương pháp chẩn đoán vi sinh, Huijskens và cs (1) nhận thấy trong VPCĐ khi sử dụng các phương pháp chẩn đoán kinh điển (như cấy đàm, dịch tiết đường hô hấp, máu, chẩn đoán miễn dịch nước tiểu và huyết thanh) chẩn đoán được trên 49,6% trường hợp nhưng nếu kết hợp PCR, hiệu quả chẩn đoán lên tới 80%. Ở Việt Nam, năm 2018, PH Vân và cs phối hợp cả nuôi cấy và PCR bệnh phẩm đàm và dịch lấy từ lỗ mũi sau trên nhiễm trùng hô hấp dưới không nhập viện cho kết quả ở ngưỡng dương tính là 94% (2). Tỷ lệ nhiễm, kể cả khi kết hợp với chẩn đoán PCR, phế cầu (S.pneumoniae) và H.influenzae là 2 vi khuẩn gây bệnh điển hình (typical pathogens) phân lập được nhiều nhất (3,4). Trên bệnh nhân nặng và nhập viện vào khoa chăm sóc đặc biệt (ICU), có vai trò đáng kể của vi khuẩn nhóm trực khuẩn đường ruột Gram(-). Vi khuẩn không điển hình phân lập được nhiều nhất là M.pneumoniae, nhất là trên VPCĐ nhẹ không nhập viện (bảng 1) (3). Vi khuẩn nhóm trực khuẩn đường ruột Gram(-) và kháng thuốc là đối tượng phân tích của nhiều nghiên cứu. Prina E và cs (năm 2015) (5) đã đề xuất khái niệm PES (P.aeruginosa, Enterobacteriaceae ESBL +, MRSA). Trong một phân tích trên 1.597 bệnh nhân viêm phổi nhập viện (gồm cả bệnh nhân tới từ nhà dưỡng lão) các tác giả ghi nhận chỉ có 6% nhiễm PES trên những trường hợp có xác định được vi sinh gây bệnh (6). Bảng 1. Vi sinh gây bệnh phổ biến trong VPCĐ (3) Tổng quan 4 Hô hấp số 19/2019 Với xét nghiệm PCR, vai trò của đồng nhiễm (co-infection) giữa vi khuẩn điển hình và vi khuẩn điển hình, vi khuẩn điển hình và vi khuẩn không điển hình, vi khuẩn và virus như thế nào vẫn còn là câu hỏi chưa có câu trả lời xác đáng (7). Trên 1.511 bệnh nhân nhập viện năm 2006, A. de Roux và cs nhận thấy 13% có phối hợp nhiễm khuẩn mà trong đó hầu hết là đồng nhiễm với S.pneumoniae, 54%. Phối hợp nhiễm khuẩn nhiều nhất là S.pneumonae với H.influenzae. Các tác giả của nghiên cứu này cũng nhận thấy bệnh nhân đồng nhiễm khuẩn có tỷ lệ sốc cao hơn (p=0,03) (8). Trong một nghiên cứu khác năm 2010, trên 1.463 bệnh nhân các tác giả nhận thấy tỷ lệ S.pneumoniae và đồng nhiễm tăng lên trên bệnh nhân nhập viện và nhập ICU trong khi vi khuẩn không điển hình giảm. Tuy nhiên các tác giả trong nghiên cứu này chỉ tìm thấy có mối tương quan giữa mức độ nặng (tính bằng thang điểm PSI: pneumonia severity index) với trực khuẩn đường ruột Gram(-) mà không thấy với các trường hợp đồng nhiễm (9). Với đặc điểm không chẩn đoán được bằng các xét vi sinh thường quy, vi khuẩn không điển hình (atypical pathogens - AP) thường là khoảng trống hiểu biết trong thực hành lâm sàng. Điều này gây trở ngại không nhỏ vì kháng sinh kinh nghiệm nhóm betalactam thường ít có hiệu quả trên các vi khuẩn không điển hình do không xâm nhập được vào bên trong tế bào nơi vi khuẩn thường tồn tại. Một nghiên cứu ở Hồng-Kông năm 2009 trên 468 bệnh nhân VPCĐ nhập viện xác định được vi sinh gây bệnh ghi nhận AP chiếm 28,6%, đơn độc hay kết hợp. Không có triệu chứng hay diễn biến khác biệt giữa những trường hợp VPCĐ do vi khuẩn điển hình và không điển hình (10). Vai trò gây bệnh của virus trong VPCĐ được lưu ý nhiều kể từ khi các kỹ thuật sinh học phân tử được áp dụng phổ biến trong chẩn đoán vi sinh. Trên 263 trường hợp VPCĐ người lớn nhập viện chẩn đoán được vi sinh, Huijskens và cs (năm 2012) nhận thấy 44,5% bệnh nhân dương tính với ít nhất một loại virus, trong đó nhiều nhất là virus cúm A và Coxiella burnetti. Đồng nhiễm virus-vi khuẩn chiếm tỷ lệ 29% các trường hợp và 13% chỉ thấy virus (11). 3. CHẨN ĐOÁN, ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NẶNG Chẩn đoán viêm phổi đôi khi khá dễ dàng với bệnh cảnh nhiễm trùng hô hấp dưới cấp tính đi kèm triệu chứng tổn thương phổi phát hiện khi khám bằng triệu chứng ran nổ và hội chứng đặc mới xuất hiện (12). Tuy nhiên chẩn đoán trong nhiều trường hợp sẽ quá mức khi chỉ dựa vào tiếng ran ở phổi hoặc bỏ sót nếu không phát hiện được triệu chứng tổn thương khi khám thực thể phổi. Trong đa số các trường hợp, cần xác định chẩn đoán viêm phổi bằng hình ảnh Xquang ngực. Tài liệu hướng dẫn thực hành Mỹ (năm 2012, American Family Physician) (3) đề nghị nên Xquang ngực khi có ít nhất một triệu chứng cơ năng: sốt, mạch nhanh, nhịp thở tăng, phổi có tiếng thở bất thường hoặc giảm thông khí. Tuy nhiên, Xquang ngực thường quy, trong một số trường hợp, cũng có thể không phát hiện được tổn thương nhu mô phổi (âm tính giả). Trong trường hợp này, CRP (C-reactive protein) tăng >100mg/L giúp xác định chẩn đoán và <20mg/L giúp loại trừ chẩn đoán (13,14). Hình ảnh Xquang ngực thông thường, tùy theo vị trí tổn thương, có hình mờ phổi bất thường. Các dấu hiệu giúp chẩn đoán hình mờ (cản tia dạng nước) như dấu hiệu bóng, phế quản hơi, hình mờ sau tim, giảm sáng hình cột sống sống sau tim trên phim nghiêng, có thể giúp chẩn đoán trong những trường hợp tổn thương không điển hình. Hình ảnh Xquang ngực không phải luôn dễ dàng xác định. Những hình tràn dịch màng phổi, tổn thương nhiều thùy dễ phát hiện hơn tổn thương thâm nhiễm khu trú, hình phế quản hơi, tổn thương hạch (15). Giá trị suy đoán căn nguyên vi sinh từ đặc điểm tổn trương trên Xquang ngực là rất hạn chế (15). Đánh giá mức độ nặng và quyết định chăm sóc cho bệnh nhân viêm phổi mắc phải tại cộng đồng là mấu chốt đảm bảo an toàn và phân bổ nguồn lực đầy đủ cho việc chăm sóc bệnh nhân. Tổng quan 5 Hô hấp số 19/2019 Đây là bước thực hành quan trọng trong VPCĐ, nhất là khi bệnh nhân khám bệnh tại bệnh viện. Nhập viện vào khoa chăm sóc đặc biệt (ICU) muộn có liên quan đến tỷ lệ tử vong gia tăng trong VPCĐ (16). Có khá nhiều nghiên cứu đã xác định các tiêu chuẩn, thang điểm đánh giá mức độ nặng. Tuy nhiên, tùy theo mục đích xác định xử trí tiếp theo như thế nào như có cần nhập viện hay không, có cần nhập ICU hay không, có nguy cơ tử vong sớm hay muộn, các thang điểm đánh giá cần được áp dụng linh hoạt (16-19). Trong điều kiện khám bệnh ngoài bệnh viện, có lẽ thang điểm CURB-65 với phiên bản đơn giản hơn là CRB-65 là thuận tiện nhưng chỉ nên sử dụng với mục tiêu xác định có cần nhập viện hay không. Ở phòng khám cấp cứu (emergency department), thang điểm SCAP đáp ứng được đánh giá ban đầu để xử trí tức thì và quyết định nhập viện vào khoa nội hay ICU. Ở các khoa nội, thang điểm PSI nên được áp dụng vì thang điểm này đề cập tới các bệnh đồng mắc và nguy cơ tử vong muộn (hình 1) (16). Hình 1. Nội dung các thang điểm đánh giá mức độ nặng VPCĐ (16) (Ô mầu vàng là các yếu tố được xác định là nguy cơ trong từng thang điểm). Chậm điều trị kháng sinh hợp lý làm tăng nguy cơ diễn biến xấu và tử vong trong VPCĐ (20). Chỉ định kháng sinh kinh nghiệm cần dựa trên các phân tích để không bỏ sót khả năng nhiễm khuẩn không phổ biến. Về việc này, ba nguyên tắc cơ bản cần xem xét đó là: 1) Có nguy cơ nhiễm khuẩn kháng thuốc hay không mà việc dự đoán chủ yếu dựa vào tiền sử điều trị kháng sinh của bệnh nhân trong 90 ngày trước đó; 2) Có nguy cơ nhiễm khuẩn ít gặp trong đó gồm cả TKGR âm và P.aeruginosa mà việc dự đoán chủ yếu dựa trên trên đánh giá cơ địa người bệnh (người già, người có bệnh mạn tính phổi, người suy giảm miễn dịch, người có nguy cơ viêm phổi hít); 3) Có nguy cơ nhiễm S.aureus hay không, nhất là MRSA chủ yếu dựa trên đánh giá nguy cơ nhiễm khuẩn qua da, niêm mạc, viêm phổi sau cúm, đặc điểm diễn biến lâm sàng và Xquang ngực. Tuy nhiên với bất luận căn nguyên vi sinh là gì, việc chỉ định kháng sinh phổ rộng và kết hợp, trên những trường hợp được đánh giá nặng là nguyên tắc do trị liệu kháng sinh giúp làm giảm nhanh tình trạng nhiễm trùng toàn thân, tránh được nguy cơ kháng thuốc và bao phủ được phổ rộng các tác nhân vi sinh gây bệnh. Do vậy, việc đánh giá mức độ nặng của bệnh lại càng rất quan trọng và cần được thực hiện đầy đủ trước khi quyết định điều trị kháng sinh. Tổng quan 6 Hô hấp số 19/2019 Bên cạnh thang điểm đánh giá mức độ nặng VPCĐ, trong những năm gần đây, việc sử dụng các dấu ấn sinh học (biomarker) trong thực hành lâm sàng, nhất là trong bệnh viện, được chú ý nhiều. Trong một phân tích tổng quan năm 2013 (21), D Viasus và cs nhận định hầu hết các biomarker đều có giá trị tiên lượng độc lập với tử vong sớm, tử vong muộn, nhập ICU và thất bại điều trị. Tuy nhiên các nghiên cứu không thống nhất được trong việc chứng minh vai trò hơn hẳn của biomarker so với các thang điểm dự đoán nhưng khi kết hợp các biomarker, trong đó có CRP, sẽ giúp làm tăng khả năng dự đoán (thể hiện bằng diện tích dưới đường cong trên phân tích ROC) (bảng 2) (21). Trong một nghiên cứu phân tích trên những trường hợp VPCĐ nặng nhập viện, Pavlina và cs (năm 2012) nhận thấy CRP tăng có mối tương quan có ý nghĩa với thang điểm CURB-65, thời gian nằm viện, thời gian sử dụng kháng sinh và kết cục lâm sàng (22). Trong một nghiên cứu khác, U. Hohenthal và cs (năm 2009) (23) còn bổ sung thêm tăng CRP khi nhập viện có khuynh hướng làm chậm thời gian bình phục (p<0,01) và tăng ở ngày thứ 4 của điều trị kết hợp có ý nghĩa với các biến chứng (p<0,001). Bên cạnh giá trị tiên lượng, CRP còn được các nghiên cứu xác định là yếu tố giúp theo dõi hiệu quả điều trị. Một nghiên cứu gần đây nhận thấy CRP giảm <50% ở ngày thứ 4-5 của điều trị kết hợp có ý nghĩa với tăng tử vong, tăng thời gian điều trị và tăng biến chứng (bảng 3 và hình 2) (24). U. Hohenthal và cs (23) còn nhận thấy CRP tăng cao nhất đối với S.pneumoniae, tăng thấp hơn nếu nhiễm AP và tăng thấp nhất khi nhiễm virus (bảng 4, hình 3). Bảng 2. Biomarker dự đoán nhập ICU qua các nghiên cứu (21) Nghiên cứu N Nồng độ huyết thanh Bệnh nhân Kết cục Bình luận Các biomarker viêm: CRP, PCT, TNF. IL- 1,6,8,10 685 Nhập viện Nhập ICU trực tiếp hoặc sau đó CRP, PCT cao hơn trên bệnh nhân nhập khoa nội hoặc chuyển ICU sau đó. ACE hoạt tính 265 < 24U/I Nhập viện Nhập ICU ACE thấp không tiên lượng nhập ICU Pro-adrenomedullin 302 Không báo cáo ED Nhập ICU AUC pro-AMD là 0,66, thấp hơn CRP, PCT, BC máu và PSI D-dimer 314 > 500ng/ml ED Thở máy hoặc vận mạch AUC D-dimer 0,66, thấp hơn CURB- 65, bằng PSI CRP 570 CRP ngày 1,4 Nhập viện Thở máy hoặc vận mạch CRP<100 kết hợp độc lập với nguy cơ thấp thở máy và vận mạch. AUC thấp hơn CURB-65, PSI Albumin 3.463 Giảm từ 5 g/l Nhập viện Nhập ICU Kết hợp độc lập với nguy cơ nhập ICU. Albumin và CRP 424 Albumin 3,3mg/ dl CRP ... h CRP (24) Đặc điểm chỉ điểm CRP (mg/L) khi chỉ điểm (+) CRP (mg/L) khi chỉ điểm (-) p Bệnh đồng mắc 138,29 ± 98,44 109,21±97,70 <0,001 Biến chứng ở phổi TDMP 142,80 ± 100,28 124,38 ± 98,39 < 0,01 Hóa hang phổi 154,86 ± 97,63 127,64 ± 99,07 < 0,05 Suy hô hấp cấp 168,28 ± 93,18 107,46 ± 95,73 < 0,001 Thâm nhiễm nhiều thùy 170,73 ± 100,62 115,25 ± 94,73 < 0,001 Điều trị ICU 176,11 ± 93,85 116,71 ± 96,77 < 0,001 Tử vong 171,85 ± 83,17 123,42 ± 99,68 < 0,001 Hình 2. Giá trị trung bình CRP và tỷ lệ tử vong (χ2 = 42,22, р<0,001) (24) Bảng 4 (trái) và Hình 3 (phải). CRP tăng ở ngày thứ nhất và diễn biến theo tác nhân vi sinh gây bệnh (23) Yếu tố người lớn tuổi, thường xác định là trên 65, được xem là nguy cơ nặng trong hầu hết các thang điểm đánh giá nặng. VPCĐ nặng, nhập viện cũng là bệnh cảnh phổ biến trên nhóm tuổi này (25). Viêm phổi trên bệnh nhân lớn tuổi thường triệu chứng ít hơn so với người trẻ và giảm tri giác là triệu chứng thường gặp (26). Các rối loạn chức năng mạn tính, bệnh đồng mắc, tình trạng hạn chế vận động, thiểu dưỡng là các kết hợp phổ biến. Ở người lớn tuổi, viêm phổi hít dễ xảy ra và chẩn đoán căn nguyên vi sinh thường khó khăn (26,27). Phân tích trên 1.474 bệnh nhân nhập viện, Fernández-Sabé và cs nhận định người rất già (>80 tuổi) viêm phổi hít nhiều hơn (27). Tuy nhiên vi sinh gây bệnh ở người già vẫn chủ yếu là S.pneumoniae (26,27) và nhiều nghiên cứu cho rằng tác nhân vi sinh gây bệnh không khác người trẻ (25, 28, 29). Tổng quan 8 Hô hấp số 19/2019 4. ĐIỀU TRỊ Trong xử trí VPCĐ, chúng ta thường quá chú ý tới chỉ định kháng sinh mà quên các tác động làm tăng tử vong, nhất là tử vong sớm. Trong một phân tích hồi cứu trên 222 bệnh nhân VPCĐ nặng do pneumococcus nhập viện (30), các tác giả cho thấy các trường hợp tử vong thường gắn liền với suy chức năng mạn tính tim, thận, gan và tỷ lệ sốc cao hơn nhóm không tử vong. Tử vong không liên quan có ý nghĩa với trị liệu kháng sinh có kết hợp hay không với macrolide và tính nhậy cảm của pneumococcus với penicilline (30). Điều này cho thấy cần chú ý tới các yếu tố nguy cơ nặng đã được ghi nhận trong các thang điểm (hình 1) để xử trí và điều này là đặc biệt cần thiết khi bệnh nhân nhập viện và ICU. Thang điểm PIRO được một nghị đồng thuận các chuyên gia quốc tế đề xuất theo ý tưởng của hệ thống phân loại TNM trong ung thư năm 2003. PIRO là chữ viết tắt của chữ thể chất (predisposition), tổn thương/nhiễm trùng (insult/ infection), đáp ứng (response) và suy tạng (organ dysfunction). Trong một nghiên cứu năm 2009, Jordi Rello và cs chuyển PIRO thành 8 yếu tố gồm: Bệnh đồng mắc (COPD, suy giảm miễn dịch); Tuổi >70; Tổn thương nhiều thùy; Sốc; Suy hô hấp nặng; Suy thận cấp; Nhiễm trùng máu; ARDS. Mỗi yếu tố là 1 điểm. Phân tích tử vong 28 ngày và các kết cục khác như thở máy, ngày điều trị, thang điểm PIRO dự đoán tốt hơn thang điểm APACHE II và ATS/IDSA (hình 4) (31). Điều đáng nói là trong các thang điểm đánh giá nặng, kể cả PIRO, chúng ta không thấy ghi nhận vai trò của kháng sinh và tác nhân vi sinh gây bệnh. Điều này cho thấy thái độ đánh giá các rối loạn trên bệnh nhân và xử trí có vai trò quan trọng để cải thiện tiên lượng sống còn hơn là kháng sinh. Đến năm 2013, nhận xét tương tự cũng đã được Teresa Cardoso và cs ghi nhận trong một nghiên cứu cohort tiến cứu trong 1 năm trên 1.035 bệnh nhân VPCĐ nhập viện (32). Hình 4. Tỷ lệ tử vong 28 ngày theo thang điểm PIRO trong VPCĐ (31) Điều trị kháng sinh trong tuyệt đại đa số các trường hợp là điều trị kinh nghiệm. Các phân tích vi sinh đều thống nhất VPCĐ chủ yếu do S.pneumoniae và H.influenzae (34). Nhìn chung, đặc điểm vi sinh phân lập được không khác giữa các thông báo trong và ngoài nước (2,4,33,34). Trong một nghiên cứu phân tích đặc điểm vi sinh phân lập được bằng áp dụng đồng thời các phương pháp xét nghiệm cấy, chẩn đoán huyết thanh và PCR năm 2014 (35), Elisabeth G. W. Huijskens và cs ghi nhận tuổi tăng và mức độ nặng tăng làm tăng khả năng phân lập được vi sinh gây bệnh, gồm cả virus, vi khuẩn và kết hợp virus-vi khuẩn (34) (hình 5). Tổng quan 9 Hô hấp số 19/2019 Hình 5. Xác suất dự đoán căn nguyên vi sinh theo tuổi với hồi quy đa biến (trái) và theo PSI với hồi quy đơn biến (phải) (34) Chiến lược kháng sinh trong thực hành lâm sàng cần phải dựa trên tình hình đề kháng kháng sinh của từng địa phương. Các nghiên cứu trong nước về tình hình kháng thuốc của S.pneumoniae và H.influenzae có những ghi nhận cơ bản: 1) S.pneumoniae có khuynh hướng tăng đề kháng với penicillin trong khoảng một thập niên trở lại đây (2,36,37); 2) H.influenzae đề kháng kháng sinh nhóm beta-lactam chủ yếu bằng cơ chế tiết ra beta-lactamase cổ điển và 3) S.pneumoniae đang gia tăng đề kháng với fluoroquinolone hô hấp (2,36,37). Với những nhận định như trên, chiến lược kháng sinh cần có những lưu ý: 1) Sử dụng beta-lactam trong điều trị S.pneumoniae với liều thích hợp để đảm bảo điểm gãy PK/PD trên MIC90 đã ghi nhận ở mức 4mcg/mL; 2) H.influenzae còn nhậy cảm tốt với kháng sinh kết hợp betalactam/kháng betalactamase; 3) S.pneumoniae giảm nhậy cảm khá cao với fluoroquinolone (bảng 5) (2). Bảng 5 . MIC90, MIC70 và MIC50 của các kháng sinh trên các vi khuẩn S.pneumoniae và H.influenzae phân lập được (2) MIC S.pneumoniae (N=65) H.influenzae (N=148) Clari Levo Moxi Ax/As Pn Clari Levo Moxi Ax/As Ax MIC90 128 16 2 4 4 32 4 4 4 64 MIC70 128 2 0,125 2 2 8 2 2 2 8 MIC50 64 1 0,125 1 1 4 1 1 1 1 Viết tắt: Clari: clarithromycin, Levo: levofloxacin, Moxi: Moxifloxacin, Ax: Amoxicillin, Pn: Penicillin, As: Amoxicillin/ sulbactam Với những phân tích như trên, trị liệu kháng sinh trong VPCĐ cơ bản là dựa trên beta-lactam/ kháng beta-lactamase. Kết hợp hay không với macrolide là tùy thuộc vào đánh giá tác động của kháng sinh trên AP và virus. Việc hạn chế sử dụng fluoroquinolone, nhất là sử dụng đơn độc, là cần Tổng quan 10 Hô hấp số 19/2019 thiết do nguy cơ gia tăng đề kháng và có thể làm chậm chẩn đoán lao phổi và gia tăng đề kháng đối với vi khuẩn lao (38). KẾT LUẬN VPCĐ là bệnh lý có tính thực hành cao, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chẩn đoán không dễ dàng và cần có sự hỗ trợ của Xquang ngực, CT scan ngực và biomaerker. Vi sinh gây bệnh cơ bản không khác như nhận định kinh điển. Việc mở rộng các chăm sóc y tế ra ngoài bệnh viện, trong đó có cả sử dụng kháng sinh, làm gia tăng nguy cơ nhiễm khuẩn kháng thuốc và nhiễm khuẩn không phổ biến. Trong trường hợp này, cần áp dụng các yếu tố dự đoán để chỉ định kháng sinh hợp lý. Đánh giá mức độ nặng trước khi quyết định điều trị là việc làm mang tính bắt buộc và đây là cơ sở để quyết định hợp lý nơi điều trị và xử trí kháng sinh tiếp theo. Các biện pháp điều trị hỗ trợ là rất quan trọng, có tác động làm giảm tỷ lệ tử vong, nhất là tử vong sớm. Trị liệu kháng sinh trong VPCĐ cần hướng tới vi khuẩn gây bệnh phổ biến là S.pneumoniae và H.influenzae. Đã có một số khuyến cáo riêng cho tình hình kháng thuốc của hai loại vi khuẩn gây bệnh này ở Việt Nam cần được xem xét áp dụng. Tài liệu tham khảo 1. Huijskens et al. (2013) Evaluation of yield of currently available diagnostics by sample type to optimize detection of respiratory pathogens in patients with a community-acquired pneumonia. Influenza and Other Respiratory Viruses DOI: 10.1111/irv.12153. 2. P.H.Vân, N.V.Thành, T.V.Ngọc, N.Đ.Duy, L.T.T.Huong, C.T.M.Thúy,L.T.K.Thảo, N.T.H.Thảo, P.T.Hương, P.Q.Camelia, P.T.Sơn. Tác nhân vi sinh gây nhiễm trùng hô hấp dưới cộng đồng cấp tính không nhập viện – Kết quả từ nghiên cứu EACRI 2007-2008 (bài đang công bố). 3. Richard R. Watkins, Tracy l. Lemonovich. Diagnosis and Management of Community- Acquired Pneumonia in Adults. Am Fam Physi cian. 2011;83(11):1299-1306 4. Kensuke Takahashi, Motoi Suzuki, Le Nhat Minh et al. The incidence and aetiology of hospitalised community-acquired pneumonia among Vietnamese adults: a prospective surveillance in Central Vietnam. BMC Infectious Diseases 2013, 13:296 5. Francisco Arancibia, Torsten T. Bauer, Santiago Ewig et al. Community-Acquired Pneumonia Due to Gram-Negative Bacteria and Pseudomonas aeruginosa Incidence, Risk, and Prognosis. Arch Intern Med. 2002;162:1849-1858 6. Tadashi Ishida, Akihiro Ito, Yasuyoshi Washio et al. Risk factors for drug-resistant pathogens in immunocompetent patients with pneumonia: Evaluation of PES pathogens. J Infect Chemother 23 (2017) 23-28 7. Maysaa El Sayed Zaki, Tarek Goda. Clinico- pathological study of atypical pathogens in community- acquired pneumonia: a prospective study. J Infect Developing Countries 2009; 3(3):199-205. 8. A. de Roux, S. Ewig, E. Garcı´a, M.A. Marcos et al. Mixed community-acquired pneumonia in hospitalised patients. Eur Respir J 2006; 27: 795– 800 9. Catia Cillo´niz, Santiago Ewig, Eva Polverino et al. Microbial aetiology of community-acquired pneumonia and its relation to severity. Thorax (2011). doi:10.1136/thx.2010.143982 10. Grace Lui, Margaret IP, Nelson Lee et al. Role of ‘atypical pathogens’ among adult hospitalized patients with community-acquired pneumonia. Respirology (2009) 14, 1098–1105 11. Huijskens et al. (2012) Viral and bacterial aetiology of community-acquired pneumonia in adults. Influenza and Other Respiratory Viruses DOI: 10.1111/j.1750-2659.2012.00425.x. 12. W S Lim, S V Baudouin, R C George et al. British Thoracic Society guidelines for the management of community acquired pneumonia in adults: update 2009. Thorax 2009;64(Suppl III):iii1–iii55 13. Falk G and Fahey T. C-reactive protein and community-acquired pneumonia in ambulatory care: systematic review of diagnostic accuracy studies. Family Practice 2009; 26: 10–21 14. Francesco Blasi, Daiana Stolz, Federico Piffer. Biomarkers in lower respiratory tract infections. Pulmonary Pharmacology & Therapeutics 23 (2010) 501-507 15. Gavin Falk, Tom Fahey. C-reactive protein and community-acquired pneumonia in ambulatory care: systematic review of diagnostic accuracy studies. Family Practice Advance Access published on 12 December 2008 doi:10.1093/ fampra/cmn095 Tổng quan 11 Hô hấp số 19/2019 16. Wim G. Boersma, Johannes MA Daniels, Alfred Lo¨wenberg et al. Reliability of radiographic findings and the relation to etiologic agents in community-acquired pneumonia. Respiratory Medicine (2006) 100, 926–932 17. Christophe Marti, Nicolas Garin, Olivier Grosgurin et al. Prediction of severe community-acquired pneumonia: a systematic review and meta- analysis. Critical Care 2012, 16:R141 18. Shin Yan Man, Nelson Lee, Margaret Ip et alProspective comparison of three predictive rules for assessing severity of community-acquired pneumonia in Hong Kong. Thorax 2007;62:348– 353. doi: 10.1136/thx.2006.069740 19. Derek C. Angus, Thomas J. Marrie, D. Scott Obrosky et al. Severe Community-acquired Pneumonia Use of Intensive Care Services and Evaluation of American and British Thoracic Society Diagnostic Criteria. Am J Respir Crit Care Med Vol 166. pp 717–723, 2002 20. Samuel M. Brown, Nathan C. Dean. Defining Severe Pneumonia. Clin Chest Med. 2011 September ; 32(3): 469–479. doi:10.1016/j.ccm.2011.05.001. 21. Diego Viasus, Antonella Simonetti, Carolina Garcia-Vidal et al. Prediction of prognosis by markers in communityacquired pneumonia. Expert Rev. Anti Infect. Ther. 11(9), 917–929 (2013) 22. Dr. Pavlina et al. C-reactive protein in community acquired pneumonia – Correlation with main clinical indices. European Respiratory Society Annual Congress 2012. Abstract Number: 1390. Publication Number: P2472 23. U. Hohenthal, S. Hurme, H. Helenius2, M. Heiro et al. Utility of C-reactive protein in assessing the disease severity and complications of community- acquired pneumonia. Clin Microbiol Infect 2009; 15: 1026–1032 24. Miteva D, Radkov Y, Kostadinova V. Role of c-reactive protein in severity assessment and monitoring of hospitalized patients with community-acquired pneumonia. World science. № 6(34), Vol.5, June 2018 25. Núria Fernández-Sabé, Jordi Carratalà, Beatriz Rosón et al. Community-Acquired Pneumonia in Very Elderly Patients Causative Organisms, Clinical Characteristics, and Outcomes. Medicine • Volume 82, Number 3, May 2003 26. Thomas J. Marrie. Community-Acquired Pneumonia in the Elderly. Clinical Infectious Diseases 2000;31:1066–78 27. Janssens JP, Krause KH. Pneumonia in the very old. Lancet Infect Dis 2004;4(2):112–124. [PubMed: 14871636] 28. John E Stupka et al. Community-acquired pneumonia in elderly patients. Aging health. 2009; 5(6): 763–774. doi:10.2217/ahe.09.74. 29. Ruiz M, Ewig S, Marcos MA, et al. Etiology of community-acquired pneumonia: impact of age, comorbidity, and severity. Am. J. Respir. Crit. Care Med 1999;160(2):397–405. [PubMed: 10430704] 30. Nicolas Mongardon, Adeline Max, Adrien, Bouglé et al. Epidemiology and outcome of severe pneumococcal pneumonia admitted to intensive care unit: a multicenter study. Critical Care 2012, 16:R155. 31. PIRO score for community-acquired pneumonia: A new prediction rule for assessment of severity in intensive care unit patients with community- acquired pneumonia. Jordi Rello, Alejandro Rodriguez, Thiago Lisboa et al. Crit Care Med 2009; 37:456–462 32. Teresa Cardoso, Armando Teixeira-Pinto, Pedro Pereira Rodrigues et al. Predisposition, Insult/ Infection, Response and Organ Dysfunction (PIRO): A Pilot Clinical Staging System for Hospital Mortality in Patients with Infection. 2031. PLoS ONE 8(7): e70806. doi:10.1371/journal. pone.0070806. 33. BTS guideline: Guidelines for the Management of Community Acquired Pneumonia in Adults. Update 2009. www.brit-thoracic.org.uk/clinical-information/ pneumonia/pneumonia-guidelines 34. Elisabeth G. W. Huijskens et al. The value of signs and symptoms in differentiating between bacterial, viral and mixed aetiology in patients with community-acquired pneumonia. Journal of Medical Microbiology (2014), 63, 441–452 35. Hội Lao và Bệnh phổi Việt Nam. Hướng dẫn xử trí viêm phổi cộng đồng người lớn. Trong: Hướng dẫn xử trí các bệnh nhiễm trùng hô hấp dưới không do lao. NXB Y học 2012. 141-169. 36. Van P.H. et al. The multicenter study in Vietnam on the antibiotic resistance S. pneumoniae – The results from 204 clinical isolates. Hochiminh City Medicine 2007. 11: Supplement 3, 67-77 37. PH Vân; PT Bình; ĐM Phương và cs. Tình hình đề kháng kháng sinh của S.pneumoiae và H.influenzae phân lập từ NKHH cấp – Kết quả nghiên cứu đa trung tâm thực hiện tại Việt Nam (SOAR) 2010-2011. YHTH 85512, 2012. 6-11 38. Mi Suk Lee, Jee Youn Oh, Cheol-In Kang et al. Guideline for Antibiotic Use in Adults with Community-acquired Pneumonia. Infect Chemother 2018;50(2):160-198
File đính kèm:
tong_quan_cap_nhat_chan_doan_va_dieu_tri_viem_phoi_cong_dong.pdf

