Tổng quan các yếu tố nguy cơ trong hen phế quản trẻ em

I. MỞ ĐẦU

Hen phế quản (viết tắt là hen) là bệnh hô

hấp mãn tính phổ biến ở trẻ em, là nguyên

nhân hàng đầu gây tình trạng bệnh mãn

tính ở trẻ, được đánh giá qua tần suất các lần

khám bệnh cấp cứu, về thời gian nhập viện

điều trị bệnh và thời gian nghỉ học vì bệnh

hen. Trong những thập kỷ qua, mặc dù đã có

nhiều tiến bộ trong hiểu biết về sinh bệnh

học, chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh hen

tại cộng đồng, tuy nhiên việc thực hành chẩn

đoán và điều trị hen tốt vẫn đang còn thách

thức lớn đối với các bác sĩ chuyên ngành nhi khoa

pdf 7 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan các yếu tố nguy cơ trong hen phế quản trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan các yếu tố nguy cơ trong hen phế quản trẻ em

Tổng quan các yếu tố nguy cơ trong hen phế quản trẻ em
TỔNG QUAN CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG 
HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
Dương Quý Sỹ1, Lê Thị Minh Hương1
1 ĐHYK Penn State và CĐYT Lâm Đồng
2 Bệnh viện Nhi Trung ương
Chịu trách nhiệm chính: Dương Quý Sỹ. Email: [email protected] 
Ngày nhận bài: 05/11/2018; Ngày phản biện khoa học: 15/11/2018; Ngày duyệt bài: 22/11/2018
I. MỞ ĐẦU
Hen phế quản (viết tắt là hen) là bệnh hô 
hấp mãn tính phổ biến ở trẻ em, là nguyên 
nhân hàng đầu gây tình trạng bệnh mãn 
tính ở trẻ, được đánh giá qua tần suất các lần 
khám bệnh cấp cứu, về thời gian nhập viện 
điều trị bệnh và thời gian nghỉ học vì bệnh 
hen. Trong những thập kỷ qua, mặc dù đã có 
nhiều tiến bộ trong hiểu biết về sinh bệnh 
học, chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh hen 
tại cộng đồng, tuy nhiên việc thực hành chẩn 
đoán và điều trị hen tốt vẫn đang còn thách 
thức lớn đối với các bác sĩ chuyên ngành nhi 
khoa.
Do sự không đồng nhất của các triệu chứng 
hen ở trẻ em, đặc biệt là ở trẻ nhỏ rất khó để 
xác định và đưa ra được một định nghĩa rõ 
ràng và cụ thể về bệnh hen trong quần thể 
dân số này. Hiện nay, chẩn đoán hen ở trẻ 
nhỏ chủ yếu dựa trên tiền sử các triệu chứng, 
nguy cơ mắc các bệnh dị ứng và thăm khám 
lâm sàng trong trường hợp không có nhiễm 
trùng đường hô hấp đi kèm. Ở trẻ trên 5 tuổi, 
chẩn đoán hen được thực hiện tương tự như 
ở người lớn và dựa trên tình trạng viêm mãn 
tính của đường hô hấp kết hợp với hiện tượng 
tăng phản ứng tính phế quản và khả năng hồi 
phục của giới hạn dòng khí thở ra.
Bên cạnh các yếu tố có thể điều chỉnh 
được liên quan đến việc kiểm soát bệnh hen 
như kỹ thuật dùng thuốc hít, việc tuân thủ 
điều trị, thì việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ 
của bệnh hen ở trẻ em trong quá trình bào 
thai, phơi nhiễm các yếu tố môi trường sau 
sinh... vẫn đang là thách thức thực sự trong 
kiểm soát bệnh hen ở trẻ em. Ngoài ra việc 
xác định và điều trị các bệnh dị ứng đi kèm, 
ngưng thở khi ngủ, béo phì và trào ngược dạ 
dày thực quản là rất quan trọng trong việc 
đánh giá bệnh hen và phối hợp điều trị bệnh 
ở trẻ em. Do vậy, các thầy thuốc nhi khoa 
không chỉ đánh giá lâm sàng và điều trị bệnh 
hen mà còn có chiến lược dự phòng thông 
qua việc tác động vào các yếu tố nguy cơ gây 
hen, những giải pháp hiệu quả giúp tránh 
được nguy cơ bị hen ở trẻ em.
II. YẾU TỐ NGUY CƠ DI TRUYỀN TRONG HEN 
TRẺ EM
Nghiên cứu di truyền của các gia đình và 
các cặp song sinh cho thấy rằng di truyền đóng 
một vai trò quan trọng trong sự phát triển của 
bệnh hen ở trẻ em [1]. Trong hơn một thập 
kỷ qua, nhiều nghiên cứu đã tìm cách phân 
định vai trò của yếu tố di truyền trong bệnh 
sinh của hen phế quản, đặc biệt là hen ở trẻ 
em; và cũng như xem xét liệu các gen này có 
liên quan đến viêm đường hô hấp, tăng phản 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018) I 25
TỔNG QUAN
ứng tính phế quản bẩm sinh và sự đáp ứng 
với điều trị đích hay không. Hiện nay, bằng 
cách nghiên cứu mối liên kết bộ gen (GWL: 
genome-wide linkage) hoặc sự phối hợp bộ 
gen (GWA: genome-wide association), hơn 
100 gen liên quan đến bệnh hen đã được xác 
định và con số này đang ngày càng tăng lên.
Mặc dù những nghiên cứu về GWA đã 
phát hiện ra các vị trí trên các nhiễm sắc thể 
có liên quan đến hen khởi phát từ thời thơ ấu, 
tuy nhiên sự đóng góp của những nghiên cứu 
này về việc tác động ảnh hưởng của nhiều gen 
thì lại khó đánh giá hơn. Việc sử dụng “điểm 
số nguy cơ di truyền” có thể cung cấp một 
công cụ hữu ích để dự đoán mối liên hệ giữa 
các nguy cơ di truyền được phát hiện trong sự 
phối hợp các bộ gen (GWA) và sự hình thành 
hoặc sự tồn tại của bệnh hen ở từng cá thể.
III. YẾU TỐ NGUY CƠ TRƯỚC KHI SINH VÀ 
HEN Ở TRẺ EM
3.1. Đáp ứng miễn dịch thời kỳ phôi thai
Thông thường dị ứng cơ địa ở người mẹ 
sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh dị 
ứng ở con sau này, có thể do sự thay đổi của 
các yếu tố trong lòng tử cung và do sự ảnh 
hưởng đến sự phát triển miễn dịch trước 
khi sinh thông qua sự vận chuyển các yếu 
tố miễn dịch qua hệ thống nhau thai [2]. 
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các phản ứng 
miễn dịch bẩm sinh và thích nghi có thể bị 
thay đổi một cách dễ dàng ngay từ khi bào 
thai thông qua các đáp ứng khác nhau như 
từ việc vận chuyển các globulin miễn dịch 
qua nhau thai, tác động của các chất gây viêm 
như chemokine, kiểu hình gen của thụ thể 
toll-like, mức độ biểu hiện/phát triển của gen 
thuộc tế bào T điều hòa (Treg), mức độ biểu 
hiện các chất gây viêm thuộc loại cytokine 
của các tế bào T trợ giúp loại 2 (Th2), các 
tín hiệu methyl hóa, và một số yếu tố khác. 
Thật vậy, một nghiên cứu trước đây đã được 
công bố cho thấy tình trạng cơ địa dị ứng ở 
người mẹ ảnh hưởng đến biểu hiện gen Treg 
và mức độ cytokine của Th2 trong máu cuống 
rốn, thông qua tương tác với kiểu gen thụ thể 
toll-like[3]. Những nghiên cứu khác cho thấy, 
nồng độ acid béo không bão hòa đa chuỗi ở 
máu cuống rốn cao có thể giúp tiên đoán sự 
phát triển của bệnh dị ứng đường hô hấp ở 
trẻ em dưới 13 tuổi. Tuy nhiên, tác động của 
các yếu tố nói trên và các thay đổi biểu sinh 
khác gây ra bởi phơi nhiễm với yếu tố môi 
trường trên sự phát triển của hen phế quản 
vẫn còn đang được nghiên cứu.
3.2. Hạn chế phát triển của bào thai
Có thể có mối liên hệ nhân quả giữa sự hạn 
chế tăng trưởng của bào thai và sự hình thành 
bệnh hen ở trẻ em, mặc dù cơ chế chính xác 
của mối liên hệ này chưa được chứng minh 
rõ ràng. Bất thường trong tuần hoàn giữa mẹ 
và thai, sự phát triển của nhau thai và dây 
rốn, sự phát triển của phổi, cũng như thay đổi 
biểu sinh về di truyền cũng đã được đề xuất 
là những nguyên nhân giải thích cho sự hạn 
chế tăng trưởng của bào thai trong thai kỳ [4].
Kết quả của nghiên cứu thuần tập sau sinh 
ở Aberdeen cho thấy rằng mỗi milimét tăng 
chiều dài đầu - mông thai nhi đo bằng siêu 
âm trong ba tháng đầu thai kỳ, tỷ lệ với thở 
khò khè giảm 4% và tỷ lệ mắc bệnh hen giảm 
5% [5]. Nghiên cứu này cho thấy rằng giảm 
kích thước thai nhi trong ba tháng đầu có thể 
kết hợp với giảm chức năng hô hấp và tăng 
các triệu chứng hen ở trẻ tuổi lên 5. Hơn nữa, 
sự tương quan giữa kích thước bào thai đánh 
giá bằng cách đo chiều dài đầu - mông thai 
nhi trong ba tháng đầu thai kỳ và đường kính 
lưỡng đỉnh trong ba tháng giữa thai kỳ và hen 
vẫn kéo dài sau 10 năm theo dõi [6]. Các tác 
giả kết luận rằng sự tăng trưởng liên tục của 
thai nhi đi kèm với chiều dài đầu - mông cao 
ở ba tháng đầu của thai kỳ cùng với đường 
26 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018)
TỔNG QUAN CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
kính lưỡng đỉnh cao trong ba tháng giữa thai 
kỳ có thể là yếu tố bảo vệ cho sự hình thành 
bệnh hen trong tương lai ở trẻ (tỷ lệ yếu tố 
nguy cơ là 2.8) [6].
3.3. Mẹ dùng thuốc khi mang thai
Trong những năm vừa qua, các công bố về 
mối quan hệ giữa việc sử dụng thuốc trước 
khi sinh/trẻ sơ sinh và hen ở trẻ em đã được 
báo cáo. Nghiên cứu thuần tập theo chiều dọc 
và phân tích gộp cho thấy sử dụng kháng sinh 
trong thời kỳ mang thai làm tăng nguy cơ khò 
khè dai dẳng và hen phế quản ở trẻ nhỏ; và 
có mối tương quan liều lượng - đáp ứng giữa 
số lượng kháng sinh sử dụng và nguy cơ triệu 
chứng hô hấp (thở khò khè hoặc hen). Ngoài 
ra, nguy cơ này còn tăng cao nếu kháng sinh 
được sử dụng trong ba tháng giữa và ba tháng 
cuối cùng của thai kỳ [7]. Giả thuyết được đưa 
ra cho rằng sự mất cân bằng giữa vi khuẩn gây 
bệnh và vi khuẩn có lợi do việc sử dụng kháng 
sinh đã có vai trò trong hình thành bệnh hen 
ở trẻ sau sinh.
Dữ liệu đánh giá sự kết hợp việc sử dụng 
paracetamol trước khi sinh của bà mẹ và sử 
dụng paracetamol (acetaminophen) ở trẻ em 
làm tăng nguy cơ hen ở trẻ thì vẫn đang được 
bàn cãi. Trong một nghiên cứu trên 53.169 
trẻ em 3 tuổi và 25.394 trẻ em 7 tuổi đã tìm 
thấy một mối liên quan nhẹ giữa việc sử dụng 
paracetamol ở mẹ trước khi sinh và sử dụng 
paracetamol trong giai đoạn ấu thơ với sự 
hình thành của bệnh hen ở trẻ vào cả hai thời 
điểm tương ứng [8]. Tuy nhiên, những phân 
tích tổng quan hệ thống và phân tích gộp 
của 11 nghiên cứu thuần tập quan sát thấy 
không đủ bằng chứng để quy kết việc sử dụng 
paracetamol với sự phát triển của bệnh hen ở 
trẻ em do các yếu tố nhiễu. Do vậy, cần phải 
có nhiều nghiên cứu hơn nữa để xác định rõ 
hơn vai trò của paracetamol trong việc hình 
thành bệnh hen ở trẻ em và cũng như để làm 
rõ các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn.
3.4. Mẹ mang thai ăn kiêng và tăng cân
Mặc dù không có phương thức ăn kiêng 
cụ thể nào liên quan đến bệnh hen ở trẻ em, 
nhưng ăn nhiều lần trong ngày trong khi 
mang thai dường như làm giảm nguy cơ hen 
hoặc thở khò khè ở trẻ sau sinh. Những thức 
ăn này bao gồm các loại thực phẩm “dị ứng” 
như đậu phộng (lạc), hạt dẻ, sữa và/hoặc cá, 
các chất bổ sung axit béo chuỗi dài và vitamin 
D và vitamin E. Đáng chú ý là các kết quả 
liên quan đến việc bổ sung vitamin D cho 
mẹ khi mang thai trong việc phòng ngừa hen 
phế quản ở trẻ sau sinh vẫn chưa được xác 
nhận bằng các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối 
chứng.
Ngoài ra, các dữ liệu hiện nay cho thấy béo 
phì ở mẹ và tăng cân trong thời gian thai kỳ 
mức độ cao dẫn đến tăng nguy cơ phát triển 
thở khò khè hoặc hen ở trẻ sau sinh. Tuy 
nhiên, giảm cân không được khuyến cáo hoặc 
chế độ ăn uống hạn chế trong thai kỳ không 
được khuyến khích vì lo ngại về các tác động 
của việc giảm cân trên thai nhi và thai phụ.
3.5. Bú sữa mẹ
Nhiều nghiên cứu báo cáo một hiệu quả có 
lợi của việc cho con bú trong phòng ngừa hen 
và giảm thở khò khè trong giai đoạn đầu đời. 
Tuy nhiên, trong khi việc nuôi con bằng sữa 
mẹ nên được khuyến khích, thì cần phải thận 
trọng trong việc tư vấn cho các gia đình rằng 
việc cho con bú sẽ ngăn ngừa được bệnh hen.
IV. YẾU TỐ NGUY CƠ SAU SINH VÀ HEN Ở 
TRẺ EM
4.1. Nhạy cảm với dị nguyên hô hấp
Nhạy cảm với các dị nguyên là một trong 
những yếu tố quyết định cho sự hình thành 
bệnh hen sau này; sự gia tăng nồng độ IgE, 
một dấu hiệu gián tiếp và chắc chắn cho 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018) I 27
TỔNG QUAN
sự nhạy cảm với các dị nguyên. Kết quả 
các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào phơi 
nhiễm đơn dị nguyên trong nhà (ví dụ như 
lông chó/mèo, mạt bụi, nấm mốc) và sự hình 
thành bệnh hen thì vẫn còn khác nhau, một 
số nghiên cứu cho thấy kết quả dương tính 
(có mối liên quan), một số nghiên cứu khác 
thì lại âm tính và không có ảnh hưởng. Tuy 
nhiên, kết quả các nghiên cứu thuần tập sau 
sinh ở trẻ em cho thấy phương thức tiếp cận 
dự phòng nhằm làm giảm mẫn cảm với nhiều 
dị ứng nguyên dường như làm giảm tỷ lệ hen 
nếu áp dụng ở trẻ em, thậm chí có thể đến 18 
tuổi trong một số trường hợp.
4.2. Tình trạng dị ứng thức ăn
Dị ứng thức ăn làm tăng nguy cơ bị hen ở 
trẻ em lên gấp bốn lần [11]. Ngoài ra dị ứng 
thức ăn cũng có liên quan đến việc tăng tỷ 
lệ nhập viện, những đợt kịch phát nặng phải 
thở máy và sử dụng corticosteroid ở trẻ bị 
hen [11]. Một nghiên cứu được công bố cho 
thấy hen có thể xuất hiện tần suất cao hơn ở 
trẻ bị dị ứng thức ăn.
4.3. Tình trạng viêm da cơ địa
Ở trẻ bị thở khò khè tái phát, sự tồn tại 
đồng thời của viêm da cơ địa (thể tạng) làm 
tăng nguy cơ hình thành bệnh hen [12]. Mức 
độ nặng và tuổi khởi phát của viêm da cơ địa 
cũng có thể là những thông tin hữu ích trong 
đánh giá nguy cơ bị hen ở trẻ em. Trong một 
nghiên cứu đã được công bố, kết quả cho thấy 
chỉ có 26% trẻ em có viêm da cơ địa từ nhẹ 
đến trung bình hình thành dị ứng hô hấp 
(chủ yếu là hen phế quản) so với 75% ở trẻ 
bị viêm da cơ địa nặng [13]. Tình trạng viêm 
da cơ địa khởi phát sớm (trước 2 tuổi) cũng 
có liên quan đến tăng nguy cơ khởi phát hen 
sớm (ở độ 6 tuổi) so với viêm da cơ địa khởi 
phát muộn (sau 2 tuổi), đi cùng với nguy cơ 
gia tăng hen khởi phát ở tuổi muộn hơn (ở độ 
sau 12 tuổi) [14].
4.4. Giới tính
Nhiều nghiên cứu đã cho kết quả nam giới 
bị khò khè và hen phế quản cao hơn trong thời 
thơ ấu; Ngoài ra, kết quả một số nghiên cứu 
cũng cho thấy rằng hen sau tuổi ấu thơ ở nữ 
nhiều hơn nam giới; hoặc nữ giới lại thường 
bị hen ở tuổi vị thành niên và về sau. Một số 
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhập viện do hen ở 
trẻ em cao nhất là ở bé trai từ 2-12 tuổi (tỷ lệ 
nhập viện cao nhất là 4 tuổi), nhưng tỷ lệ này 
lại cao hơn ở nữ giới từ 16-18 tuổi (tỷ lệ nhập 
viện cao nhất là 17 tuổi). Dù rằng những thay 
đổi nội tiết tố đã được đề xuất như một lời 
giải thích có thể có cho xu hướng này, một số 
nghiên cứu khác không cho thấy có mối liên 
hệ giữa giai đoạn dậy thì với sự thay đổi giới 
trong tỷ lệ mắc bệnh hen. Do vậy các nghiên 
cứu khảo sát các yếu tố thúc đẩy cho sự khác 
biệt về giới trong hen phế quản ở trẻ em vẫn 
đang được thực hiện.
4.5. Tiếp xúc với khói thuốc lá và ô nhiễm 
môi trường
Khói thuốc lá có liên quan chặt chẽ với thở 
khò khè ở trẻ nhỏ (GINA 2017). Trẻ em bị hen 
khi tiếp xúc với khói thuốc lá có nguy cơ cao 
hen không kiểm soát và có triệu chứng hen 
nặng hơn [15]. Tương tự như vậy, tiếp xúc với 
các chất gây ô nhiễm ngoài trời, chẳng hạn 
như sống gần đường phố, cũng có liên quan 
đến tăng nguy cơ hen ở trẻ em.
4.6. Tác động của vi khuẩn thường trú
Gần đây, kết quả từ các nghiên cứu về 
vệ sinh và vi sinh vật thường trú cho thấy 
rằng các tương tác với vi sinh vật có thể có 
ích trong việc ngăn ngừa hen ở trẻ em. Tỷ lệ 
bị hen cao hơn ở trẻ sinh mổ so với những 
trẻ sinh thường, do có sự tiếp xúc của trẻ sơ 
sinh với vi khuẩn âm đạo của người mẹ [16]; 
hoặc sự khác biệt trong hệ vi sinh đường ruột 
tùy theo phương thức trẻ được chào đời [17] 
cũng có thể là yếu tố quan trọng trong việc 
28 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018)
TỔNG QUAN CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
dự phòng hen ở trẻ em. Nguy cơ bị hen cũng 
giảm ở trẻ em ngủ trong phòng có nội độc tố 
bắt nguồn gốc từ vi khuẩn lipopolysaccharide 
[18]; và trẻ em lớn lên ở các vùng quê được 
tiếp xúc với chuồng trại và uống sữa tươi có 
nguy cơ bị hen thấp hơn so với trẻ em không 
sống ở vùng nông thôn [19].
4.7. Bố mẹ bị hen phế quản và trẻ sinh ra
Tiền sử gia đình mắc bệnh hen là một yếu 
tố nguy cơ đã được biết đến để hình thành 
bệnh hen ở trẻ em. Trẻ em có bố mẹ hen có 
thể bị giảm chức năng hô hấp và tăng các triệu 
chứng hô hấp như thở khò khè trong giai 
đoạn sau sinh và thời thơ ấu. Một nghiên cứu 
ở trẻ bị hen cho thấy rằng tỷ lệ trẻ bị hen cao 
hơn gấp ba lần nếu trong gia đình có bố hoặc 
mẹ bị hen và cao gấp sáu lần nếu trong gia 
đình có cả bố lẫn mẹ bị hen [20]. Một nghiên 
cứu khác trên số lượng lớn hơn cho thấy tỷ 
lệ này là gấp hai lần (bố hoặc mẹ bị hen) và 
gấp bốn lần (bố và mẹ đều bị hen) [21]. Điều 
thú vị là gần đây, phân tích thuần tập Wight 
cho thấy rằng, sau khi phân tầng giới tính của 
trẻ, cho thấy rằng bệnh hen của mẹ có liên 
quan đến hen ở bé gái nhưng không liên quan 
đến bé trai; trong khi đó hen ở người bố lại có 
liên quan đến hen ở bé trai nhưng không liên 
quan đến bé gái [22].
4.8. Nhiễm trùng hô hấp
Vai trò của nhiễm trùng đường hô hấp 
trong việc hình thành bệnh hen ở trẻ em đã 
được bàn luận trong những thập kỷ qua. Theo 
giả thuyết, nhiễm trùng đường hô hấp dưới 
lặp đi lặp lại thời thơ ấu gây ra tổn thương 
đường hô hấp, làm tăng tính nhạy cảm với các 
dị nguyên và các yếu tố nguy cơ khác ở môi 
trường sống trong việc hình thành hen ở trẻ 
em. Một nghiên cứu trên 154.492 trẻ em châu 
Âu từ sơ sinh đến 15 tuổi cho thấy cả nhiễm 
trùng đường hô hấp trên và hô hấp dưới trước 
5 tuổi đều làm tăng nguy cơ hen ở trẻ em [23]. 
Trẻ bị nhiễm trùng đường hô hấp trên (viêm 
xoang, viêm thanh quản, viêm amiđan hoặc 
viêm họng) ở độ 5 tuổi có nguy cơ hình thành 
bệnh hen cao gấp 1,5 lần sau này; trong khi 
những trẻ bị nhiễm trùng đường hô hấp dưới 
(viêm phế quản, viêm tiểu phế quản hoặc 
viêm phổi) làm tăng gấp 2-4 lần nguy cơ hình 
thành bệnh hen sau này.
Mối quan hệ giữa nhiễm virút hợp bào 
hô hấp (RSV) và sự hình thành bệnh hen 
cũng đã được ghi nhận (nghiên cứu ISSAC). 
Các nghiên cứu đánh giá tác động của việc 
dự phòng hoặc điều trị nhiễm RSV cho thấy 
có ảnh hưởng đến sự hình thành bệnh hen. 
Tuy nhiên, vai trò của nhiễm RSV trong hình 
thành bệnh hen trong sau này và làm bệnh 
hen trầm trọng hơn chỉ mới được báo cáo 
trong những năm gần đây.
V. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ KHÁC LIÊN QUAN 
ĐẾN HEN Ở TRẺ EM
 Ngoài các yếu tố nguy cơ liên quan 
đến hen ở trẻ em được trình bày trên, thật sự 
là không dễ để xác định vai trò của từng yếu 
tố nguy cơ vì trẻ em thường bị phơi nhiễm 
với nhiều yếu tố khác nhau vào lúc chào đời 
và còn có sự chi phối và tương tác giữa các 
gen. Thêm vào đó, mối quan hệ giữa hen ở trẻ 
em và các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi theo 
thời gian do những thay đổi trong môi trường 
sống và/hoặc sự thay đổi về tính nhạy cảm.
Hiện nay, các yếu tố nguy cơ khác có liên 
quan đến hen ở trẻ em như là sự căng thẳng 
(stress) của mẹ trong thai kỳ, phương thức 
sinh con hoặc cho con bú vẫn còn tranh cãi. 
Các yếu tố nguy cơ khác cho sự hình thành 
bệnh hen như tình trạng kinh tế - xã hội - gia 
đình, ô nhiễm không khí hoặc sự thay đổi của 
vi sinh vật thường trú vẫn là những vấn đề 
cần được làm rõ hơn trong tương lai.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018) I 29
TỔNG QUAN
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Willemsen, G., van Beijsterveldt, T.C.E.M., van Baal, C.G.C.M., Postma, D., 
Boomsma, D.I., 2008. Heritability of self-reported asthma and allergy: a study in 
adult Dutch twins, siblings and parents. Twin Res. Hum. Genet. Off. J. Int. Soc. Twin 
Stud. 11, 132-142.
2. Lockett, G.A., Huoman, J., Holloway, J.W., 2015. Does allergy begin in utero? 
Pediatr. Allergy Immunol. Off. Publ. Eur. Soc. Pediatr. Allergy Immunol. 26, 394-402.
3. Liu, J., Rädler, D., Illi, S., Klucker, E., Turan, E., von Mutius, E., Kabesch, M., Schaub, 
B., 2011. TLR2 polymorphisms influence neonatal regulatory T cells depending on 
maternal atopy. Allergy 66, 1020-1029.
4. Martino, D., Prescott, S., 2011. Epigenetics and prenatal influences on asthma and 
allergic airways disease. Chest 139, 640-647.
5. Turner, S.W., Campbell, D., Smith, N., Craig, L.C.A., McNeill, G., Forbes, S.H., 
Harbour, P.J., Seaton, A., Helms, P.J., Devereux, G.S., 2010. Associations between 
fetal size, maternal {alpha}-tocopherol and childhood asthma. Thorax 65, 391-397.
6. Turner, S., Prabhu, N., Danielan, P., McNeill, G., Craig, L., Allan, K., Cutts, R., 
Helms, P., Seaton, A., Devereux, G., 2011. First- and second-trimester fetal size and 
asthma outcomes at age 10 years. Am. J. Respir. Crit. Care Med. 184, 407-413.
7. Jedrychowski, W., Gałaś, A., Whyatt, R., Perera, F., 2006. The prenatal use of 
antibiotics and the development of allergic disease in one year old infants. A 
preliminary study. Int. J. Occup. Med. Environ. Health 19, 70-76.
8. Magnus, M.C., Karlstad, Ø., Håberg, S.E., Nafstad, P., Davey Smith, G., Nystad, 
W., 2016. Prenatal and infant paracetamol exposure and development of asthma: the 
Norwegian Mother and Child Cohort Study. Int. J. Epidemiol. 45, 512-522.
9. Forno, E., Young, O.M., Kumar, R., Simhan, H., Celedón, J.C., 2014. Maternal obesity 
in pregnancy, gestational weight gain, and risk of childhood asthma. Pediatrics 134, 
e535-546.
10. MacDonald, C., Sternberg, A., Hunter, P.R., 2007. A systematic review and meta-
analysis of interventions used to reduce exposure to house dust and their effect on 
the development and severity of asthma. Environ. Health Perspect. 115, 1691-1695.
11. Liu AH, Jaramillo R, Sicherer SH, et al 2010. National prevalence and risk factors 
for food allergy and relationship to asthma: results from the National Health and 
Nutrition Examination Survey 2005-2006. J Allergy Clin Immunol;126:798-806.e13.
12. Castro-Rodriguez, J.A., Forno, E., Rodriguez-Martinez, C.E., Celedón, J.C., 2016. 
Risk and Protective Factors for Childhood Asthma: What Is the Evidence? J. Allergy 
Clin. Immunol. Pract. 4, 1111-1122.
13. Patrizi, A., Guerrini, V., Ricci, G., Neri, I., Specchia, F., Masi, M., 2000. The natural 
history of sensitizations to food and aeroallergens in atopic dermatitis: a 4-year 
follow-Up. Pediatr. Dermatol. 17, 261-265.
30 I TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018)
TỔNG QUAN CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ TRONG HEN PHẾ QUẢN TRẺ EM
14. Lowe, A.J., Angelica, B., Su, J., Lodge, C.J., Hill, D.J., Erbas, B., Bennett, C.M., 
Gurrin, L.C., Axelrad, C., Abramson, M.J., Allen, K.J., Dharmage, S.C., 2017. Age 
at onset and persistence of eczema are related to subsequent risk of asthma and hay 
fever from birth to 18 years of age. Pediatr. Allergy Immunol. Off. Publ. Eur. Soc. 
Pediatr. Allergy Immunol. 28, 384-390.
15. Wang, Z., May, S.M., Charoenlap, S., Pyle, R., Ott, N.L., Mohammed, K., Joshi, A.Y., 
2015. Effects of secondhand smoke exposure on asthma morbidity and health care 
utilization in children: a systematic review and meta-analysis. Ann. Allergy Asthma 
Immunol. Off. Publ. Am. Coll. Allergy Asthma Immunol. 115, 396-401.e2.
16. Huang, L., Chen, Q., Zhao, Y., Wang, W., Fang, F., Bao, Y., 2015. Is elective cesarean 
section associated with a higher risk of asthma? A meta-analysis. J. Asthma Off. J. 
Assoc. Care Asthma 52, 16-25.
17. Azad, M.B., Konya, T., Maughan, H., Guttman, D.S., Field, C.J., Chari, R.S., Sears, 
M.R., Becker, A.B., Scott, J.A., Kozyrskyj, A.L., CHILD Study Investigators, 2013. 
Gut microbiota of healthy Canadian infants: profiles by mode of delivery and infant 
diet at 4 months. CMAJ Can. Med. Assoc. J. J. Assoc. Medicale Can. 185, 385-394.
18. Karvonen, A.M., Hyvärinen, A., Gehring, U., Korppi, M., Doekes, G., Riedler, J., 
Braun-Fahrländer, C., Bitter, S., Schmid, S., Keski-Nisula, L., Roponen, M., Kaulek, 
V., Dalphin, J.-C., Pfefferle, P.I., Renz, H., Büchele, G., von Mutius, E., Pekkanen, 
J., PASTURE Study Group, 2012. Exposure to microbial agents in house dust and 
wheezing, atopic dermatitis and atopic sensitization in early childhood: a birth cohort 
study in rural areas. Clin. Exp. Allergy J. Br. Soc. Allergy Clin. Immunol. 42, 1246-
1256.
19. Riedler, J., Braun-Fahrländer, C., Eder, W., Schreuer, M., Waser, M., Maisch, S., 
Carr, D., Schierl, R., Nowak, D., von Mutius, E., ALEX Study Team, 2001. Exposure 
to farming in early life and development of asthma and allergy: a cross-sectional 
survey. Lancet Lond. Engl. 358, 1129-1133.
20. Litonjua, A.A., Carey, V.J., Burge, H.A., Weiss, S.T., Gold, D.R., 1998. Parental 
history and the risk for childhood asthma. Does mother confer more risk than father? 
Am. J. Respir. Crit. Care Med. 158, 176-181.
21. Valerio, M.A., Andreski, P.M., Schoeni, R.F., McGonagle, K.A., 2010. Examining 
the association between childhood asthma and parent and grandparent asthma status: 
implications for practice. Clin. Pediatr. (Phila.) 49, 535-541.
22. Arshad, S.H., Karmaus, W., Raza, A., Kurukulaaratchy, R.J., Matthews, S.M., 
Holloway, J.W., Sadeghnejad, A., Zhang, H., Roberts, G., Ewart, S.L., 2012. The 
effect of parental allergy on childhood allergic diseases depends on the sex of the 
child. J. Allergy Clin. Immunol. 130, 427-434.e6.
23. van Meel, E., 2017. Early-life respiratory tract infections and the risk of lower lung 
functionand asthma: a meta-analysis of 154,492 children. Eur Respir J.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH NHI KHOA I Số 6 (12-2018) I 31

File đính kèm:

  • pdftong_quan_cac_yeu_to_nguy_co_trong_hen_phe_quan_tre_em.pdf