Tổng kết điều trị laser bướu mạch máu tại Bệnh viện Ung Bướu từ 5/2014 đến 6/2018
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu mạch máu là một bướu lành tính, thường thấy ở trẻ em, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi, có thể tự thoái triển cũng có thể tiến triển nhanh gây nhiều biến chứng. Trước đây, điều trị bướu mạch máu chủ yếu bằng phẫu thuật – tạo hình, xạ trị bằng P32 đều có hiệu quả nhưng bệnh nhân phải chịu đựng những can thiệp nặng nề hơn. Hiện nay, điều trị bướu mạch máu có nhiều đổi mới, đặc biệt với sự phát triển mạnh của các phương pháp kỹ thuật hiện đại mới khiến cho việc điều trị bướu mạch máu ngày càng tiện lợi và dễ dàng hơn, có thể can thiệp sớm hơn và an toàn hơn đối với bệnh nhân, điển hình như điều trị bằng laser quang đông (PDL: Pulsed Dye Laser)
Bạn đang xem tài liệu "Tổng kết điều trị laser bướu mạch máu tại Bệnh viện Ung Bướu từ 5/2014 đến 6/2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng kết điều trị laser bướu mạch máu tại Bệnh viện Ung Bướu từ 5/2014 đến 6/2018
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
179
TỔNG KẾT ĐIỀU TRỊ LASER BƯỚU MẠCH MÁU
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚUTỪ 5/2014 ĐẾN 6/2018
ĐỖ DUY HOÀNG1, LÊ BÁ PHƯỚC1, NGUYỄN DUY TRÌ1, NGUYỄN VIẾT CHIẾN,1
NGUYỄN QUANG CƯỜNG1, PHẠM THỊ BÌNH MINH1, VÕ KHẮC NAM2, TRẦN ĐẶNG NGỌC LINH3
1
BS. Khoa Y Học hạt nhân - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
2
ThS.BS. Phó Trưởng Khoa - Điều hành Khoa Y Học hạt Nhân– Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
3
TS.BS. Trưởng Khoa Xạ 2 - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM, Trưởng Bộ môn Ung thư ĐHYD TP. HCM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu mạch máu là một bướu lành tính, thường
thấy ở trẻ em, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi, có thể tự
thoái triển cũng có thể tiến triển nhanh gây nhiều
biến chứng. Trước đây, điều trị bướu mạch máu chủ
yếu bằng phẫu thuật – tạo hình, xạ trị bằng P32 đều
có hiệu quả nhưng bệnh nhân phải chịu đựng những
can thiệp nặng nề hơn. Hiện nay, điều trị bướu mạch
máu có nhiều đổi mới, đặc biệt với sự phát triển
mạnh của các phương pháp kỹ thuật hiện đại mới
khiến cho việc điều trị bướu mạch máu ngày càng
tiện lợi và dễ dàng hơn, có thể can thiệp sớm hơn và
an toàn hơn đối với bệnh nhân, điển hình như điều
trị bằng laser quang đông (PDL: Pulsed Dye Laser).
TỔNG QUAN VỀ BƯỚU MẠCH MÁU:
Phân loại
Hiện nay, bướu mạch máu (Hemangioma)
được chia thành:
Bướu lành: bướu mạch máu sơ sinh, bẩm sinh,
u hạt mủ (pyogenic granuloma), bướu mạch máu tế
bào hình thoi (spindle cell) và u mạch dạng túi;
Giáp biên: bướu nội mô mạch máu dạng
kaposi, bướu nội mô mạch máu dạng lưới, bướu nội
mô mạch máu dạng hỗn hợp, U Dabska, và Sarcom
Kaposi.
Ác tính: Sarcom mạch máu (angiosarcoma) và
bướu nội mô mạch máu dạng biểu mô.
Trong phần này chỉ nói về bướu mạch máu ở
trẻ sơ sinh (Infantile Hemangioma – IH):
Bướu mạch máu ở trẻ sơ sinh là bướu mô mềm
lành tính thường gặp ở trẻ sơ sinh, thường xuất hiện
ngay sau sinh hoặc sau sinh, có diễn tiến tự nhiên
theo sự phát triển của trẻ (to dần, “phát triển” nhanh
rồi thoái triển).
Các yếu tố nguy cơ
Bướu mạch máu thường thấy ở trẻ gái hơn trai
(tỉ lệ 2,4:1), sanh non, nhẹ cân (<1500gr), đa thai,
mẹ bị tiền sản giật, nhau tiền đạo và mẹ mang thai
tuổi trung niên. Nguyên nhân thường thấy ở bé gái
nhiều hơn hiện chưa rõ nhưng có thể liên quan đến
sự khác biệt về nội tiết. Tiền cĕn gia đình có bướu
mạch máu cũng được ghi nhận có liên quan.
Xuất huyết âm đạo bất thường và sử dụng
progesterone trong 3 tháng đầu thai kì được xem là
yếu tố nguy cơ độc lập cho bướu mạch máu ở trẻ sơ
sinh.
Lâm sàng
Bướu mạch máu ở trẻ sơ sinh là bướu thường
thấy nhất ở trẻ sơ sinh, xảy ra ở khoảng 4% số trẻ
em được sinh ra. Xuất hiện từ khoảng 2 tuần tuổi (có
khi có sẵn từ lúc sinh) dưới dạng một vùng da bị tái
hoặc tấy đỏ, hoặc giãn mao mạch hoặc loét, gợi ý có
thể có khả nĕng thiếu oxy trước khi bướu phát triển.
Bướu mạch máu ở trẻ sơ sinh thường được
phân loại theo vùng da bị ảnh hưởng: bướu mạch
máu nông, bướu mạch máu sâu và bướu mạch máu
hỗn hợp.
Bướu mạch máu nông liên quan đến tổn
thương ở lớp nông dưới da, thường có dạng là nang
hoặc nốt sần trên bề mặt da và thường có màu đỏ
tươi (bớt dâu tây – strawberry lessions).
Bướu mạch máu sâu liên quan đến tổn thương
ở lớp sâu dưới da và mô dưới da và thường có dạng
nốt sần hoặc khối có màu da hoặc màu tái xanh.
Bướu mạch máu hỗn hợp có tổn thương ở cả 2
phần nông và sâu nên có những đặc điểm của cả 2
loại bướu mạch máu nông và sâu.
Đa phần bướu mạch máu thường là tổn thương
đơn độc (80-90%), có một phần nhỏ (15%) xuất hiện
nhiều tổn thương. Bướu mạch máu thường xuất
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
180
hiện ở vùng đầu – cổ (khoảng 60%), thân mình
(25%) và bộ phận sinh dục (15%).
Bướu mạch máu đều được đặc trưng bởi 3 giai
đoạn: Phát triển nhanh (8-12 tháng), sau đó là giai
đoạn ổn định kéo dài (1-12 nĕm) và cuối cùng là
thoái triển thay thế bởi mô sợi mỡ.
Chẩn đoán
Tốt nhất bằng hỏi bệnh sử và khám lâm sàng.
Trong trường hợp chẩn đoán không rõ ràng, các
phương tiện hình ảnh học có thể sử dụng là siêu âm
Doppler màu mạch máu hoặc chụp cộng hưởng từ.
Sinh thiết chỉ nên được xem xét sau khi hỏi bệnh sử,
khám lâm sàng và hình ảnh học không xác định rõ
ràng bệnh lý.
Phần lớn bướu mạch máu ở trẻ em vô hại
(80%), nhưng một số có thể có các biến chứng nguy
hiểm trong giai đoạn tĕng trưởng nhanh của bướu
như loét, chảy máu, nguy cơ biến dạng vĩnh viễn và
tổn thương chức nĕng cơ quan, giảm thị lực và tắc
nghẽn đường thở, hoặc suy tim sung huyết. Khi có
các biến chứng, các can thiệp điều trị nhanh và tích
cực là bắt buộc.
Bướu mạch máu nông có thể bị nhầm lẫn với
các bất thường mao mạch (port-wine stains – bớt
rượu vang).
PORT-WINE STAINS (PWS – Bớt rượu vang)
PWS là sự bất thường của mạch máu da bề
mặt bao gồm cả dị dạng mao mạch/ tiểu mao mạch
và giãn mao mạch. Một số là đa sang thương và có
kết hợp với các hội chứng liên quan đến các đột
biến di truyền đã biết. Những rối loạn di truyền này
hiếm khi gặp phải bởi các nhà giải phẫu bệnh.
PWS ảnh hưởng đến nhánh mắt của dây thần
kinh sinh ba thường gắn liền với bất thường tiểu
mao mạch của màng mềm cùng bên và mắt, dẫn tới
các rối loạn cảm giác được gọi là hội chứng Sturge-
Weber (SWS). Các biểu hiện đa dạng của PWS và
hội chứng Sturge-Weber từ lâu đã gợi ý khả nĕng
chuyển đoạn do đột biến của cơ thể của các gen gây
chết tế bào khác. Gần đây, đột biến gen là nguyên
nhân của hầu hết, và có thể tất cả, các trường hợp
hội chứng Sturge-Weber và PWS chưa có biểu hiện
lâm sàng ở đầu và cổ được phát hiện - một đột biến
được kích hoạt trong gen GNAQ.
Điều trị
Đối với bướu mạch máu nông ở thân mình
hoặc chi, tiến triển chậm, có thể dùng biện pháp
“chờ và xem”. Hiện nay không khuyến khích sử dụng
biện pháp “chờ và xem” trong điều trị bướu
mạch máu.
Nhưng vẫn ưu tiên can thiệp nếu bướu mạch
máu có các yếu tố
- Bướu mạch máu vùng mặt, đặc biệt quanh
hốc mắt, quanh miệng, và các vùng ở tai, môi, mũi.
- Bướu mạch máu ở tuyến vú và ở bộ phận sinh
dục, đặc biệt quanh âm đạo, lỗ niệu đạo và da hậu
môn.
- Tĕng trưởng nhanh, xâm nhập lan tràn bất cứ
vị trí nào trên giải phẫu.
- Bệnh u mạch máu lan tràn xâm nhập hoặc
xuất hiện ở nội tạng.
Các phương pháp điều trị bướu mạch máu
Biện pháp cơ học: Hiện nay ít được áp dụng do
để lại sẹo trên da.
Tắc mạch: Thường dùng đối với bướu mạch
máu nội tạng (gan thường gặp) có suy tim sung
huyết hoặc xuất huyết nặng từ khối bướu mạch máu
bị loét.
Tia X: Hiện nay không còn áp dụng do các tia
ion hóa cao có thể gây đột biến thứ phát và bệnh
ung thư.
Liệu pháp làm lạnh: Hiện nay không còn sử
dụng do các biến chứng có thể gặp là giảm sắc tố
da, tạo sẹo hoặc xơ teo vùng da.
Laser liệu pháp: Do sự hấp thu chính xác từng
bước sóng ở da và dưới da, liệu pháp laser là một
phương pháp an toàn và hiệu quả để điều trị bướu
mạch máu bẩm sinh ở trẻ em trong khi giảm thiểu
đáng kể tác dụng phụ. Vài thử nghiệm lâm sàng đã
cho kết quả tích cực. Điều trị laser sớm và cẩn thận
trở nên cần thiết, khi mà bướu mạch máu có thể
được điều trị ở giai đoạn sớm hoặc có triệu chứng
để tránh sự lớn lên của bướu.
Hóa trị
Chích xơ: Là một biện pháp an toàn và hiệu
quả. Tuy nhiên, đối với bướu mạch máu ở trẻ em
hoặc bướu nội mô mạch máu bẩm sinh, thường có
những vi tuần hoàn bàng hệ mà không cho phép
điều trị chích xơ mà thuốc không đi vào hệ tuần
hoàn. Ở trẻ sơ sinh, ngay cả với nồng độ thấp của
thuốc cũng có thể gây viêm cơ tim. Tổn thương ở
mắt nếu gây tắc mạch thì có thể gây mù vĩnh viễn.
Vì những lí do này, người ta thay thế hoàn toàn
chích xơ bằng các phương pháp điều trị laser
khác nhau.
Thuốc bôi tai chỗ: Nguyên tắc hoạt động bằng
cách phá hủy lớp biểu mô, kèm theo một phản ứng
viêm thứ phát trong chính bướu mạch máu. Do đó,
sẽ có thể để lại sẹo. Trong bướu nội mô mạch máu
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
181
bẩm sinh, do các rào cản biểu bì nên phương pháp
này không hiệu quả.
Phẫu thuật: Nếu bướu mạch máu gây tắc
nghẽn hoàn toàn trục thị giác hoặc bướu mạch máu
loét chảy máu nghiêm trọng, phẫu thuật cắt bỏ bướu
ngay lập tức là cần thiết. Tuy nhiên, tái phát sớm tại
chỗ có thể xảy ra.
Đối với bướu mạch máu trẻ em đã phát triển
lâu, thông thường sẽ thấy sự thay thế mô sợi mỡ
hoặc mô đệm sau khi quá trình thoái triển diễn ra.
Đôi khi, quá trình thoái triển sẽ gây không mọc lông,
tóc (đặc biệt đối với bướu mạch máu ở vùng đầu).
Do điều trị sớm để ngĕn ngừa sự phát triển của
bướu, chỉ định phẫu thuật đã giảm đi.
TỔNG KẾT ĐIỀU TRỊ LASER BƯỚU MẠCH MÁU
TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU TỪ 5/2014 ĐẾN
6/2018
Số lượng cases bệnh viện tiếp nhận điều trị
trong khoảng thời gian từ 5/2014 đến 6/2018 là hơn
150 cases với số lần điều trị hơn 600 lần.
Nhưng trong đó có một số trường hợp chỉ đến điều
trị một lần duy nhất, sẽ không liệt kê trong nghiên
cứu này vì không thể đánh giá hiệu quả điều trị ở
bệnh nhân này.
Số lượng cases trong nghiên cứu: 87 cases: 74
cases chẩn đoán là bướu mạch máu, 13 cases chẩn
đoán Port - wine stains. Về độ tuổi: Bệnh nhân dưới
15 tuổi chiếm đa số (70%), còn lại là trên 15 tuổi
(30%).
Số lần điều trị trung bình: 6 lần. Trung vị là 5
lần, đa số điều trị 4-6 lần. Có 1 case điều trị nhiều
nhất là 23 lần.
Tiêu chí đánh giá đáp ứng điều trị
So sánh về mặt biểu hiện dựa trên sự suy giảm
kích thước, độ dày, màu sắc của bướu mạch máu
giữa trước và sau mỗi đợt điều trị. Đánh giá lại sau
khi kết thúc điều trị (hoặc tới thời gian kết thúc
nghiên cứu).
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 48/87 cases
(55,17%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 19/87 cases (21,83%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 10/87 cases (11,49%).
Có 1 case bướu mạch máu vỡ bướu sau điều
trị lần 1, phải chuyển hướng điều trị.
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
182
Riêng với bướu mạch máu
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 37/74 cases
(50,00%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 18/74 cases (24,32%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 10/74 cases (13,51%).
Đối với Port-wine stains
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 11/13 cases
(84,62%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 1/13 cases (7,69%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 1/13 cases (7,69%).
Đối với bệnh nhân dưới 15 tuổi
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 39/61 cases
(63,93%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 18/61 cases (29,50%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 7/61 cases (11,47%).
Đối với bệnh nhân trên 15 tuổi
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 9/26 cases
(34,61%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 1/26 cases (3,84%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 5/26 cases (19,23%).
Đối với bệnh nhân bướu mạch máu dưới 15 tuổi
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 39/53 cases
(73,58%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 18/53 cases (33,96%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 9/53 cases (16,98%).
Đối với bệnh nhân bướu mạch máu trên 15 tuổi
Đánh giá đáp ứng điều trị tốt (Giảm còn dưới
30% so với tổn thương ban đầu): 4/20 cases
(20,00%).
Đáp ứng điều trị rất tốt (Giảm còn dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 1/20 cases (5,00%).
Đáp ứng điều trị rất kém (Giảm dưới 10% so
với tổn thương ban đầu): 4/20 cases (20,00%).
Một số hình ảnh minh họa
Trước điều trị Sau 6 lần điều trị
Trước điều trị Sau 6 lần điều trị
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
183
Trước điều trị Sau 7 lần điều trị
Trước điều trị Sau 10 lần điều trị
Trước điều trị Sau 3 lần điều trị
Trước điều trị Sau 6 lần điều trị
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
184
Bệnh nhân đang được điều trị Laser Máy laser đang điều trị tại BVUB TP.HCM.
KẾT LUẬN
Điều trị laser đối với bệnh lý bướu mạch máu tại
Bệnh viện Ung Bướu có hiệu quả tương đối tốt
(55%), tỉ lệ đáp ứng kém với điều trị cũng vẫn còn
đáng kể (11%).
Đối với nhóm bệnh nhân dưới 15 tuổi, tỉ lệ đáp
ứng tốt điều trị cao (64%), cao hơn rất nhiều so với
nhóm bệnh nhân trên 15 tuổi (34%). Tỉ lệ đáp ứng
kém với điều trị ở bệnh nhân trên 15 tuổi cao hơn rõ
rệt so với ở nhóm bệnh nhân dưới 15 tuổi
(19%>11%).
Riêng với nhóm bệnh lý bướu mạch máu: Đáp
ứng điều trị là tốt (50%), đặc biệt cải thiện đối với
bệnh nhân dưới 15 tuổi (74%), tỉ lệ đáp ứng tốt đối
với bệnh nhân trên 15 tuổi (chỉ còn 20%). Tỉ lệ đáp
ứng kém ở 2 nhóm trên 15 tuổi và dưới 15 tuổi cũng
tương đối như nhau (20% và 17%).
Đối với nhóm bệnh lý Port-wine stains: Điều trị
laser đáp ứng tốt chiếm tỉ lệ rất cao.
Đối với bướu mạch máu cũng như Port-wine
stains nên ưu tiên điều trị sớm bằng laser để
đạt hiệu quả tốt nhất, có thể khỏi hoàn toàn. Còn đối
với bệnh nhân trên 15 tuổi cần can thiệp thêm
bằng phương pháp khác, không chỉ sử dụng laser
đơn thuần.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BS. Hoàng Vĕn Minh – Thường thức bệnh u
máu (2018).
2. Nguyễn Thị Hòa, (2003), “Điều trị bướu mạch
máu ngoài da ở trẻ em bằng đồng vị phóng xạ
P32”, Luận vĕn tốt nghiệp BSCKII, Đại học Y
dược Tp.HCM
3. Hoàng Vĕn Minh và CS, (2013), “Khảo sát tác
dụng của dung dịch Timolol maleate 0,5% thoa
tại chỗ trên trẻ nhũ nhi bị u máu vùng da đầu”,
Đại học Y Dược TP.HCM
4. Raul Mattassi, Dirk A. Loose, Massimo Vaghi
(eds.) - Hemangiomas and Vascular
Malformations: An Atlas of Diagnosis and
Treatment 2nd edition (2015).
5. Chapas A.M, Eickhorst K, Geronemus R (2007),
“Laser & Skin Surgery Center of New York” ,
Lasers in Surgery and Medicine
6. Anderson R R (2006) "Infant hemangiomas: A
controversy worth solving". Lasers in Surgery
and Medicine, 38 (2), 92-93.
HUYẾT HỌC - TỔNG QUÁT
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
185
7. Chan H, C McKay, S Adams, O Wargon (2013)
"RCT of Timolol Maleate Gel for Superficial
Infantile Hemangiomas in 5-to 24-Week-Olds".
Pediatrics, 131 (6), e1739-e1747.
8. Drolet B A, N B Esterly, I J Frieden (1999)
"Hemangiomas in Children". New England
Journal of Medicine, 341 (3), 173-181.
9. Guo S, N Ni (2010) "Topical Treatment for
Capillary Hemangioma of the Eyelid Using
{beta}-Blocker Solution". Archives of
ophthalmology, 128 (2), 255.
10. Moehrle M, C Léauté‐Labrèze, V Schmidt, M
Röcken, C F Poets, R Goelz (2012) "Topical
timolol for small hemangiomas of infancy".
Pediatr Dermatol,
11. Tay Y K, S K Tan (2012) "Treatment of infantile
hemangiomas with the 595‐nm pulsed dye laser
using different pulse widths in an Asian
population". Lasers in Surgery and Medicine, 44
(2), 93-96.
File đính kèm:
tong_ket_dieu_tri_laser_buou_mach_mau_tai_benh_vien_ung_buou.pdf

