Tổn thương tử cung sau sanh ngả âm đạo của sản phụ có vết mổ cũ mổ lấy thai: Báo cáo ca bệnh

Sanh ngả âm đạo sau mổ lấy thai là vấn đề gây tranh cãi trong thực hành lâm sàng

của bác sĩ sản phụ khoa. Sanh ngả âm đạo sau mổ lấy thai thành công sẽ giúp giảm

tỷ lệ mổ lấy thai, giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng liên quan đến việc mổ lặp lại. Tuy

nhiên, biến chứng nguy hiểm nhất của những trường hợp theo dõi nghiệm pháp sanh ngả

âm đạo là vỡ tử cung, gây tử vong mẹ và thai nhi nếu không phát hiện và xử trí kịp thời.

Nứt tử cung là một dạng tổn thương khác của cơ tử cung được định nghĩa là lớp cơ tử

cung mất liên tục nhưng còn được bao phủ bởi phúc mạc. Nứt tử cung ít gây biến chứng

nặng nề cho mẹ và thai nhi, thường được phát hiện tình cờ trong lúc mổ hoặc dựa vào

triệu chứng bất thường trong giai đoạn hậu sản. Vì vậy, chúng tôi giới thiệu một trường

hợp phát hiện nứt vết mổ cũ mổ lấy thai ở sản phụ có tiền căn sanh mổ. Triệu chứng lâm

sàng gợi ý tổn thương cơ tử cung ở ca này là triệu chứng đau đột ngột ở hố chậu phải

và huyết áp tụt. Siêu âm ghi nhận 1 khối echo từ vết mổ lấy thai dọc theo cạnh phải tử

cung có kích thước 125 x 46 mm và dịch ổ bụng. Chúng tôi đã phẫu thuật và điều trị

bảo tồn cho bệnh nhân, quá trình hậu phẫu ổn và không có triệu chứng bất thường khác.

pdf 5 trang phuongnguyen 80
Bạn đang xem tài liệu "Tổn thương tử cung sau sanh ngả âm đạo của sản phụ có vết mổ cũ mổ lấy thai: Báo cáo ca bệnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổn thương tử cung sau sanh ngả âm đạo của sản phụ có vết mổ cũ mổ lấy thai: Báo cáo ca bệnh

Tổn thương tử cung sau sanh ngả âm đạo của sản phụ có vết mổ cũ mổ lấy thai: Báo cáo ca bệnh
47
TỔN THƯƠNG TỬ CUNG SAU SANH NGẢ 
ÂM ĐẠO CỦA SẢN PHỤ CÓ VẾT MỔ CŨ 
MỔ LẤY THAI: BÁO CÁO CA BỆNH
TRƯƠNG THỊ THÙY DƯƠNG* VÕ MINH TUẤN**
TÓM TẮT
Sanh ngả âm đạo sau mổ lấy thai là vấn đề gây tranh cãi trong thực hành lâm sàng 
của bác sĩ sản phụ khoa. Sanh ngả âm đạo sau mổ lấy thai thành công sẽ giúp giảm 
tỷ lệ mổ lấy thai, giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng liên quan đến việc mổ lặp lại. Tuy 
nhiên, biến chứng nguy hiểm nhất của những trường hợp theo dõi nghiệm pháp sanh ngả 
âm đạo là vỡ tử cung, gây tử vong mẹ và thai nhi nếu không phát hiện và xử trí kịp thời. 
Nứt tử cung là một dạng tổn thương khác của cơ tử cung được định nghĩa là lớp cơ tử 
cung mất liên tục nhưng còn được bao phủ bởi phúc mạc. Nứt tử cung ít gây biến chứng 
nặng nề cho mẹ và thai nhi, thường được phát hiện tình cờ trong lúc mổ hoặc dựa vào 
triệu chứng bất thường trong giai đoạn hậu sản. Vì vậy, chúng tôi giới thiệu một trường 
hợp phát hiện nứt vết mổ cũ mổ lấy thai ở sản phụ có tiền căn sanh mổ. Triệu chứng lâm 
sàng gợi ý tổn thương cơ tử cung ở ca này là triệu chứng đau đột ngột ở hố chậu phải 
và huyết áp tụt. Siêu âm ghi nhận 1 khối echo từ vết mổ lấy thai dọc theo cạnh phải tử 
cung có kích thước 125 x 46 mm và dịch ổ bụng. Chúng tôi đã phẫu thuật và điều trị 
bảo tồn cho bệnh nhân, quá trình hậu phẫu ổn và không có triệu chứng bất thường khác.
UTERINE DEHISCENCE AFTER SUCCESSFUL VAGINAL BIRTH AFTER 
CESAREAN DELIVERY: A CASE REPORT
ABSTRACT
Vaginal birth after cesarean (VBAC) is a controversial topic in clinical practice of obstetricians 
and gynecologists. The medical and obstetric benefits of successful trial of labor after cesarean (TO-
LAC) derive from avoidance of the potential adverse outcomes associated with cesarean delivery, 
especially multiple cesarean deliveries. Uterine rupture is a rare complication in women had a prior 
cesarean section attempt TOLAC, it is a potentially life-threatening complication associated with 
severe maternal and neonatal morbidity and mortality if we didn’t diagnosis early and treat prompt-
ly. Uterine dehiscence is defined as a clinically occult and incompleted disruption of myometrium 
layer that does not lead to any serious maternal or neonatal consequences. It is often incidentally 
discovered at the time of cesarean delivery; some have been detected during prenatal ultrasound 
examination or postpartum period. Thus, we would like to present a case of uterine dehiscence after 
successful vaginal birth in women had a prior cesarean delivery. Abnormal clinical symptoms occult 
in 8th postpartum time, included suddenly abdominal pain and hypotension. Sonographic lower 
uterine segment noted a 125 x 46 mm hematoma adjacent to the right hysterotomy scar and free 
peritoneal fluid. We performed urgent surgery to repair the uterine defect and control hemorrhage 
and patient had recovered rapidly in 5-day postoperative period.
* Khoa Y- Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
** PGS TS, Bộ môn Phụ Sản, ĐHYD TPHCM. DĐ: 0907271999. Email: [email protected]
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
48
GIỚI THIỆU
Tổ chức Y tế Thế giới - WHO khuyến cáo 
tỷ lệ mổ lấy thai (MLT) tối ưu từ 10-15% 
nhưng số ca MLT ngày càng tăng không 
ngừng với tỷ lệ trung bình trong năm 2014 
là 18,6% [1]. Để giảm tỷ lệ MLT cũng như 
các biến chứng nguy hiểm của mổ lặp lại, 
Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và 
Hiệp hội Sản phụ khoa Canada (SCOG) đã 
khuyến khích bác sĩ lâm sàng nên thảo luận 
và tư vấn cho sản phụ có vết mổ cũ MLT 
theo dõi nghiệm pháp sanh ngả âm đạo 
(Trial of Labor after Cesarean - TOLAC) 
[3], [4].
Sanh ngả âm đạo sau MLT (Vaginal Birth 
after Cesarean - VBAC) thành công có liên 
quan đến giảm tỷ lệ mổ lấy thai, giảm tỷ lệ 
tử vong mẹ, thời gian hồi phục nhanh và 
giảm các nguy cơ cho biến chứng sản khoa 
tương lai. Nguy cơ của mổ lặp lại bao gồm 
các biến chứng phẫu thuật, biến chứng gây 
mê, nhau cài răng lược, các nguy cơ liên 
quan đến số lần mổ và tăng nguy cơ cắt bỏ 
tử cung. Đối với trẻ sơ sinh, nguy cơ chết 
sơ sinh của MLT cao gấp 3 lần sanh ngả âm 
đạo, tăng nguy cơ mắc bệnh lý về hô hấp 
và thần kinh, hội chứng chậm hấp thu dịch 
phổi có thể gây tử vong trẻ và hệ miễn dịch 
kém [2].
VBAC có ít biến chứng nguy hiểm hơn 
MLT chủ động, nhưng khi thất bại TOLAC 
có liên quan đến nhiều biến chứng hơn. Biến 
chứng nguy hiểm nhất là vỡ tử cung có thể 
gây tử vong mẹ và thai nhi, nguy cơ vỡ tử 
cung ở sản phụ theo dõi TOLAC (0,47%) cao 
hơn MLT chủ động (0,026%) nhưng tỷ lệ tử 
vong mẹ của MLT chủ động cao gấp 3 lần 
TOLAC, lần lượt là 0,013% với 0,004% [3].
BỆNH ÁN
Sản phụ 27 tuổi, PARA 1011 (1 lần phá 
thai nội khoa vào năm 2015, 1 lần mổ lấy 
thai vì thai suy trong chuyển dạ vào 9/2016 
tại bệnh viện Nam Định, hậu phẫu ổn). Tiền 
sử nội ngoại khoa chưa ghi nhận bệnh lý, sản 
phụ có kinh lần đầu năm 14 tuổi, kinh nguyệt 
đều, chu kì 30 ngày, không thống kinh. Theo 
siêu âm ngày 02/11/2017 ghi nhận thai 13 
tuần 4 ngày, dự sanh theo siêu âm là ngày 
06/05/2018. Quá trình khám thai không ghi 
nhận bất thường, xét nghiệm tầm soát dị tật 
thai nhi nguy cơ thấp và siêu âm hình thái 
học bình thường.
05/05/2018, sản phụ nhập khoa Sản A 
với chẩn đoán con lần 2, thai 39 tuần 6 
ngày, ngôi đầu, chưa chuyển dạ, vết mổ 
cũ mổ lấy thai, tăng trở kháng động mạch 
rốn (RI= 0,72). Tình trạng sản phụ lúc 
nhập viện: sinh hiệu ổn, da niêm hồng, 
tổng trạng tốt. Khám bụng mềm, ấn vết 
mổ cũ không đau ngoài cơn gò, âm đạo 
dịch nhầy, CTC đóng, ối còn. Hình ảnh 
siêu âm Dopper mạch máu 3 tháng cuối 
thai kì ngày 05/05/2018 ghi nhận: một thai 
sống, ngôi đầu, ước lượng cân thai khoảng 
3.220 gram, nhau bám mặt sau nhóm 1- 
độ trưởng thành 3, lượng nước ối bình 
thường, bất thường chỉ số RI của động 
mạch rốn với RI=0,72, ngoài ra không ghi 
nhận dấu hiệu bất thường khác trên siêu 
âm. Xét nghiệm máu ghi nhận số lượng 
hồng cầu 4,21 x 1012/L, hemoglobin 11,4 
g/dL và hematocrit 35%, bạch cầu, tiểu cầu 
và chức năng đông máu bình thường.
 Sản phụ được nằm theo dõi và chăm 
sóc tại khoa Sản A, gắn monitor đánh giá 
sức khỏe thai nhi với kết quả Non-stresst-
est có đáp ứng. Sản phụ được tư vấn chấm 
dứt thai kỳ vì thai 40 tuần - Thai tăng trở 
kháng động mạch rốn. Sản phụ được tư 
vấn và khuyến khích theo dõi nghiệm 
pháp sanh ngả âm đạo, sản phụ và gia đình 
chấp thuận.
06/05/2018, sản phụ được khởi phát 
chuyển dạ bằng Foley tại khoa Sản A. 
Khoảng 5 giờ sau, khởi phát chuyển dạ 
thành công với cổ tử cung mở được 3cm 
- xóa 70%, khám vết mổ cũ không đau 
ngoài cơn gò, sản phụ được chuyển lên 
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
49
khoa Sanh để tiếp tục theo dõi nghiệm 
pháp sanh ngả âm đạo. Sản phụ đã được 
sanh hỗ trợ bằng dụng cụ Forcep vì tim 
thai chậm, sanh 1 bé gái cân nặng 2.900 
gram, khóc to sau sanh Apgar 8/9 vào 
ngày 07/05/2018. Sau sanh, tử cung co 
hồi khá, kiểm tra lòng tử cung sạch, mặt 
trước trơn láng, cổ tử cung viêm tưa và 
đang rịn máu nên bác sĩ tiến hành thắt 
động mạch cổ tử cung 2 bên và may phục 
hồi tầng sinh môn với tổng lượng máu 
mất sau sanh là 550 ml.
thường 0,9-1,3), co cục máu yếu và công 
thức máu chưa ghi nhận sự thay đổi.
Mô tả của phẫu thuật viên chính trong 
tường trình phẫu thuật mổ thám sát ghi 
nhận ổ bụng có 100 ml dịch hồng đục, tử 
cung co hồi khá. Đoạn dưới tử cung vùng vết 
mổ cũ mổ lấy thai lệch phải có 1 khối tụ dịch 
kích thước 8 x 8 x 10 cm, bao phủ bởi phúc 
mạc bàng quang, lớp cơ rất mỏng. Tiến hành 
xẻ khối tụ dịch thoát ra 100 ml dịch vàng lợn 
cợn lẫn máu sậm, may phục hồi cơ tử cung 
và thắt động mạch tử cung 2 bên, dẫn lưu ổ 
[Hình 1] Hình ảnh siêu âm nghi ngờ tổn thương 
cơ tử cung ở vết mổ cũ mổ lấy thai
[Hình 2] Tổn thương cơ tử cung vùng vết mổ cũ 
mổ lấy thai phát hiện sau sanh 8 giờ
Hậu sản giờ thứ 8, sản phụ than đau 
nhiều hố chậu phải, khám ghi nhận mạch 
118 lần/ phút, huyết áp 90/50 mmHg, nhiệt 
độ 37,50C, da niêm hồng nhạt, bụng mềm 
ấn đau nhiều hố chậu phải, tử cung co hồi 
tốt và sản dịch sậm ít. Sản phụ được siêu âm 
bụng kiểm tra thì ghi nhận tử cung hướng 
trung gian, đường kính trước sau 74 mm, 
nội mạc tử cung 3,4 mm, mật độ không 
đều. Từ vết mổ lấy thai dọc theo cạnh phải 
tử cung có 1 khối echo kém kích thước 125 
x 46 mm, hố chậu phải có dịch khoảng 20 
mm, hố chậu trái có lượng dịch khoảng 16 
mm và khoảng gan thận có lam dịch mỏng 
5 mm [Hình 1]. Sản phụ được mổ thám sát 
vì nghi ngờ nứt vết mổ cũ/ hậu sản sanh 
giúp giờ thứ 9. Xét nghiệm chức năng đông 
máu thời điểm phẫu thuật bất thường, thời 
gian Prothrombin- PT giảm còn 57% (bình 
thường 70-120%), INR tăng 1,46 (bình 
bụng ra hố chậu phải và lượng máu mất sau 
mổ thêm 100ml [Hình 2]. Chẩn đoán sau 
mổ là tổn thương cơ tử cung/ hậu sản sanh 
giúp giờ thứ 8 - vết mổ cũ MLT.
Hậu phẫu giờ thứ 8, sản phụ tỉnh, da 
niêm hồng, bụng mềm không đau, tử cung 
co hồi tốt và sản dịch sậm ít, ống dẫn lưu 
ra 50 ml dịch vàng loãng. Chức năng đông 
máu trở về bình thường, công thức máu 
biến đổi nhẹ, số lượng hồng cầu 3,28 x 
1012/L, hemoglobin giảm còn 9,1g/dL và 
hematocrit 27,2%. Hậu phẫu ngày thứ 2, 
sản phụ khỏe, tổng trạng tốt, bụng mềm 
không đau, tử cung co hồi tốt, sản dịch sậm 
ít và ống dẫn lưu không ra thêm dịch nên 
rút ống dẫn lưu. Công thức máu ghi nhận 
số lượng hồng cầu giảm còn 2,59 x 1012/L, 
hemoglobin giảm xuống 7,4g/dL và hema-
tocrit 22,1% nên sản phụ được truyền 3 túi 
hồng cầu lắng từ 250 ml máu toàn phần 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
50
nhóm máu A+. Hậu phẫu ngày thứ 4, công 
thức máu kiểm tra có cải thiện, tổng trạng 
sản phụ khỏe, vận động tốt, ăn uống bình 
thường nên sản phụ và em bé đã được xuất 
viện sau đó.
BÀN LUẬN
Bệnh viện Từ Dũ là một trong những 
bệnh viện Sản Phụ khoa lớn của Việt 
Nam có tổng số sanh hằng năm gần trên 
50.000 ca. Báo cáo số liệu năm 2017 ghi 
nhận tổng số ca sanh tại bệnh viện Từ Dũ 
là 68.921 ca với tỷ lệ MLT 42,8% (tương 
ứng 29.496 ca sanh mổ). Sanh ngả âm đạo 
sau mổ lấy thai thành công giúp giảm tỷ 
lệ mổ lấy thai lặp lại và tránh được các 
biến chứng nguy hiểm khi phải mổ lặp lại 
cũng như mang lại nhiều lợi ích cho sản 
phụ và thai nhi. Tuy nhiên, nguy cơ vỡ tử 
cung là biến chứng khiến các bác sĩ sản 
khoa quan tâm nhất nên các trường hợp 
sanh ngả âm đạo sau MLT phải có đáp 
ứng điều kiện cần và đủ, quy trình theo 
dõi và chăm sóc chặt chẽ để nhằm phát 
hiện và xử trí kịp thời các bất thường nếu 
có xảy ra. 
Ở ca lâm sàng này, sản phụ có tiền căn 
mổ lấy thai ngang đoạn dưới tử cung 1 
lần hơn 18 tháng, lý do mổ lấy thai không 
tồn tại và thời gian hậu phẫu không ghi 
nhận bất thường. Sản phụ được theo dõi 
nghiệm pháp sanh ngả âm đạo và đã sanh 
thành công với sự hỗ trợ giúp sanh bằng 
dụng cụ forcep vì tim thai chậm. Về phía 
thai, bé khóc to sau sanh, cân nặng 2.900 
gram và không có vấn đề bất thường sau 
sanh. Về phía mẹ, lượng máu mất sau 
sanh là 550 ml, chủ yếu chảy máu đường 
sinh dục, tử cung co hồi khá và kiểm tra 
mặt trước tử cung trơn láng. Hậu sản giờ 
thứ 8, sản phụ đau nhiều hố chậu phải, 
mạch nhanh và huyết áp giảm thấp, sản 
phụ được siêu âm khẩn cấp ghi nhận tình 
trạng tổn thương cơ tử cung nên đã được 
mổ thám sát. Phẫu thuật đã được tiến 
hành nhanh chóng sau đó, chẩn đoán sau 
mổ là tổn thương cơ tử cung vùng vết 
mổ cũ MLT/ hậu sản sanh giúp giờ thứ 8. 
Phương pháp phẫu thuật là mổ bụng thám 
sát, may phục hồi cơ tử cung, thắt động 
mạch tử cung 2 bên và dẫn lưu ổ bụng. 
Lượng máu mất tổng cộng là 650 ml nên 
công thức máu sau mổ của sản phụ biến 
đổi nhiều: số lượng hồng cầu giảm còn 
2,59 x 1012/L, hemoglobin giảm xuống 
7,4g/dl và hematocrit 22,1% nên sản phụ 
được truyền 3 túi hồng cầu lắng từ 250 
ml máu toàn phần cùng nhóm máu. Quá 
trình hậu phẫu ổn, không có triệu chứng 
bất thường khác nên sản phụ cùng bé 
được xuất viện vào ngày hậu phẫu thứ 4.
Vỡ tử cung ở sản phụ có vết mổ cũ MLT 
liên quan đến sự phá vỡ hoàn toàn của tất 
cả các lớp tử cung bao gồm thanh mạc, dẫn 
đến sự thay đổi nghiêm trọng tình trạng 
của mẹ và thai nhi, là một biến chứng nguy 
hiểm trong sản khoa có thể gây tử vong mẹ 
và thai nhi. Nguy cơ vỡ tử cung ở sản phụ 
theo dõi TOLAC (0,47%) cao hơn MLT chủ 
động (0,026%) nhưng tỷ lệ tử vong mẹ của 
MLT chủ động cao gấp 3 lần TOLAC, lần 
lượt là 0,013% với 0,004%. 
Nứt vết mổ cũ là một hình thái khác của 
tổn thương cơ tử cung, được định nghĩa là 
lớp cơ tử cung bị gián đoạn và không liên 
tục nhưng vẫn còn được bao phủ bằng lớp 
thanh mạc, vì vậy nứt vết mổ cũ thường ít 
gây hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai 
nhi. Tình trạng nứt vết mổ thường được 
phát hiện tình cờ khi mổ lấy thai hoặc siêu 
âm ghi nhận tình trạng màng ối ở ngoài tử 
cung. Hiện tại, chưa có phương pháp đáng 
tin cậy để dự đoán nguy cơ vỡ tử cung ở 
phụ nữ theo dõi nghiệm pháp sanh ngả âm 
đạo. Một số mô hình dự đoán khả năng 
sanh ngả âm đạo thành công ở sản phụ có 
vết mổ cũ MLT đã được xây dựng nhằm 
tiên đoán nguy cơ vỡ tử cung nhưng chưa 
có mô hình nào chứng minh được tính 
hữu ích trên lâm sàng.
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 18, Số 2, Tháng 12 – 2018
51
Trong quá trình chăm sóc sản phụ theo 
dõi TOLAC, các triệu chứng lâm sàng có 
thể giúp gợi ý vỡ tử cung như nhịp tim 
thai cơ bản chậm một cách đột ngột hay 
xuất hiện sau nhịp giảm bất định kéo dài, 
triệu chứng đau đột ngột vùng vết mổ 
cũ, xuất huyết âm đạo, tiểu máu, rối loạn 
huyết động học hay rối loạn cơ co tử cung. 
Trong thời gian hậu sản, nếu trường hợp 
tổn thương cơ tử cung đã xảy ra thì triệu 
chứng ở giai đoạn này được đặc trưng bởi 
đau đột ngột hoặc chảy máu âm đạo kéo 
dài mặc dù đã sử dụng tất cả các thuốc 
co hồi tử cung. Tiểu máu có thể xảy ra 
nếu tình trạng vỡ tử cung kèm theo tổn 
thương bàng quang. Soát lòng tử cung sau 
sanh ngả âm đạo thành công ở sản phụ 
có tiền căn MLT không được khuyến cáo 
thực hiện thường quy. Nếu triệu chứng 
lâm sàng nghi ngờ tổn thương cơ tử cung 
thì việc soát lòng tử cung cần được thực 
hiện.
Nếu triệu chứng lâm sàng hướng tới khả 
năng vỡ tử cung thì siêu âm kiểm tra không 
cần thiết thực hiện vì vỡ tử cung là một cấp 
cứu sản khoa, ảnh hưởng nghiêm trọng tới 
tiên lượng mẹ và thai nhi. Siêu âm hữu ích 
trong các trường hợp nghi ngờ tổn thương 
cơ tử cung ở thời kì hậu sản. Siêu âm có thể 
gợi ý tổn thương cơ tử cung vùng vết mổ 
cũ khi tìm thấy một trong các hình ảnh sau 
như sự gián đoạn của lớp cơ tử cung, khối 
tụ dịch liền kề vết mổ cũ và dịch ổ bụng.
Tổn thương nứt hoặc vỡ tử cung nên 
được cân nhắc phẫu thuật bảo tồn tử cung, 
tùy thuộc vào nguyện vọng mong con của 
sản phụ và gia đình, mức độ tổn thương 
cơ tử cung, tình trạng huyết động học và 
kỹ thuật của phẫu thuật viên. Mục tiêu của 
phẫu thuật bảo tồn tử cung gồm may phục 
hồi và sửa chữa tổn thương cơ tử cung, 
kiểm soát được tình trạng xuất huyết, phát 
hiện và sửa chữa các tổn thương khác kèm 
theo nếu có (tổn thương bàng quang), giảm 
tỷ lệ biến chứng sau mổ và giảm nguy cơ 
biến chứng tổn thương ở thai kì sau.
KẾT LUẬN
Triệu chứng gợi ý tổn thương cơ tử cung 
vùng vết mổ cũ MLT ở các sản phụ sanh 
ngả âm đạo thành công được đặc trưng bởi 
triệu chứng đau đột ngột hoặc chảy máu âm 
đạo kéo dài mặc dù đã sử dụng tất cả các 
thuốc co hồi tử cung. Siêu âm có giá trị hữu 
ích trong trường hợp tổn thương cơ tử cung 
ở thời kì hậu sản qua các hình ảnh như sự 
gián đoạn của lớp cơ tử cung, khối tụ dịch 
liền kề vết mổ cũ và dịch ổ bụng. 
Thủ thuật soát lòng tử cung sau sanh ngả 
âm đạo thành công ở sản phụ có tiền căn MLT 
không được khuyến cáo thực hiện thường 
quy, trừ khi có triệu chứng nghi ngờ tổn 
thương vết mổ cũ. Phẫu thuật bảo tổn tử cung 
cần được ưu tiên thực hiện nhưng các trường 
hợp nguy hiểm đến tính mạng sản phụ thì cắt 
tử cung là một lựa chọn cần cân nhắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Betran, A.P. và cộng sự, The Increasing Trend in Caesarean Section Rates: Global, Regional and 
National Estimates: 1990-2014. PLoS One, 2016. 11(2): p. e0148343.
2. Hammad, I.A. và cộng sự., Peripartum complications with cesarean delivery: a review of Maternal-Fe-
tal Medicine Units Network publications. J Matern Fetal Neonatal Med, 2014. 27(5): p. 463-74.
3. The American College of Obstetricians and Gynecologists, ACOG Practice bulletin no. 115: Vaginal 
birth after previous cesarean delivery. Obstet Gynecol, 2010. 116(2 Pt 1): p. 450-63.
4. The Society of Obstetricians and Gynaecologists of Canada, Guidelines for vaginal birth after previous 
caesarean birth. Int J Gynaecol Obstet, 2005. 89(3): p. 319-31.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

File đính kèm:

  • pdfton_thuong_tu_cung_sau_sanh_nga_am_dao_cua_san_phu_co_vet_mo.pdf