Tổn thương thần kinh lưỡi do nhổ răng khôn hàm dưới

TÓM TẮT

Nhổ răng khôn là một trong những điều trị phổ biến nhất

trong phẫu thuật miệng. Tổn thương các nhánh của thần kinh

V và nhất là thần kinh lưỡi dẫn đến loạn cảm giác hoặc mất

cảm giác có thể là di chứng vĩnh viễn ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng sống bệnh nhân. Bài tổng quan này đề cập đến tỉ

lệ tổn thương thần kinh lưỡi trong phẫu thuật răng khôn dưới

cùng các yếu tố liên quan và các giải pháp phòng ngừa

pdf 5 trang phuongnguyen 8600
Bạn đang xem tài liệu "Tổn thương thần kinh lưỡi do nhổ răng khôn hàm dưới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổn thương thần kinh lưỡi do nhổ răng khôn hàm dưới

Tổn thương thần kinh lưỡi do nhổ răng khôn hàm dưới
CHUYÊN ĐỀ RĂNG HÀM MẶT 
12 THỜI SỰ Y HỌC 11/2016 
TỔN THƯƠNG THẦN KINH LƯỠI DO NHỔ 
RĂNG KHÔN HÀM DƯỚI 
Trần Ngọc Quảng Phi* 
TÓM TẮT 
Nhổ răng khôn là một trong những điều trị phổ biến nhất 
trong phẫu thuật miệng. Tổn thương các nhánh của thần kinh 
V và nhất là thần kinh lưỡi dẫn đến loạn cảm giác hoặc mất 
cảm giác có thể là di chứng vĩnh viễn ảnh hưởng rất lớn đến 
chất lượng sống bệnh nhân. Bài tổng quan này đề cập đến tỉ 
lệ tổn thương thần kinh lưỡi trong phẫu thuật răng khôn dưới 
cùng các yếu tố liên quan và các giải pháp phòng ngừa. 
SUMMARY 
LINGUAL NERVE INJURY IN IMPACTED LOWER 
THIRD MOLAR SURGERY 
Wisdom tooth extraction is one of the most common 
treatments in oral surgery. Injury to the trigeminal nerve, 
especially to the lingual branch, due to surgery may cause 
paresthesia and temporary or permanent sensory loss that 
affects the patient’s quality of life. The paper reviews the 
incidence of lingual nerve injury, its related factors and 
preventive solutions. 
1. GIỚI THIỆU 
Nhổ răng khôn là một trong những điều trị phổ 
biến nhất trong phẫu thuật miệng. Trong số các 
biến chứng có thể xảy ra, đáng ngại nhất là tổn 
thương các nhánh của thần kinh V. Mặc dù đa số 
các trường hợp chỉ xảy ra nhất thời, nhưng các di 
chứng vĩnh viễn để lại, như giảm hay loạn cảm 
giác ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống 
của bệnh nhân. Các nhánh thần kinh V bị tổn 
thương trong nhổ răng khôn hàm dưới có thể là 
nhánh thần kinh (TK) lưỡi, TK xương ổ dưới, TK 
miệng hay TK hàm móng, trong đó tổn thương phổ 
biến nhất là tổn thương TK xương ổ dưới và TK 
lưỡi. Theo các thống kê, tổn thương TK xương ổ 
dưới chiếm tỉ lệ từ 0,5%- 0,8% và TK lưỡi từ 0%- 
10%.(1,2,3) Ngoài ra, tổn thương TK V sau khi nhổ 
răng khôn không chỉ làm mất chức năng trong thời 
gian ngắn, mà còn để lại di chứng lâu dài làm ảnh 
hưởng nghiêm trọng chất lượng cuộc sống của 
bệnh nhân. Do vậy, những vấn đề này cần phải 
được giải thích cho bệnh nhân và đề cập trong cam 
kết phẫu thuật trước khi tiến hành 
nhổ răng khôn dưới, bên cạnh các biến chứng khác 
như sưng nề, chảy máu, đau sau mổ. 
*Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tp HCM, tnqphi@pnt.edu.vn 
Mặc dù bản thân thuốc tê có thể gây tổn thương 
TK lưỡi hay TK xương ổ dưới, nhưng nguyên nhân 
chính gây các tổn thương này ở vùng răng khôn 
vẫn là chấn thương khi phẫu thuật. TK lưỡi ở vùng 
răng khôn dưới nằm dưới niêm mạc và không có 
ống xương bao quanh (Hình 1). Vì vậy, không thể 
đánh giá chính xác vị trí TK lưỡi bằng các phim tia 
X thường quy như phim cận chóp hay phim toàn 
cảnh. Ở vùng này, TK lưỡi nằm bên dưới mào 
xương 2,8 mm ± 1mm và cách vách xương vỏ phía 
trong 2,5 mm ± 0,7 mm, mặc dù đôi khi TK lưỡi 
cũng có thể nằm sát vách xương phía trong và bên 
trên mào xương. Ngoài ra, vị trí của TK lưỡi ở hai 
bên dường như độc lập với nhau.(4) Kỹ thuật chụp 
cắt lớp có thể giúp xác định vị trí TK lưỡi , nhưng 
đây không phải là kỹ thuật thường quy, do đó chỉ 
có một cách duy nhất tránh làm tổn thương TK lưỡi 
là tạo đường rạch nằm cách xa bờ trong vết thương, 
không đưa dụng cụ vào vùng này, và không phá 
vách xương trong.(5) 
Hình 1. Hình ảnh nhìn từ trong qua lát cắt đứng dọc trên 
xác (đã lấy đi cơ chân bướm trong) cho thấy đường đi 
của thần kinh lưỡi ở vùng răng khôn dưới (nguồn: 
Alfonso Rodriguez, Barcelona) 
Do nằm trong mô mềm, gần với vách xương 
trong, TK lưỡi dễ bị đè ép hoặc rách hay bị kẹp 
phải bởi cây banh má, mũi khoan, hay các dụng cụ 
phẫu thuật khác. 
TỔNG QUAN 
THỜI SỰ Y HỌC 11/2016 13 
Một số TK khác cũng có thể bị phá hủy do nhổ 
răng khôn dưới như TK hàm móng hay TK miệng. 
TK hàm móng, nhánh của TK xương ổ dưới, phân 
bố đến cơ hàm móng, bó trước cơ nhị thân, da cằm 
bên dưới, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi, và 
khoảng 50% trường hợp phân bố đến cả các răng 
cửa dưới.(4) Tổn thương TK này ít xảy ra hơn và 
bệnh nhân cũng ít chú ý hơn so với những bệnh 
nhân bị tổn thương TK xương ổ dưới, đó là do tổn 
thương này chỉ ảnh hưởng một vùng da nhỏ ở dưới 
cằm, gần đường giữa. Tuy nhiên, nguyên nhân và 
sinh bệnh học của phá hủy TK khá giống với tổn 
thương TK lưỡi. Ngoài ra, TK miệng cũng có thể 
bị phá hủy do nhổ răng khôn dưới; TK gồm các sợi 
dẫn truyền cảm giác từ niêm mạc má, nướu mặt 
ngoài và niêm mạc hàm dưới vùng răng cối lớn (có 
thể đến cả các răng cối nhỏ) và da; TK này cũng 
phải được gây tê khi nhổ răng khôn dưới. TK 
miệng có thể bị phá hủy do lật vạt phía má quá mức 
hay bị ảnh hưởng ở đoạn chạy trong xương của TK 
miệng, nhưng tổn thương này rất hiếm xảy ra.(6) 
Bài tổng quan này đề cập đến tổn thương TK 
lưỡi, các yếu tố liên quan và cách phòng ngừa. 
2. CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TỔN THƯƠNG TK 
LƯỠI VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA 
Ở vùng răng khôn hàm dưới, TK lưỡi thường 
nằm dưới niêm mạc phủ bên trên vách xương 
trong. Chấn thương TK lưỡi khi phẫu thuật nhổ 
răng khôn dưới là do can thiệp không thích hợp tại 
vách xương trong hàm dưới và niêm mạc phủ. Tỉ 
lệ tổn thương TK lưỡi sau nhổ răng khôn rất khác 
nhau trong các nghiên cứu.(1,2,3,7,8) Điều này phản 
ánh sự khác biệt quan trọng trong cách xử lý mô 
mềm và mô cứng phía trong răng khôn dưới. 
Cách phòng tránh gây tổn thương TK lưỡi gồm 
có (1) sử dụng đường vào từ phía má, không bóc 
tách vạt phía lưỡi và (2) cẩn thận khi khoan xương 
hay cắt răng để không làm thủng vách xương 
trong. 
2.1. Tạo vạt phía má và phía lưỡi trong phẫu thuật 
RKHD 
Răng khôn dưới thường nằm gần vách xương 
trong hơn, và vách xương này mỏng hơn nhiều so 
với vách xương ngoài. Khác biệt giải phẫu này là 
cơ sở cho kỹ thuật nhổ răng khôn từ mặt trong bằng 
cách sử dụng đục hay mũi khoan tạo đường vào và 
nhổ răng khôn qua lối vào này. Kỹ thuật phẫu thuật 
nhổ răng khôn dưới từ mặt trong khá đơn giản và 
nhanh chóng, nhưng tỉ lệ tổn thương TK lưỡi cao 
đến mức không chấp nhận được.(2,9) Mặc dù có ghi 
nhận là tổn thương này có thể chỉ tạm thời, nhưng 
cần phải lưu ý rằng bất kỳ sự chèn ép hay làm rách 
TK đều có thể là nguyên nhân gây thoái hóa sợi 
trục. Do đó, lý tưởng là nên tránh tất cả các thao 
tác có thế ảnh hưởng TK hay khả năng gây tổn 
thương, ngay cả việc kéo nhẹ thần kinh. Thực tế, 
một nghiên cứu tổng quan hồi cứu hệ thống đã xác 
nhận phương pháp tiếp cận phía lưỡi gây tổn 
thương TK lưỡi nhiều hơn đáng kể so với cách tiếp 
cận phía ngoài.(10) 
Trong một số trường hợp hiếm gặp, TK lưỡi có 
thể nằm ngay trên mào xương phía xa răng 7 dưới, 
phủ lên răng khôn mọc kẹt. Đây là vị trí nhiều nguy 
cơ khi nhổ răng khôn, vì đường rạch có thể cắt 
trúng hay làm rách thần kinh. Do đó, các nhà phẫu 
thuật khuyến cáo nên tránh rạch trên mào xương 
phía xa răng 7 dưới, mà tạo đường rạch về hướng 
niêm mạc má và kéo dài theo hướng xa ngoài(5) 
(Hình 2). 
Hình 2. Đường rạch vạt bao để nhổ RKHD. Đường rạch 
nằm bên trên RKHD mọc ngầm hơi lệch về phía ngoài 
so với mào xương, đi từ phía xa ngoài của răng 7 kế 
cận hướng về phía đường chéo ngoài. Tránh rạch trên 
mào xương phía xa RKHD vì có khả năng đụng TK Lưỡi 
nếu nằm bên trên mào xương. 
Khi tiếp cận răng khôn theo đường vào phía má 
thì cần mở xương rộng hơn so với phía trong, 
nhưng an toàn hơn cho TK lưỡi. Tuy nhiên, nếu 
không bóc tách vạt trong sẽ làm hạn chế tầm nhìn 
của phẫu thuật viên. Để thuận lợi hơn trong việc 
“bảo vệ” mô mềm và vách xương phía trong khi 
TỔNG QUAN 
14 THỜI SỰ Y HỌC 11/2016 
Hình 3 (a): Sử dụng cây bóc tách giúp nhìn rõ hơn phần xương phía xa răng 7 dưới và ngăn mũi khoan vô tình 
chạm vào vạt phía trong. Tuy nhiên, cây bóc tách có khả năng gây chấn thương mô mềm phía trong vết thương và 
làm tăng khả năng tổn thương TK lưỡi. Hình 3(b): Nên áp dụng phương pháp tiếp cận phía má mà không tách mô 
mềm phía lưỡi của vết thương. Vạt giúp nhìn rõ và tránh nguy cơ tổn thương TK lưỡi. 
khoan xương và cắt răng, có thể dùng nhiều loại 
dụng cụ khác nhau để banh giữ vạt. Trước đây, một 
số tác giả cho rằng càng banh vạt rộng phía lưỡi 
càng tốt, vì tuy làm tăng nguy cơ tổn thương TK 
lưỡi tạm thời nhưng lại làm giảm nguy cơ tổn 
thương TK vĩnh viễn.(10) Tuy nhiên, việc kéo vạt 
về phía lưỡi đã dần được xác định là yếu tố nguy 
cơ chính gây tổn thương TK lưỡi, nên không còn 
được dùng nữa. 
2.2. Sử dụng dụng cụ banh vạt phía lưỡi 
Như đã đề cập ở trên, nhiều loại banh vạt khác 
nhau được khuyên nên sử dụng để banh vạt phía 
lưỡi khi nhổ răng khôn dưới. Đưa dụng cụ vào giữa 
vách xương trong hàm dưới và vạt niêm mạc trong 
(Hình 3) để nhìn thấy rõ hơn phần xương bao phủ 
răng khôn dưới và “bảo vệ” vạt khỏi bất kỳ chấn 
thương do nạy hay mũi khoan.(11) Đôi khi cần 
những dụng cụ hơi to để tạo được vùng bảo vệ rộng 
hơn, đây là phương pháp truyền thống được 
khuyên áp dụng. Tuy nhiên, nhiều báo cáo cho 
thấy việc banh vạt phía lưỡi trong phẫu thuật nhổ 
răng khôn dưới không giúp tránh được tổn thương 
TK lưỡi mà còn gây tổn thương TK lưỡi nhiều hơn. 
Một tổng quan y văn hệ thống đã cho thấy sử dụng 
đường vào từ phía má, không bóc tách vạt phía 
trong, giúp giảm các tổn thương TK lưỡi tạm thời 
xuống 9 lần so với cùng đường vào nhưng có tách 
vạt trong.(10) Vai trò của việc tách vạt trong đối với 
tổn thương TK được xác định sau khi có một báo 
cáo phân tích việc tách vạt trong liên quan đến các 
tổn thương TK như thế nào. Sau đó, kỹ thuật phẫu 
thuật được cải tiến bằng cách không banh vạt 
trong, và số trường hợp tổn thương TK lưỡi tạm 
thời cũng giảm xuống 4 lần. Một thử nghiệm ngẫu 
nhiên có nhóm chứng cũng đã chứng minh tách vạt 
trong làm tăng tổn thương TK lưỡi một cách đáng 
kể.(12) Do đó, nhiều bằng chứng hiện nay cho thấy 
phương pháp tiếp cận phía má không chỉ an toàn 
hơn cho TK lưỡi so với tiếp cận phía lưỡi, mà nếu 
có thể, thì khi tiếp cận phía má cũng không nên 
thực hiện thao tác tách thêm vạt phía lưỡi. 
2.3 Sử dụng các phương tiện loại bỏ xương 
Hiện nay, cách thức ưa được sử dụng để loại bỏ 
xương khi nhổ răng khôn dưới là dùng mũi khoan 
hay dụng cụ cầm tay. Tuy nhiên, khi áp dụng 
đường vào phía lưỡi thì có thể dùng đục để loại bỏ 
xương. Mặc dù một số báo cáo kết luận rằng đục 
an toàn hơn và ít gây tổn thương TK xương ổ 
dưới,(2,9) điều này không hợp lý vì mũi khoan dễ 
kiểm soát và loại bỏ xương rất chính xác, trái 
ngược với đục. 
Ngày nay, có một số phương tiện khác có thể 
dùng để loại bỏ xương như laser hay siêu âm. 
Dùng laser Er:YAG hay Er,Cr:YSGG có thể 
kiểm soát việc loại bỏ xương và chia cắt răng rất 
tốt. Tuy nhiên, mặc dù một số laser rất chính xác 
và là công cụ nhẹ nhàng để loại bỏ xương, nhưng 
để chia cắt răng thì thường nên sử dụng mũi 
khoan, vì mũi khoan cắt nhanh hơn và cho cảm 
giác tốt hơn khi cắt sâu.(2,9) Cũng có thể loại bỏ 
xương bằng dụng cụ phẫu thuật siêu âm khi nhổ 
răng khôn dưới. Mặc dù quá trình hậu phẫu có thể 
tương đương phẫu thuật cắt xương truyền thống 
sử dụng mũi khoan, nhưng ưu điểm hơn mũi 
TỔNG QUAN 
THỜI SỰ Y HỌC 11/2016 15 
khoan, vì dụng cụ phẫu thuật siêu âm không làm 
tổn thương TK xương ổ dưới hay TK lưỡi khi 
tiếp xúc. Nhưng dùng phẫu thuật siêu âm thì 
chậm hơn và có ít bằng chứng về ưu điểm của 
dụng cụ này khi nhổ răng khôn dưới. 
2.4. Bảo toàn vách xương trong 
Khi khoan xương và nhất là cắt răng, cần hết 
sức cẩn thận để không làm thủng vách xương 
trong. Việc cố gắng nhổ răng thật nhanh có thể dẫn 
đến việc cắt xương không cẩn thận, vượt qua giới 
hạn răng khôn. Do chân răng nằm rất gần hay thậm 
chí đôi khi xuyên qua vách trong, nên có thể gây 
thủng vỏ xương mỏng này và xuyên vào mô mềm 
khi cắt răng. Thủng màng xương có thể phá hủy 
trực tiếp TK lưỡi hoặc tạo khối xơ hóa chèn ép lên 
TK trong quá trình lành thương.(3,7) 
Bảo toàn vách xương trong rất quan trọng vì 
chính vách trong có tác dụng giúp bảo vệ TK lưỡi. 
Yếu tố then chốt giúp tránh xâm phạm vách trong 
là phải lập kế hoạch với thời gian hợp lý khi thực 
hiện chia cắt răng/chân răng, tránh kéo căng quá 
mức mô mềm phía lưỡi, và đảm bảo phẫu trường 
rõ ràng; như thế sẽ tránh nguy cơ làm tổn thương 
TK lưỡi do điều trị.(2,3,9) 
2.5 Làm sạch và khâu vết thương 
Khâu vết thương không được xem là yếu tố 
nguy cơ đáng chú ý gây tổn thương TK lưỡi khi 
nhổ răng khôn dưới. Tuy nhiên, khi phẫu thuật nhổ 
răng khôn dưới, phẫu thuật viên nên lưu ý tương 
quan gần giữa TK lưỡi và mào xương phía xa răng 
7 kế cận và tránh đặt mũi khâu nằm quá thấp ở phía 
trong.(3) 
Sau khi loại bỏ một phần răng khôn dưới đã 
mọc, bất kỳ mô sợi, nang, hay mô viêm nào cũng 
nên được lấy đi một cách cẩn thận để tạo thuận lợi 
cho lành thương nguyên phát và ngăn chặn sự thoái 
hóa các mô. Tuy nhiên, nên cẩn thận khi lấy mô 
mềm sau nhổ răng, chẳng hạn như mô sợi hay nang 
quanh răng còn sót lại do TK xương ổ dưới có thể 
nằm trong các hốc này. Nên nhìn rõ phẫu trường 
phía mặt trong và tránh kéo căng mô quá mức là yếu 
tố rất quan trọng giúp tránh phá hủy TK lưỡi khi TK 
nằm gần vách xương phía xa của răng 7.(7) Trong 
trường hợp này, cần tránh kéo căng hay loại bỏ mô, 
và chấp nhận không tốt cho lành thương thời kỳ đầu 
còn hơn là gây phá hủy TK lưỡi. Trong trường hợp 
tổn thương TK lưỡi do khâu, nguyên nhân có thể là 
do kim khâu hay chỉ khâu chèn ép TK gây dị cảm 
tạm thời và tổn thương thường tự hồi phục.(1,13) 
2.6 Kinh nghiệm của phẫu thuật viên 
Một số báo cáo cho thấy phẫu thuật viên có kinh 
nghiệm dường như gây tổn thương TK lưỡi nhiều 
hơn đáng kể khi nhổ răng khôn dưới. Ghi nhận này 
có thể liên quan đến nhận định sai lầm về yếu tố 
lựa chọn (các phẫu thuật viên có kinh nghiệm 
thường phẫu thuật nhổ các trường hợp răng khôn 
dưới nằm sâu nhất hay khó hơn) hoặc do sử dụng 
kỹ thuật xâm lấn hơn. Trên thực tế, tỉ lệ các tổn 
thương TK lưỡi trong các báo cáo này rất cao (từ 
11,5% đến 36 % đối với các phẫu thuật viên nhiều 
kinh nghiệm).(7,9) Hơn nữa, trong những báo cáo 
này, cũng có đánh giá mối liên quan giữa mức độ 
mọc kẹt và tổn thương TK lưỡi, ở những ca mọc 
kẹt nhiều, thường sử dụng kỹ thuật xâm lấn hơn. 
Thực tế, đối với cách tiếp cận phía má để nhổ 
răng khôn dưới, phẫu thuật viên không có kinh 
nghiệm dường như chỉ làm tổn thương TK lưỡi khi 
bóc tách mô mềm phía lưỡi, vì tách vạt phía lưỡi 
là nguyên nhân liên quan nhiều nhất đến tổn 
thương TK lưỡi như đã thảo luận ở trên. Thực tế 
ngược lại, cũng có những báo cáo khác chỉ ra rằng 
các phẫu thuật viên đang học nội trú gây tổn 
thương TK lưỡi và TK xương ổ dưới với tỉ lệ cao 
hơn so với các phẫu thuật viên có kinh nghiệm, và 
thời gian phẫu thuật cũng tăng đối với phẫu thuật 
viên chưa có kinh nghiệm, điều này dường như có 
liên quan đến việc chọn lựa trường hợp phẫu 
thuật.(3,13) 
2.7 Tuổi 
Mặc dù một số báo cáo chỉ ra tỉ lệ tổn thương 
TK V tăng nhẹ cùng với tuổi, tỉ lệ tổn thương TK 
lưỡi sau khi nhổ răng khôn dưới dường như không 
phụ thuộc vào tuổi nhiều như là tổn thương TK 
xương ổ dưới.(14) Những báo cáo khác cho thấy 
mối liên quan rõ ràng giữa các trường hợp sau khi 
nhổ răng khôn dưới với dị cảm, cũng như những 
biến chứng khác ở những bệnh nhân lớn tuổi. 
3. KẾT LUẬN 
Tóm lại, nhổ răng khôn dưới là nguyên nhân 
của hầu hết các tổn thương TK lưỡi và TK xương 
ổ dưới, và có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây dị cảm, 
gồm có kỹ năng phẫu thuật, tuổi bệnh nhân, các 
yếu tố dự báo trên phim tia X hay tương quan chân 
răng - thần kinh, kinh nghiệm phẫu thuật viên, giới 
tính, và sử dụng thuốc đặt trong ổ răng. Mặc dù có 
một số biện pháp có thể áp dụng làm giảm tỉ lệ tổn 
thương TK lưỡi và TK xương ổ dưới do nhổ răng 
TỔNG QUAN 
16 THỜI SỰ Y HỌC 11/2016 
khôn dưới, nhưng thực tế vẫn không tránh khỏi 
nguy cơ tổn thương TK này trong phẫu thuật nhổ 
răng khôn dưới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Blondeau F, Daniel NG (2007) Extraction of impacted mandibular third molars: 
postoperative complications and their risk factors. J Can Dent Assoc 73(4): 325 
2. Rood JP (1992) Permanent damage to inferior alveolar and lingual nerves 
during the removal of impacted mandibular third molars. Comparison of two 
methods of bone removal. Br Dent J 172(3): 108-110 
3. Robert RC, Bacchetti p, Pogrel MA (2005) Frequency of trigeminal nerve injuries 
following third molar removal. J Oral Maxilloíac Surg 63(6): 732- 735. 
4. Pogrel MA, Renaut A, Schmidt B, Ammar A (1995). The relationship of the 
lingual nerve to the mandibular third molar region: an anatomic study. J Oral 
Maxillofac Surg 53(10): 1178-81. 
5. Pichler JW, Beirne OR (2001). Lingual flap retraction and prevention of lingual 
nerve damage associated with third molar surgery: a systematic review of the 
literature. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod 91(4): 395-401. 
6. Pogrel MA, Le H (2006). Etiology of lingual nerve injuries in the third molar 
region: a cadaver and histologic study. J Oral Maxillofac Surg 64(12):1790-4. 
7. Mason DA (1988) Lingual nerve damage following lower third molar surgery. Int 
J Oral Maxillofac Surg 17(5):290-294 
8. Lata J, Tiwari AK (2011). Incidence of lingual nerve paraesthesia following 
mandibular third molar surgery. Natl J Maxillofac Surg 2(2): 137-40. 
9. Robinson PP, Smith KG (1996) Lingual nerve damage during lower third molar 
removal: a comparison of two surgical methods. Br Dent J 180(12): 456 – 61 
10. Kushnerev E, Yates JM (2015). Evidence-based outcomes following inferior 
alveolar and lingual nerve injury and repair: a systematic review. J Oral Rehabil. 
42(10): 786-802. 
11. Chossegros C, Guyot L, Cheynet F, Belloni D, Blanc JL (2002). Is lingual nerve 
protection necessary for lower third molar germectomy? A prospective study of 
300 procedures. Int J Oral Maxillofac Surg. 31(6): 620-4. 
12. Gomes AC, Vasconcelos BC, de Oliveira e Silva ED, da Silva LC (2005). 
Lingual nerve damage after mandibular third molar surgery: a randomized 
clinical trial. J Oral Maxillofac Surg. 63(10):1443-6. 
13. Bataineh AB (2001) Sensory nerve impairment following mandibular third molar 
surgery. J Oral Maxillofac Surg 59(9): 1012-1017. 
14. Bruce RA, Frederickson GC, Small GS (1980) Age of patients and morbidity 
associated with mandibular third molar surgery. J Am Dent Assoc 101(2): 240-
245 

File đính kèm:

  • pdfton_thuong_than_kinh_luoi_do_nho_rang_khon_ham_duoi.pdf