Tôn giáo: thiêng hay tục phân tích tôn giáo từ góc độ hiện tượng học

Tóm tắt: Bài viết này phân tích cặp phạm trù hết sức cơ bản của

tôn giáo là cái Thiêng và cái Tục từ góc độ hiện tượng học. Liên

quan đến chủ đề này, khi bàn về ý nghĩa hiện đại và ý nghĩa cổ

điển của cái Thiêng, tác giả chú trọng thảo luận về vấn đề thế tục

hóa của tôn giáo và các chức năng xã hội của tôn giáo.

Từ khóa: Cái Thiêng, cái Tục, tôn giáo, hiện tượng học, thế tục

hóa của tôn giáo, chức năng xã hội của tôn giáo.

pdf 11 trang phuongnguyen 2900
Bạn đang xem tài liệu "Tôn giáo: thiêng hay tục phân tích tôn giáo từ góc độ hiện tượng học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tôn giáo: thiêng hay tục phân tích tôn giáo từ góc độ hiện tượng học

Tôn giáo: thiêng hay tục phân tích tôn giáo từ góc độ hiện tượng học
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 – 2014 
TRƯƠNG HIẾN(*) 
TÔN GIÁO: THIÊNG HAY TỤC 
PHÂN TÍCH TÔN GIÁO TỪ GÓC ĐỘ HIỆN TƯỢNG HỌC 
Tóm tắt: Bài viết này phân tích cặp phạm trù hết sức cơ bản của 
tôn giáo là cái Thiêng và cái Tục từ góc độ hiện tượng học. Liên 
quan đến chủ đề này, khi bàn về ý nghĩa hiện đại và ý nghĩa cổ 
điển của cái Thiêng, tác giả chú trọng thảo luận về vấn đề thế tục 
hóa của tôn giáo và các chức năng xã hội của tôn giáo. 
Từ khóa: Cái Thiêng, cái Tục, tôn giáo, hiện tượng học, thế tục 
hóa của tôn giáo, chức năng xã hội của tôn giáo. 
1. Vấn đề và phương pháp 
Tôn giáo là một hiện tượng có từ lâu đời của nhân loại. Cho nên, 
nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo coi sự tồn tại của con người là một loại tồn 
tại mang tính tôn giáo. Trao đổi với các nhà nghiên cứu tôn giáo của Việt 
Nam, tự nhiên chúng tôi có hai loại cảm xúc: Một là, muốn khôi phục 
hiện thực trạng thái nguyên sơ của tôn giáo. Hai là, suy nghĩ cách thức 
giải thích một cách hiện đại về tôn giáo. 
Theo chúng tôi, trạng thái nguyên sơ của tôn giáo chính là “hạt nhân 
sự sống” (Die Existentielle Kern)1. Nó có ở lễ hiến sinh của thổ dân Châu 
Úc và Nam Mỹ; cũng có ở lễ hoa đăng đêm 15 tháng 1 (lịch Tây Tạng) 
hằng năm của người Tây Tạng. Những hoạt động như thờ cúng tổ tiên, tế 
lễ, vu thuật, bói toán, nghi lễ trong các tôn giáo khác nhau được bảo tồn 
trong xã hội người dân đều là hình thức biểu hiện “hạt nhân sự sống” của 
tôn giáo, đang duy trì lịch sử tồn tại thiêng hóa của nhân loại. 
Nhiều loại hình tôn giáo trong lịch sử đều biểu đạt thái độ đối với tự 
nhiên, số phận cá nhân và thế giới sự sống. Nhà sử học tôn giáo nổi tiếng 
M. Eliade đã viết trong phần cuối tác phẩm Chuyên luận lịch sử tôn giáo 
(Traité d'histoire des religions, Paris, Payot, 1964)2 rằng: “Tôn giáo Tây 
Tạng về tổng thể có nhiều điểm tương tự Ấn Độ giáo và Công giáo thời 
Trung Cổ, đều là tôn giáo truyền thống, tôn giáo cứu chuộc và truyền 
* GS. TS., Đại học Trung Sơn, Trung Quốc. 
4 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014 
 4 
thống bí truyền. Ngay cả sự tương đồng về chính trị và thần quyền của 
Giáo hội Công giáo La Mã Phương Tây thời Trung Cổ với Lạt Ma giáo 
cũng làm người ta ngạc nhiên”3. Từ đó thấy rằng vấn đề cốt lõi tôn giáo 
là ở chỗ làm thế nào để lột tả được đời sống thiêng của con người trên cơ 
sở “hạt nhân sự sống” của tôn giáo? 
Do vậy, chúng tôi cho rằng, cần thoát khỏi chủ nghĩa lý trí và thái độ 
siêu tự nhiên trong việc lý giải tôn giáo theo cách truyền thống, thử vận 
dụng quan điểm hiện tượng học để xem xét tôn giáo: Thứ nhất, thông qua 
hiện tượng hoàn nguyên tìm ra “hạt nhân sự sống”/cái Thiêng (das 
Heilige), tức là thấy nó mang tính thiêng trong đời sống trần thế của nhân 
loại. Thứ hai, dùng sinh tồn luận (Existentism) của hiện tượng học để 
miêu tả biểu hiện thế tục hóa của tính thiêng trong tôn giáo. 
Ở phương diện này, chúng tôi chủ yếu đề cập đến công việc của các 
nhà tôn giáo học như R. Otto, G. Simmel, và M. Eliade. 
2. Tôn giáo ở đâu (Wo)? Tôn giáo ở kia (Da)! 
Nghiên cứu tôn giáo học, khảo cổ học cho thấy, tôn giáo gần như là 
một hiện tượng sống song hành với sựtiến hóa của nhân loại. 
Theo M. Eliade, ngay từ thời đại người vượn Bắc Kinh và người 
Neanderthal4 đã có niềm tin về sự sống sau khi chết. Người nguyên thủy 
đã dùng đá đỏ thay thế máu trong tang lễ, coi đó tượng trưng cho sự sống. 
Hiện tượng này còn phổ biến ở nhiều nơi khác trên thế giới5. Người 
nguyên thủy đã dùng cách xử lý thi thể mà họ cho là thiêng nhất. Hàm 
nghĩa tôn giáo của tập tục này, cho dù còn nhiều cách lý giải khác nhau, 
nhưng chúng ta có thể tin rằng, người nguyên thủy đã dùng tang lễ thiêng 
hóa để biểu đạt niềm tin về sự sống sau khi chết. 
Bất kể như thế nào, niềm tin vào sự tồn tại của con người sau khi chết 
liên quan đến niềm tin vào sự tồn tại của một lực lượng tinh thần phi 
nhân cách trong vũ trụ. Với người Trung Quốc, lực lượng đó là quỷ 
hồn6.Với người Melanesian7, đó là mana, một lực lượng thiêng vừa tồn 
tại ở núi rừng, vừa nhập vào mỹ nữ hoặc động vật hung dữ. 
Từ đó, các nhà nhân học thời kỳ đầu như Edward B. Tylor dùng 
thuyết hồn linh giáo (Animism) để định nghĩa tôn giáo nguyên thủy của 
nhân loại, cho rằng loại tôn giáo này hoàn toàn tồn tại trong dạng niềm 
tin và trong hoạt động thực tiễn. R. R. Marett còn cho rằng, thuyết tiền 
hồn linh giáo (Preanimism) và thuyết sức sống (Dynamism) là niềm tin 
Trương Hiến. Tôn giáo: Thiêng hay tục... 5 
 5 
cơ bản và lâu đời nhất của người nguyên thủy. Hai ông tin rằng, trong tự 
nhiên tồn tại lực lượng thiêng phi nhân cách, và con người có thể (hoặc 
cần phải) tiếp xúc thông qua các nghi lễ, để “sự sống của mình được an 
bài”, theo cách nói của các nhà tân Nho Trung Quốc. 
Rõ ràng, lý thuyết của các nhà nhân học nói trên đã cho chúng ta thấy 
một loại nguồn gốc của tôn giáo: tôn giáo bắt nguồn từ niềm tin về lực 
lượng thiêng phi nhân cách, chẳng hạn như quỷ hồn hay mana. Sau đó, 
niềm tin này lại được nhân cách hóa, phát triển thành thần linh nhân cách 
hóa, rồi nữa là đa thần giáo, cuối cùng mới biến thành nhất thần giáo mà 
chúng ta thấy ngày nay (như Do Thái giáo, Kitô giáo, Islam giáo) và vô 
thần giáo (như Phật giáo)8. Không khó tưởng tượng rằng, tình cảm của 
loài người thể hiện trong niềm tin tôn giáo là đa dạng và phức tạp: vừa có 
cảm giác yêu mến, tôn kính, tin tưởng, dựa dẫm; vừa có cảm giác nhỏ bé, 
thấp kém, trống rỗng và dâng hiến. Nhưng cho dù có nhiều cảm nhận như 
vậy vẫn chưa thể là nội hàm tận cùng của lòng sùng bái tôn giáo. Vậy 
chúng ta dựa vào ý nghĩa nào để nói rằng, niềm tin tôn giáo có tính thiêng? 
Theo R. Otto, trong sự trải nghiệm đời sống thế tục phức tạp, mỗi người 
đều có thể hoàn nguyên ba loại cảm nhận tôn giáo (Feeling) có thể gọi là 
Thiêng/thần bí (Numinous). Thứ nhất là cảm nhận sản phẩm của Đấng 
Sáng Tạo (Creature- Feeling) 9 . Thứ hai là cảm nhận sự kính sợ 
(Tremendum)10. Thứ ba là cảm giác bị mê hoặc (Fascinans)11. Ba loại 
cảm nhận tôn giáo này đều cấu tạo một cách nguyên sơ nên niềm tin của 
con người tôn giáo (Homo-Religious): luôn tin tưởng có một thực thể 
tuyệt đối - một Đấng Thiêng tồn tại, từ đó tin rằng sự sống của ta có một 
khởi nguồn linh thiêng. 
Nhưng M. Eliade không thỏa mãnvới nghiên cứu của R. Otto chỉ giới 
hạn cái Thiêng ở phương diện phi lý tính trong trải nghiệm tôn giáo. M. 
Eliade không chú trọng vào quan hệ giữa lý tính và phi lý tính trong yếu 
tố tôn giáo, mà nắm bắt chỉnh thể cái Thiêng. Nói cách khác, ông hy 
vọng kế thừa cuốn Cái Thiêng (Das Heilige) của R. Ottogiải thích cái 
Thiêng tự hiển hiện và chứng thực ra sao. Bất kể là tôn giáo nguyên thủy 
nhất (nhiều yếu tố chỉ thấy qua khảo cổ), hay tôn giáo phát triển nhất (the 
mots highly developed religion) có quan hệ với khoa học kỹ thuật tiên 
tiến nhất, thì tất cả lịch sử tôn giáo đều được cấu thành bởi nhiều thực thể 
(Eliade gọi là thực thể Thiêng/Hierophany) khác nhau. Nói cách khác, 
thực thiếng đó, bất kể là y phục của Đạo sĩ hay Tăng sĩ, là chén thánh của 
Kitô giáo hay là đá thiêng ở Thánh địa Meca của Islam giáo, đối với con 
6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014 
 6 
người tôn giáo (con người có trải nghiệm tôn giáo)12, không còn là vật 
thể vốn có mà đã chuyển hóa thành vật thiêng hóa và siêu nhiên. Cụ thể 
hơn, với con người tôn giáo, bất kể là rừng núi, sông hồ hay tuyết sương, 
mưa gió, cầu vồng; bất kể là chim trời, cá nước hay phiến đá, viên ngọc, 
tất cả đều tự thể hiện tính thiêng của vũ trụ. Nói chung, “vũ trụ là một 
chỉnh thể, nó cũng có thể trở thành một thực thể thiêng”13. Rõ ràng, sự 
tồn tại tôn giáo đã tái tạo tự nhiên, mang đến cho tự nhiên một mối liên 
hệ tổng thể linh thiêng. Đồng thời, đời sống thế tục cũng thăng hoa tới 
không gian và lực lượng thiêng. 
Thực vậy, khi M. Eliade nói rằng Thiêng và Tục là hai dạng thức tồn 
tại ở thế giới này, có nghĩa là hai trạng thái tồn tại màcon người tiếp nhận 
trong lịch sử của mình. Ông nói thêm: “Hai phương thức tồn tại đó trên 
thế giới hoàn toàn không chỉ liên quan với lịch sử tôn giáo và xã hội học; 
không chỉ là đối tượng nghiên cứu của riêng sử học, xã hội học, văn hóa 
học. Nói một cách cơ bản, hai dạng thức tồn tại Thiêng và Tục đều phụ 
thuộc vào việc loài người đã chiếm lĩnh những vị trí khác nhau trong vũ 
trụ này. Vì vậy, chúng là vấn đề quan tâm chung của nhà triết học và 
những người ra sức tìm kiếm viễn cảnh khả năng loài người tồn tại trên 
thế giới này”14. 
Vấn đề này căn bản là một vấn đề nhân học có cơ sở hiện tượng học. 
Do đó, chúng ta có thể nói về Thiêng và Tục của tôn giáo trong ý nghĩa 
kép. Thứ nhất, con người vốn có tính tôn giáo. Nghĩa là, tôn giáo xuất 
hiện từ xung động và nhu cầu linh hồn của con người15. Những nhu cầu 
và xung động này không liên quan đến thực tế trải nghiệm và phạm trù 
nhận biết. Bởi vì, bản chất ý thức của tôn giáo là đối diện với cái Thiêng 
tự hiển lộ nhưng lại chưa được nhận biết. Đối diện ý nghĩa đó về căn bản 
không phải là cái Thiêng tự do trong cái Tục. Do đó, quan hệ minh bạch 
giữa con người và cái Thiêng hoàn toàn không phải do con người thông 
qua nghiên cứu mà có, mà chỉ có thể do cái Thiêng tự hiển lộ. Vậy là, bản 
thân con người cần phải theo đó mà suy nghĩ cái khả năng hiển chứng về 
cái Thiêng. Đồng thời, sự hiển chứng này có thể dẫn đời sống thế tục của 
con người hướng đến chính cái Thiêng. Bởi do cái Thiêng bằng phương 
thức tự do chi phối tính siêu nghiệm của con người, nên nó cũng cấu 
thành bản chất của con người. Thứ hai, con người cũng chính vì điểm đó 
đã bắt đầu sự sống trần tục mang tính lịch sử của mình. Tuy nhiên, con 
người lại có tính tôn giáo. Nói cách khác, chính bởi có tính tôn giáo, con 
người mới không chỉ là sinh vật tồn tại có nghĩa vụ chuyển hướng lịch sử 
Trương Hiến. Tôn giáo: Thiêng hay tục... 7 
 7 
của bản thân. Do đó, chúng ta có thể kết luận, theo bản chất nguyên sơ, 
con người ngay từ ban đầu đã mong đợi xuất hiện sự kiện lịch sử - một 
lần có thể đạt đến sự hiển chứng cái Thiêng. Nhưng nghĩ lại một chút, giả 
sử cái Thiêng tự do không muốn tự hiển lộ, mà muốn giữ yên lặng, thì 
con người lại nỗ lực đạt đến mức tự thân hoàn thiện rốt ráo và cao nhất, 
đó là sự hòa hợp giữa tôn giáo và ý thức của bản thân, để lắng nghe sự 
yên lặng của cái Thiêng. 
3. Cái Thiêng:cổ điển hay hiện đại? 
Tuy vậy, lịch sử tồn tại tôn giáo tính của con người có một vấn đề: tôn 
giáo một khi đã đặt chân vào lịch sử, tính thiêng của nó theo đó bị thôn 
tính, thậm chí bị giải cấu trúc16 bởi các loại đời sống thế tục. Nói cách 
khác, trong xã hội hiện đại mà chúng ta đang sống, những nhân tố tôn 
giáo nào đó giữa con người và con người cũng chẳng còn dễ nhận biết 
như thời xã hội cổ xưa nữa. Một mặt, điều có thể nhận thấy ở mọi nơi 
trong đời sống xã hội là: giải trí đại chúng đã thay thế thẩm mỹ cá nhân, 
pháp luật muốn thay thế sự hoàn thiện đức tính, giáo dục đạo đức thay 
thế sự cầu nguyện tôn giáo, phát minh khoa học thay thế sự trầm tư tinh 
thần. Mặt khác, những người từng một thời cho rằng, tôn giáo sẽ rất 
nhanh bị diệt vong trong chính thể mới đành phải kinh ngạc nhận thấy 
rằng, số người sùng kính và hiếu kỳ tôn giáo ngày càng gia tăng. Mỗi dịp 
có lễ hội truyền thống hoặc lễ nghi tôn giáo, rất nhiều người đổ về cầu 
khấn hoặc quỳ lạy tụng kinh ở cơ sở thờ tự các tôn giáo. Hiện tượng còn 
thú vị ở chỗ, khi hình thức lễ bái theo nhạc Jazz và nhạc Rock thâm nhập 
nhà thờ ở Mỹ, thì các lễ vật thờ cúng theo kiểu công nghệ điện tử cũng có 
mặt trong các chùa, quán ở Trung Quốc. Xa nữa, một chút châm biếm 
chính trị khi Mao Trạch Đông nói rằng, nhân dân chính là Thượng Đế thì 
cũng chính ông ta rất thích nhân dân cúi chào mình và hô ba lần “vạn 
tuế”, khiến mình trở thành thần tượng tôn giáo - bậc cứu tinh vĩ đại của 
nhân dân17. 
Cho nên, khi suy nghĩ về ý nghĩa hiện đại và ý nghĩa cổ điển của cái 
Thiêng, chúng tôi buộc nêu ra vấn đề sau: tính thiêng tôn giáo nơi con 
người sẽ thể hiện như thế nào trong xã hội hiện đại? Hoặc giả, chúng ta lý 
giải ra sao về tính thiêng tôn giáo trong xã hội hiện đại? Trong xã hội 
hiện đại, tính thiêng tôn giáo sẽ tự hiển lộ bằng phương thức nào? 
Ở đây, chúng tôi thấy cần thảo luận vấn đề này trong sự thế tục hóa 
(Secularization) của tôn giáo. Tổng hợp từ nghiên cứu liên ngành xã hội 
8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014 
 8 
học tôn giáo, văn hóa học tôn giáo, tâm lý học tôn giáo và nhân học tôn 
giáo, chúng tôi muốn đưa ra bốn phương diện dưới đây để nói rằng, trong 
tiến trình thế tục hóa, ý nghĩa cổ điển của tính thiêng tôn giáo được lưu 
truyền đã biểu đạt bằng hình thức hiện đại như thế nào. 
Thứ nhất, suy nghĩ về niềm tin tôn giáo qua nguyên tắc tư duy thực 
chứng khoa học kỹ thuật hiện đại. Tất nhiên, nguyên tắc tư duy thực 
chứng của khoa học - công nghệ hiện đại đã có mặt khắp các lĩnh vực. 
Những người giữ nguyên tắc tư duy này không bị buộc từ chối tin vào bất 
cứ cách nói nào không thể trải nghiệm có tính thực chứng liên quan đến 
con người, thế giới hoặc vũ trụ, mà chỉ có ý định giải thích một cách 
khoa học, triết học, logic về cái Thiêng. Loại tư duy này bị đẩy đến cực 
đoan là để mong muốn con người thoát ra khỏi ảo tưởng tôn giáo và triết 
học siêu hình, quay về với cuộc sống thường nhật có thực chứng. Nhưng 
đời sống tôn giáo cổ điển chẳng phải cũng dựa vào những phương thức 
tương ứng với mức độ phát triển xã hội, thí dụ như phương thức mà ngày 
nay chúng ta gọi là khoa học - công nghệ, để duy trì cái Thiêng của mình 
đấy sao? Đồng thời, do sự trỗi dậy của triết học phân tích và triết học 
ngôn ngữ, hàm nghĩa thuộc về cái Thiêng cũng đã được giới định càng rõ 
ràng, càng tiếp cận với đời sống tinh thần của con người hiện đại, đó 
chẳng phải là một điểm chứng tỏ ý thức đang hướng tới tự thân hoàn 
thiện đó sao18. 
Thứ hai, bàn luận về quá trình ngày càng phân hóa giữa lĩnh vực đời 
sống tôn giáo và lĩnh vực đời sống thế tục phi tôn giáo. Rõ ràng, do sự 
chuyên nghiệp hóa, thành thị hóa, công nghiệp hóa nảy sinh từ sự phát 
triển của xã hội, đồng thời đã diễn ra sự cá nhân hóa của niềm tin tôn 
giáo, tôn giáo trở nên gần như không còn là một niềm tin có thể chia sẻ 
với người khác, thần bí và thuộc về cá nhân nữa. Cái gọi là yếu tố công 
cộng (public) của tôn giáo ngày càng ít đi, nó gần như rút lui khỏi các 
lĩnh vực chính trị, kinh tế, pháp luật, đạo đức, báo chí truyền thông. Ở 
đây, điều cần nói chính là hai phương diện: một mặt, cho dù ở xã hội săn 
bắt thời viễn cổ hay xã hội nông nghiệp thì cũng có thể tìm thấy bóng 
dáng của sự phân hóa xã hội ngày nay; mặt khác, ở tất cả hoạt động của 
các lĩnh vực trong xã hội như chính trị, kinh tế, pháp luật, chỉ cần quan 
sát kỹ sẽ thấy được giá trị tôn giáo vẫn còn tồn tại đằng sau19. Có lẽ, 
trong quá trình phân hóa xã hội này, sự phân cách và khác biệt giữa cái 
Thiêng và cái Tục ngày càng phức tạp. Cuối cùng dẫn đến hai phần 
thiêng và tục, cuộc sống thật sự trở thành thế giới đa nguyên. 
Trương Hiến. Tôn giáo: Thiêng hay tục... 9 
 9 
Thứ ba, phân tích về thuyết nhất nguyên tôn giáo và thuyết đa nguyên 
tôn giáo. Giống như sự phân biệt cái Thiêng và cái Phàm vốn không tồn 
tại ở xã hội cổ điển, thuyết nhất nguyên tôn giáo và thuyết đa nguyên tôn 
giáo cũng hoàn toàn là một vấn đề mang tính hiện đại. Nói cách khác, cái 
Thiêng rốt cuộc là một hay nhiều, là điều không tránh khỏi trong một thời 
đại toàn cầu hóa kinh tế. Hiển nhiên, nhiều tôn giáo có một vị thần sắm 
vai là Đấng Sáng Thế hoặc Đấng Cứu Chuộc. Nhưng quan niệm này lại 
không có ở Phật giáo và Kỳ Na giáo. Vì vậy, đây không phải là một 
phương diện chủ yếu không dễ thừa nhận là cái Thiêng chung của tôn 
giáo. Đồng thời, cũng không có chung một cách nhìn giống nhau về sự 
sống của con người. Một số tôn giáo, bất kể là cổ kính hay hiện đại, có 
thuyết tái sinh và chuyển kiếp. Một số tôn giáo khác lại không thế. Nội 
dung hoặc phong cách thần thoại hay truyền thuyết của các tôn giáo cũng 
có sự khác nhau. Người nghiên cứu tôn giáo trong khi chỉ ra rằng, tôn 
giáo khác nhau thì có cách trải nghiệm khác nhau, nhu cầu đạo đức20 và 
nghi lễ21 khác nhau, cũng phát hiện ra hình thức tổ chức của mỗi tôn giáo 
khác nhau về vấn đề cứu rỗi22. Cuối cùng, thần linh thể hiện được hay 
không ở vật tượng trưng của mình cũng là một vấn đề hóc búa. Cho dù 
như vậy, việc đưa ra hoặc tìm kiếm một tính thống nhất cho tôn giáo 
cũng là cần thiết. Nguyên nhân ở chỗ xung đột giữa các niềm tin tôn giáo 
thường do con người tạo ra. Mặt khác, tính thống nhất có thể là một giá 
trị vốn có khi con người hướng đến sự đại đồng23. 
Thứ tư, nhận thức về việc duy trì chức năng xã hội truyền thống của 
tôn giáo. Nếu như nói, tôn giáo vốn là hiện tượng mang tính sinh tồn của 
con người, vậy bất kể chúng ta lý giải theo ý nghĩa cổ điển hay ý nghĩa 
hiện đại về tính thiêng tôn giáo, thì giữa chúng cũng tồn tại tính liên tục 
và tính thống nhất nội tại. Ở điểm này, chúng tôi có thể nói rõ thêm thông 
qua nhận thức về mấy chức năng xã hội truyền thống của tôn giáo: 
- Trong khuôn khổ giảng giải thì nhấn mạnh sự tương đồng về quy 
phạm và giá trị với chỉnh thể xã hội, tôn giáo có chức năng trong xã hội: 
biểu hiện ở các phương diện thông thường như các giá trị về sự tôn 
nghiêm, tự do, bình đẳng, tôn kính người khác, tôn trọng quyền lực, lòng 
mộ đạo,... của con người. Ngoài ra, cũng biểu hiện ở các phương diện đặc 
thù như không giết người, không ăn trộm, không nên có con riêng,... Sự 
kế thừa những ý nghĩa cổ điển của tôn giáo thể hiện ở cơ cấu xã hội hóa, 
dùng hình thức giáo hóa để chuyển tải các giá trị cốt lõi của xã hội tới 
quần chúng. 
10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014 
 10 
- Cường điệu hóa về quan niệm: Tôn giáo không chỉ chuyển tải các 
giá trị cốt lõi của xã hội, mà còn từng bước đề cao các quan niệm của con 
người. Thí dụ, luật pháp của xã hội có các điều trừng phạt tội giết người, 
trộm cắp, nhưng lại không thể điều chỉnh được vấn đề thế giới quan, 
nhân sinh quan của con người. Lúc này, tôn giáo sẽ dùng các quan niệm 
như yêu thương, kỳ vọng,... để xây dựng người công dân tốt, không 
những không phạm tội lỗi mà còn cống hiến vô tư cho xã hội. 
- Đặt con người của xã hội vào các mối quan hệ có ý nghĩa: Tôn giáo 
đem các vấn đề người cô đơn không nơi nương tựa, nhóm yếu thế trong 
xã hội, dân di cư, vào trong xã hội. 
- Khẳng định các nhân tố và biểu trưng của các giá trị xã hội: Các 
ngày lễ tôn giáo, biểu tượng và từ ngữ tôn giáo đều là các nhân tố và biểu 
trưng đáng được khẳng định, thí dụ như Lễ Giáng sinh, Tết Cửu trùng, Lễ 
Phật đản, v.v 
- Giúp con người xử lý các nguy cơ: Chức năng này trên thực tế hết 
sức gần gũi với mục đích cơ bản và bản chất của bản thân tôn giáo, do đó, 
tính thiêng của tôn giáo được khẳng định trong xã hội hiện đại. 
- Là nguồn phúc lợi xã hội: Chức năng cuối cùng mà tôn giáo thể hiện 
tính thiêng của mình trong đời sống xã hội chính là phục vụ xã hội với tư 
cách là một đơn vị phúc lợi xã hội. 
Thứ năm, về vấn đề tồn tại rốt ráo của con người. Nếu nói sự sinh tồn 
của con người có sự tồn tại mang tính tôn giáo, vậy thì chỉ khi chúng ta 
giải thích tôn giáo một cách tiến bộ là nó không trở thành một tôn giáo 
ngày càng hoàn thiện, mà là không ngừng hoàn thiện, cuối cùng trở thành 
tôn giáo, như vậy sự tồn tại rốt ráo của con người mới được lý giải. Cũng 
như nói rằng, tôn giáo của con người ngày càng thuần túy, ngày càng 
thiêng, cuối cùng sẽ trở thành tôn giáo của bản thân. Giống như loài 
người cổ đại đã từng xuất hiện các bậc như Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, 
Jesus, Mohammet, loài người ngày nay cũng có các thánh nhân tôn 
giáo như M. Gandhi, J. Paul II, v.v Những thánh nhân tôn giáo này đã 
sớm thể hiện ý nghĩa thiêng về sự tồn tại rốt ráo của loài người. 
4. Phần kết: “chặng đường”(on the way) gặp gỡ “Đấng Tuyệt Đối 
ngoài Ta (the other)” 
Tôn giáo là một dạng hoạt động đặc biệt. Trong xã hội, nó có chức 
năng không thể thiếu của mình. Biểu tượng thiêng của tôn giáo/cái 
Thiêng và các nghi lễ liên quan có bốn chức năng quan trọng. Một là, 
Trương Hiến. Tôn giáo: Thiêng hay tục... 11 
 11 
thúc đẩy quyết tâm hoạt động đạo đức. Hai là, thông qua biểu tượng 
chung (công cộng) để đoàn kết cộng đồng. Ba là, biểu đạt các thể nghiệm 
mà chỉ có thơ ca, âm nhạc và hình tượng nghệ thuật mới có khả năng làm 
được. Bốn là, làm cho con người hướng đến trật tự huy hoàng nhất trên 
đời và khai mở sự huyền bí bao gồm cả thế giới tự nhiên. Nhìn từ “hạt 
nhân sự sống” của tôn giáo, nó là một loại tâm linh (Spirituality) quan 
trọng và có giá trị đối với đời sống loài người. Đồng thời, nó thuần túy là 
mấu chốt của hiện thế. 
Tổ chức tôn giáo nguyên sơ chính là tông tộc. Nó kiến lập trên mọi 
nghĩa vụ về mặt quan hệ huyết thống, đồng thời là bộ phận cấu thành của 
tôn giáo. “Trong thế giới cổ đại và gần như cả thế giới luân lý, tôn kính 
thần linh là bộ phận quan trọng trong đoàn thể chính trị và đời sống gia 
đình. Trong đời sống như vậy, việc tôn kính thần linh cũng cần thiết 
chẳng kém ngôn ngữ. Ai muốn né tránh thần linh thì chính là từ chối 
nghĩa vụ”24. Tuy thần linh của tôn giáo đã ẩn lùi sau xã hội hiện đại, thậm 
chí đã bị bỏ quên, nhưng tôn giáo tông tộc vẫn dựa theo huyết thống để 
lưu truyền lại sự thành kính sùng mộ. Điều này trước hết thấy ở nông 
thôn, sau đó tồn tại một cách gián tiếp ở đời sống nghề nghiệp, cộng 
đồng, tổ chức chính trị ở đô thị lớn. Tôn giáo trong xã hội hiện đại có thể 
có hình thức méo mó khác với ở xã hội cổ đại, nhưng “hạt nhân sự sống” 
của nó là sợi dây duy nhất liên kết cổ kim. Chính vì điều đó, chúng ta tán 
thưởng những giá trị tôn giáo của nhân loại, thì cũng có thể không thấy 
trở ngại gì khi đọc thần thoại Hy Lạp, La Mã, ngâm tụng Kinh Thi, và 
vươn tới các phương diện nghệ thuật của đời sống tinh thần. 
Nhìn từ bề ngoài, tính thiêng tôn giáo trong xã hội hiện đại gần như là 
một hiện tượng cộng sinh với nhu cầu xã hội. Trên thực tế, nó cùng với 
nhu cầu xã hội tạo thành một chỉnh thể nội tại không thể tách rời. Nếu 
liên kết xã hội là quy phạm của tôn giáo, thì bức tranh toàn cảnh phức tạp 
cấu thành bởi toàn bộ đời sống của nhân loại không chỉ là một bức tranh 
về nhu cầu và thể nghiệm của thực tế xã hội, mà còn có tác dụng dẫn dắt 
những quan niệm phổ biến khác của thực tế xã hội, khiến cho chúng gắn 
kết nội tại với những thứ như lý trí. Do đó, đối tượng tôn giáo có thể làm 
cho thực tế xã hội trở nên thiêng liêng hơn, lớn mạnh hơn. 
Martin Heidegger từng nói: “Chỉ còn có một Thượng Đế có thể cứu độ 
chúng ta” (Nur noch ein Gott kann uns retten). Theo thiển ý của chúng tôi, 
đây là sự thần thánh hóa trong sinh mệnh của con người bất kể ở thời 
12 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2014 
 12 
viễn cổ hay thời ngày nay đều luôn biểu hiện thành cái Thiêng vô hạn 
(chúng ta có thể gọi nó là “Đấng Tuyệt Đối ngoài Ta”). Cái gọi là lịch sử 
loài người chính là chặng đường (on the way) chúng ta hướng đến “Đấng 
Tuyệt Đối ngoài Ta (the other)”./. 
Trần Anh Đào dịch 
CHÚ THÍCH: 
1 Xem Hans Kung và Julia Ching (1988), Christentunrn und Chinesische Religion: 72. 
2 Chú thích của Ban biên tập. 
3 M. Eliade (Yên Khả Giai dịch, 2004), Chuyên luận lịch sử tôn giáo, Nxb. Khoa 
học xã hội Thượng Hải: 1178. 
4 Người cổ đại giữa thời Đá mới phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Phi, Tây Á và 
Trung Á, phát hiện sớm nhất là trong hang động ở lưu vực sông Neanderthal (Đức). 
5 M. Eliade (Yên Khả Giai dịch, 2004), Chuyên luận lịch sử tôn giáo, sđd: 2. 
6 Ví dụ, người Hách Triết ở đông bắc Trung Quốc quan niệm có ba loại quỷ hồn; 
người Độc Long ở Vân Nam quan niệm có hai loại quỷ hồn. Tham khảo Mâu Chung 
Giám (2000), Trung Quốc tôn giáo thông sử, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội: 22. 
7 Melanesian (tiếng Hy Lạp) là một trong ba quần đảo ở Thái Bình Dương, nghĩa 
là “Quần đảo người da đen”. 
8 Tham khảo Ninian Smart (Cao Sư Ninh dịch, 2004), Tôn giáo thế giới, Nxb. Đại 
học Bắc Kinh: 35. 
9 R. Otto (Thành Cùng và Chu Bang Hiến dịch, 1995), Cái Thiêng, Nxb. Nhân dân 
Tứ Xuyên: 10 - 13. 
10 R. Otto (Thành Cùng và Chu Bang Hiến dịch, 1995), Cái Thiêng, sđd: 14 - 28. 
11 R. Otto (Thành Cùng và Chu Bang Hiến dịch, 1995), Cái Thiêng, sđd: 41 - 48. 
12 Con người tôn giáo hoàn toàn không phải chỉ tín đồ tôn giáo và người có tín 
ngưỡng tôn giáo. Từ góc độ thuyết sinh tồn, cụ thể là một trạng thái sinh tồn có 
tính tôn giáo, nó có thể dùng để miêu tả đời sống của người nguyên thủy tôn giáo, 
cũng có thể giải thích được sự thăng hoa tình cảm Chân, Thiện, Mỹ mà con 
người hiện đại (bất kể có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng) theo đuổi. Chúng 
tôi tin rằng, giữa con người nguyên thủy và con người hiện đại nhất định có tính 
thống nhất chặt chẽ nào đó. 
13 M. Eliade(Vương Kiến Quang dịch, 2002). Thiêng và Phàm, Nxb. Hoa Hạ: 3. 
14 M. Eliade(Vương Kiến Quang dịch, 2002). Thiêng và Phàm, sđd: 5. 
15 Tham khảo G. Simmel (Tào Vệ Đông dịch, 1997), Con người hiện đại và tôn 
giáo, Viện Nghiên cứu Kitô giáo Hán ngữ Hồng Kông: 85. 
16 Con người với tư cách là vật được sáng tạo một cách hữu hạn mới có nhu cầu 
lắng nghe sự yên lặng của cái Thiêng hiển chứng. Nhưng, con người cũng có thể 
ngộ nhận rằng, thanh âm đến từ nội tâm của của mình chính là sự hiển chứng đến 
từ cái Thiêng. 
17 Đoạn kết trong bài hát Đông phương hồng rất phổ biến trong thời kỳ Cách mạng 
Văn hóa có câu ca ngợi Mao Trạch Đông: “Người là bậc cứu tinh vĩ đại của 
nhân dân”. 
Trương Hiến. Tôn giáo: Thiêng hay tục... 13 
 13 
18 Về tác dụng của Kitô giáo trong xung đột văn hóa hiện đại, tham khảo G. 
Simmel (Tào Vệ Đông dịch, 1997), Con người hiện đại và tôn giáo, sđd: 47 - 58. 
19 G. Simmel (Tào Vệ Đông dịch, 1997), Con người hiện đại và tôn giáo, sđd. 
20 Thí dụ, ở Do Thái giáo, Islam giáo và Kitô giáo, giới răn về đức hạnh bao gồm 
cả yêu cầu hôn nhân. Kết cấu xã hội của Nho giáo và Ấn Độ giáo cũng khác 
nhau. Thái độ của Kỳ Na giáo và Shikh giáo đối với động vật cũng khác nhau. 
21 Hiến tế luôn cần thiết, có khi thì cần đi hành hương, có khi cần một đời sống 
trầm mặc. Một sốnghi lễ ở tôn giáo này được coi là thiêng liêng, ở tôn giáo khác 
lại là bình thường. 
22 Kitô giáo nhấn mạnh “không cứu ơn ngoài Giáo hội” (Extra ecclessiam nulla 
salus); Bà La Môn giáo quan niệm về đẳng cấp do thần định. 
23 Xem Ninian Smart (Cao Sư Ninh dịch, 2004), Tôn giáo thế giới, Nxb. Đại học 
Bắc Kinh: từ 519 trở đi. 
24 G. Simmel (Tào Vệ Đông dịch, 1997), Con người hiện đại và tôn giáo, sđd: 102. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 
1. M. Eliade(Vương Kiến Quang dịch, 2002). Thiêng và Phàm, Nxb. Hoa Hạ. 
2. M. Eliade (Yên Khả Giai dịch, 2004), Chuyên luận lịch sử tôn giáo, Nxb. Khoa 
học xã hội Thượng Hải. 
3. Mâu Chung Giám (2000), Trung Quốc tôn giáo thông sử, Nxb. Văn hiến Khoa 
học xã hội. 
4. Hans Kung và Julia Ching (1988), Christentunrn und Chinesische Religion, Piper. 
5. R. Otto (Thành Cùng và Chu Bang Hiến dịch, 1995), Cái Thiêng, Nxb. Nhân dân 
Tứ Xuyên. 
6. G. Simmel (Tào Vệ Đông dịch, 1997), Con người hiện đại và tôn giáo, Viện 
Nghiên cứu Kitô giáo Hán ngữ Hồng Kông. 
7. Ninian Smart (Cao Sư Ninh dịch, 2004), Tôn giáo thế giới, Nxb. Đại học Bắc Kinh. 
Abstract 
RELIGION: THE SACRED OR THE PROFANE - AN 
ANALYSIS OF RELIGION FROM PHENOMENOLOGY 
The author analysed two main religious categories on the sacred and 
the profane from phenomenology. Discussing modern and classical 
significances of the sacredness, the author attached special importance to 
secularization of religion and social functions of religion. 
Key words: Sacredness, religion, Phenomenology, secularization of 
religion, the social role of religion. 

File đính kèm:

  • pdfton_giao_thieng_hay_tuc_phan_tich_ton_giao_tu_goc_do_hien_tu.pdf