Tóm tắt Luận văn Thực trạng hệ thống đảm bảo chất lượng tại một số trường y và xây dựng công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
1.2. Tổng quan đảm bảo chất lượng giáo dục trên Thế giới và ở
Việt Nam
1.2.1 Đảm bảo chất lượng giáo dục một số nước trên Thế giới
Tùy thuộc vào văn hóa và tình hình kinh tế xã hội của mỗi nước
mà Đảm bảo chất lượng (ĐBCL) được thực hiện theo nhiều cách
khác nhau và theo các cấp độ khác nhau.
Việc ĐBCL được nhận thức và thực hiện rất khác nhau giữa các
quốc gia. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, ĐBCL là một qui trình đánh giá
một cơ sở đào tạo hay một chương trình nhằm xác định xem các
tiêu chuẩn về giáo dục Đại học, học thuật hay nguồn lực có đảm
bảo không. ĐBCL ở Úc lại bao gồm các chính sách, thái độ, hành
động và qui trình cần thiết. Ở Anh, ĐBCL là một công cụ mà qua
đó, cơ sở giáo dục đại học đảm bảo rằng các điều kiện dành cho
người học đã đạt tiêu chuẩn do nhà trường hay các cơ quan có thẩm
quyền đề ra. Các nước như Đan Mạch, Hà Lan, Bồ Đào Nha tập
trung vấn đề ĐBCL vào các chương trình đào tạo, vì thế họ rất chú
trọng vào đánh giá chương trình. Trong khi đó, Pháp thực hiện cả
đánh giá chương trình và cơ sở đào tạo.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt Luận văn Thực trạng hệ thống đảm bảo chất lượng tại một số trường y và xây dựng công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG ======== NGUYỄN THỊ NGA THỰC TRẠNG HỆ THỐNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG Y VÀ XÂY DỰNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ ĐÁNH GIÁ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số: 2 .72.01.05 Chuyên ngành: Y tế công cộng Mã số: 62.72.76.03 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG HÀ NỘI - 2017 Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. KIM BẢO GIANG 2. PGS.TS. NGUYỄN THANH HÀ Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Văn Hiến Phản biện 2: PGS.TS Lã Ngọc Quang Phản biện 3: TS. Phạm Ngân Giang Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Y tế Công Cộng Vào hồi 09 giờ 00 ngày 08 tháng 11 năm 2017 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc Gia Thư viện trường Đại học Y tế Công Cộng DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Hoạt động ĐBCL trong Đào tạo Đại học tại một số trường có Đào tạo Cử nhân Y tế công cộng, Tạp chí Y học thực hành số 3 (998). 2. Kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ đơn vị ĐBCL tại một số trường có đào tạo cử nhân YTCC, Tạp chí Y học thực hành số 5 (1009). 3. Tính giá trị và độ tin cậy của một số công cụ thu nhận phản hồi từ giảng viên và sinh viên, Tạp chí Y học thực hành số 2 (1034). 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đánh giá chương trình đào tạo là một hoạt động quan trọng và thường xuyên trong các trường đại học, là “một quá trình thu thập, phân tích và tổng hợp các dữ liệu nhằm liên tục cải tiến chương trình đào tạo”. Ở nhiều nước trên thế giới, đánh giá chương trình là một phần không thể thiếu trong quá trình kiểm định nhà trường và công nhận chương trình đào tạo. Ở Châu Âu, người ta thường chú trọng đến cơ chế kiểm điṇh chất lươṇg cấp chương trình đào tạo, còn công việc đánh giá các cơ sở đào tạo dành cho cơ quan nhà nước, tiêu biểu cho mô hình này là ở Hà Lan. Mạng lưới các trường đại học trong khu vực Đông Nam Á (AUN) cũng có bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình và bắt đầu thực hiện đánh giá chất lượng các chương trình giáo dục từ năm 2007. Hiện nay, ở Việt Nam đào tạo cử nhân y tế công cộng được thực hiện tại một số trường đại học y như: Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược Cần Thơ, Đại học Y Dược Huế, Đại học Y Dược Thái Bình, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Khoa Y - Đại học Tây Nguyên, Đại học Y khoa Vinh, Đại học Thăng Long. Cho đến hết năm 2015, chưa có trường nào trong cả nước tiến hành đánh giá chương trình cử nhân y tế công cộng, hướng dẫn đánh giá chương trình đào tạo này cũng chưa được xây dựng và phổ biến. Hoạt động đánh giá và kiểm định còn mới với các trường nên việc xây dựng hướng dẫn đánh giá và công cụ hỗ trợ quá trình đánh giá là rất cần thiết. Vì vậy, đề tài này nghiên cứu với mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng hệ thống đảm bảo chất lượng ở một số trường y có đào tạo cử nhân y tế công cộng. 2. Xây dựng, thử nghiệm và đánh giá một số công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng. CÁC ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN - Hệ thống hóa những vấn đề liên quan đến đánh giá chất lượng chương trình đào tạo nói chung và chương trình đào tạo y khoa nói riêng. - Luận án đã góp phần nêu một bức tranh tổng thể về thực trạng hệ thống ĐBCL của một số trường Đại học Y có đào tạo cử nhân Y tế công cộng tại Việt Nam. - Cung cấp một bộ công cụ hướng dẫn tự đánh giá và phiếu thu thập thông tin hỗ trợ đánh giá chương đào tạo cử nhân Y tế công cộng cùng với bằng chứng khoa học về tính phù hợp, tính khả thi của của các minh chứng, chỉ số; độ tin cậy, tính giá trị của các phiếu phản hồi. Các trường có thể xem xét áp dụng hoặc điều chỉnh cho phù hợp để áp dụng. 2 BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Luận án gồm 126 trang, 36 bảng, 2 biểu đồ, 5 hình vẽ và 125 tài liệu tham khảo, trong đó có 73 tài liệu tiếng Anh. Phần đặt vấn đề 2 trang, mục tiêu 1 trang, tổng quan tài liệu 36 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 15 trang, kết quả 44 trang, bàn luận 24 trang, kết luận 2 trang, khuyến nghị 1 trang và đóng góp mới 1 trang. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm 1.2. Tổng quan đảm bảo chất lượng giáo dục trên Thế giới và ở Việt Nam 1.2.1 Đảm bảo chất lượng giáo dục một số nước trên Thế giới Tùy thuộc vào văn hóa và tình hình kinh tế xã hội của mỗi nước mà Đảm bảo chất lượng (ĐBCL) được thực hiện theo nhiều cách khác nhau và theo các cấp độ khác nhau. Việc ĐBCL được nhận thức và thực hiện rất khác nhau giữa các quốc gia. Chẳng hạn, ở Hoa Kỳ, ĐBCL là một qui trình đánh giá một cơ sở đào tạo hay một chương trình nhằm xác định xem các tiêu chuẩn về giáo dục Đại học, học thuật hay nguồn lực có đảm bảo không. ĐBCL ở Úc lại bao gồm các chính sách, thái độ, hành động và qui trình cần thiết. Ở Anh, ĐBCL là một công cụ mà qua đó, cơ sở giáo dục đại học đảm bảo rằng các điều kiện dành cho người học đã đạt tiêu chuẩn do nhà trường hay các cơ quan có thẩm quyền đề ra. Các nước như Đan Mạch, Hà Lan, Bồ Đào Nha tập trung vấn đề ĐBCL vào các chương trình đào tạo, vì thế họ rất chú trọng vào đánh giá chương trình. Trong khi đó, Pháp thực hiện cả đánh giá chương trình và cơ sở đào tạo. Việc ĐBCL ở các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng không giống nhau. Ở Thái Lan, ĐBCL được thể hiện qua hệ thống kiểm tra chất lượng nhà trường, đánh giá chất lượng bên ngoài và kiểm định công nhận. Ở Indonesia, ĐBCL được xác định thông qua kiểm tra nội bộ các chương trình học, các qui định của chính phù, cơ chế thị trường và kiểm định công nhận. Hầu hết các cơ quan ĐBCL quốc gia ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đều do Nhà nước thành lập, được nhà nước cấp kinh phí và chủ yếu là để thực hiện nhiệm vụ kiểm định. Nhìn chung, thời gian hình thành phát triển tổ chức ĐBCL khá khác nhau ở mỗi quốc gia, có nơi thành lập từ năm những năm 1940s, 1950s như Nhật Bản, Philipines; nhiều nước thành lập vào những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 như Hàn Quốc, Australia, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, 3 1.2.2 Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam Ở Việt Nam, công tác Đảm bảo chất lượng giáo dục Đại học có thể chia ra 2 giai đoạn khá rõ rệt: Giai đoạn trước 2002: Chất lượng đồng nghĩa với tuyển chọn khắt khe đầu vào và đảm bảo nguồn lực Thời kỳ này, ĐBCL được thực hiện bằng phương pháp “kiểm soát chất lượng”. Từ 2002 đến nay: Chất lượng nghĩa là đáp ứng tiêu chuẩn 1.2.3 Các mạng lưới đảm bảo chất lượng trên thế giới và khu vực Các tổ chức ĐBCL trên toàn thế giới hợp tác bằng cách phát triển một mạng lưới ở cả cấp độ khu vực lẫn quốc tế. Trong những năm qua, nhiều cơ quan ĐBCL đã hình thành mạng lưới theo các khu vực địa lý hoặc theo các đặc tính riêng như ĐBCL cho giáo dục đại học, về năng lực ĐBCL: Mạng lưới quốc tế các tổ chức Đảm bảo chất lượng trong giáo dục đại học (International Network for Quality Assurance Agencies in Higher Education - INQAAHE); Hiệp hội ĐBCL trong giáo dục đại học châu Âu (European Association for Quality Assurance in Higher Education - ENQA); Mạng lưới ĐBCL khu vực Đông Nam Á (ASEAN Quality Assurance Network - AQAN. 1.2.4 Đảm bảo chất lượng giáo dục Y khoa trên Thế giới Có thể nói, ĐBCL trong lĩnh vực Y khoa được bắt đầu từ rất sớm. Năm 1910, tác giả Flexner - một nhà giáo dục đã quan tâm đến ĐBCL Y khoa khi nghiên cứu cơ sở vật chất, nguồn lực và phương pháp giảng dạy của các trường y tại Hoa Kỳ. Năm 1942, Uỷ ban liên lạc về giáo dục y học (LCME) được thành lập. LCME có nhiệm vụ bảo bảo và kiểm định chất lượng các chương trình đào tạo Y khoa ở Hoa Kỳ và Canada. Năm 2000, Liên đoàn Giáo dục Y khoa thế giới (WFME) đưa ra bản thảo Bộ tiêu chuẩn kiểm định và chính thức xuất bản phiên bản đầu tiên vào năm 2003. 1.3. Tổng quan về đánh giá chương trình đào tạo trên Thế giới và ở Việt Nam 1.3.1 Đánh giá chương trình đào tạo trên thế giới Có thể nói, Hoa Kỳ là cái nôi của đánh giá chương trình với lịch sử gắn liền đa ̃ hàng trăm năm trước. Theo đó, Hiệp hội phát triển giảng dạy doanh thương bậc đại học (AACSB) được thành lập vào năm 1916. AACSB có sứ mệnh nâng cao chất lượng giáo dục đại học cho các ngành quản trị kinh doanh. Đến năm 1951, Hoa Kỳ đã có 22 tổ chức thực hiện đánh giá, kiểm định chất lượng các chương trình chuyên ngành Y, nha khoa, luật,.... Trong đó, các chương trình Y khoa được đánh giá, kiểm định đầu tiên. Hội đồng Kiểm định ngành Công nghệ và Kỹ thuật (ABET) là tổ chức đánh giá và kiểm 4 định chương trình có uy tín trên thế giới. Liên đoàn giáo dục y học thế giới (WFME) được thành lập năm 1972. Năm 2003, WFME xuất bản Bộ tiêu chuẩn đánh giá, kiểm định chương trình cho chuyên ngành Y và được cập nhật gần đây nhất vào năm 2012. Ở Khu vực Đông Nam Á, năm 2007, AUN bắt đầu thực hiện đánh giá chất lượng các chương trình đào tạo. Có rất nhiều bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình đang được áp dụng trên thế giới, sau đây mô tả một số bộ tiêu chuẩn đang được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Bô ̣tiêu chuẩn WFME cho các chương trình đào tạo Y khoa Bản thảo Bộ tiêu chuẩn được đưa ra năm 2000 và chính thức xuất bản phiên bản đầu tiên vào năm 2003, năm 2012 WFME đưa ra phiên bản thứ hai. Tiêu chuẩn của AACSB có hai bộ: Bộ tiêu chuẩn đánh giá ngành doanh thương bao gồm 15 tiêu chuẩn. Bộ tiêu chuẩn đánh giá về ngành tài chính bao gồm 9 tiêu chuẩn. Bô ̣tiêu chuẩn của ABET: 9 tiêu chuẩn. Bô ̣tiêu chuẩn của Ủy ban liên lạc về giáo dục y học (LCME): 11 tiêu chuẩn. Bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình của AUN: phiên bản 3 (2015) bao gồm 11 tiêu chuẩn. Nhìn chung, mặc dù có số lượng các tiêu chuẩn khác nhau nhưng phần lớn các tổ chức đều tập trung vào: Chương trình đào tạo; Tổ chức dạy học; Giảng viên và cán bộ hỗ trợ; Người học; Nguồn lực của chương trình; Lượng giá người học. Trong đó, người học và giảng viên được tất cả các bộ tiêu chuẩn đề cập. Ngoài ra, một số tổ chức có những tiêu chuẩn khá đặc thù như: Học thuật tài chính (AACSB cho khối Tài chính); Học tập và nâng cao nghiệp vụ quản lý, Quản lý và chiến lược đổi mới (AACSB cho khối doanh thương); An toàn người bệnh (LCME.) 1.3.2 Đánh giá chương trình đào tạo ở Việt Nam Môṭ số trường đã chủ đôṇg đăng ký đánh giá môṭ số chương trình đào taọ theo các bô ̣tiêu chuẩn đươc̣ công nhâṇ trong khu vưc̣ (AUN) và quốc tế (ABET, AACSB),... Tuy nhiên, số lươṇg các chương triǹh đươc̣ đánh giá cũng còn rất khiêm tốn. Cho đến năm 2015, Việt Nam mới có 21 chương trình đào tạo được công nhận KĐCL của AUN. Tính đến năm 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức ban hành 2 bộ tiêu chuẩn đánh giá và kiểm định chương trình đào tạo trình độ Đại học, Cao đẳng, đó là: Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo điều dưỡng trình độ đại học, cao đẳng và Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng chương trình đào tạo 5 các trình độ của giáo dục đại học. Tương tự như tiêu chuẩn của các tổ chức trên thế giới, hai bộ tiêu chuẩn đánh giá chương trình của Việt Nam cũng tập trung vào các vấn đề cốt lõi để ĐBCL một chương trình đào tạo, đó là: Mục tiêu, chuẩn đầu ra; Chương trình đào tạo; Tổ chức dạy học; Đội ngũ giảng viên, nhân viên; Đánh giá kết quả người học; Cơ sở vật chất; Hỗ trợ người học. 1.3.3 Đánh giá chương trình đào tạo Y khoa trên Thế giới và ở Việt Nam 1.3.3.1. Đánh giá chương trình đào tạo Y khoa trên Thế giới và kinh nghiệm của một số quốc gia Công tác đánh giá và kiểm định chất lượng chương trình đào tạo Y khoa đã được bắt đầu từ cuối thế kỷ 19. Từ năm 1942, các chương trình đào tạo Y khoa ở Mỹ và Canada đã được tổ chức kiểm định độc lập, phi chính phủ LCME thực hiện. Năm 2003, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và WFME cùng thống nhất đưa ra bộ tiêu chuẩn toàn cầu về giáo dục y khoa và kiểm định các chương trình giáo dục y khoa. Hoa Kỳ: là quốc gia có bề dày lịch sử trong công tác đánh giá và kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. LCME ra đời với sự đồng thuận giữa Hiệp hội các trường Đại học Y Hoa Kỳ và Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ. LCME đảm nhận trách nhiệm kiểm định các chương trình Y khoa chất lượng hàng đầu tại Hoa Kỳ và Canada. Canada: Ủy ban kiểm định các trường Y khoa Canada (CACMS) ra đời chính thức vào năm 1979 do Hiệp hội các trường Đại học Y Canada (ACMC) và Hiệp hội Y khoa Canada thành lập. Úc: Hội đồng Y khoa Úc (AMC) ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá các chương trình đào tạo dành cho giáo dục Y khoa của Úc và NewZealand. 1.3.3.2. Đánh giá chương trình đào tạo ngành Y tại Việt Nam Cho đến hết năm 2016, chưa có trường đại học Y nào được đánh giá ngoài và mới chỉ có chương trình đào tạo thạc sỹ y tế công cộng (của trường Đại học Y tế công cộng) được đánh giá và công nhận bởi AUN. Có thể thấy đánh giá chương trình vẫn còn là một vấn đề mới mẻ đối với các trường Đại học Y ở Việt Nam. 1.4. Các công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo Để hoạt động đánh giá chương trình hiệu quả, thường có các công cụ hỗ trợ đi kèm. Các công cụ bao gồm: Hướng dẫn tự đánh giá, các biểu mẫu thu thập thông tin, các phiếu phản hồi, 1.5. Một số nghiên cứu về đánh giá chương trình đào tạo Nhìn chung, các nghiên cứu trong và ngoài nước chủ yếu tập trung vào quản lý chất lượng ở một chương trình đào tạo cụ thể hoặc đề xuất các tiêu chí đánh giá cho chuyên ngành cụ thể mà 6 chưa có công trình nào nghiên cứu về thực trạng ĐBCL của các trường đào tạo cử nhân y tế công cộng cũng như xây dựng các công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cho chuyên ngành này. 1.6. Khung lý thuyết nghiên cứu 1.7. Giới thiệu địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng hệ thống ĐBCL tại 6 trường công lập có đào tạo cử nhân YTCC, trải dài từ miền Bắc vào miền Nam: ĐHYD Thái Bình, Đại học Y tế Công Cộng Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, ĐHYD Cần Thơ, ĐHYD Thành phố Hồ Chí Minh và ĐHYD Huế. Trong đó, Đại học Y Hà Nội là trường thành lập đơn vị YTCC sớm nhất (1965), tiếp đến là ĐHYD Thành phố Hồ Chí Minh (1999), các trường còn lại đều sau năm 2000, muộn nhất là ĐHYD Thái Bình (2006). Qui mô đào tạo cử nhân YTCC hàng năm của các trường từ 30-100 sinh viên, ngoại trừ ĐH YTCC (170). CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này bao gồm hai cấu phần: 1) Nghiên cứu thực trạng về hệ thống ĐBCL tại 6 trường đại học y có đào tạo cử nhân y tế công cộng; 2) Xây dựng và một số công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng. 2.1. Nghiên cứu thực trạng 2.1.1 Đối tượng nghiên cứu Lãnh đạo và chuyên viên đơn vị ĐBCL của 6 trường Đại học Y có đào tạo cử nhân YTCC; Lãnh đạo/đại diện các phòng ban; Đại 7 diện Ban Giám hiệu phụ trách ĐBCL; Nghiên cứu các tài liệu sẵn có. 2.1.2 Thời gian, địa điểm Điều tra thực địa được tiến hành lần lượt tại các trường từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 11 năm 2013. Địa bàn nghiên gồm 6 trường được nêu ở mục 1.7. 2.1.3 Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu địn ... ương Binh và Xã hội, chỉ có trường A2 và A3 là có quy định riêng về thực hiện chính sách cho sinh viên. Theo lãnh đạo phụ trách các đơn vị này ở các trường nhận định thì các hoạt động này đơn giản, dễ thực hiện nên không cần xây dựng quy định riêng. Nghiên cứu cũng cho thấy, đa số các trường chưa có qui định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của sinh viên trong các hoạt động ĐBCL, đặc biệt là hoạt động phản hồi. Trong nghiên cứu này, các trường đều nhận định việc thực hiện văn bản khá thuận lợi vì trường tự ban hành và thực hiện. Đối với những điểm không phù hợp hoặc phát sinh trong quá trình thực hiện thì sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế. Nghiên cứu cho thấy các trường chưa có quy định cụ thể về việc sửa đổi, ban hành hay cập nhật văn bản. 100% các trường đã ứng dụng phần mềm vào quản lý hoạt động. Việc áp dụng phần mềm quản lý đã tạo ra nhiều thuận lợi cho các trường trong việc đồng bộ dữ liệu, quản lý dữ liệu, tiết kiệm được sức lao động, dễ dàng tìm kiếm và trích xuất dữ liệu. Tất cả các trường quản lý hồ sơ sinh viên dưới dạng văn bản cứng có đầy đủ thông tin và thực hiện theo đúng quy định của BGDĐT. Tuy nhiên, trong hồ sơ điện tử các trường mới chỉ tập trung vào quản lý phần lý lịch của sinh viên và kết quả học tập còn những thông tin khác chưa được cập nhật đầy đủ. 4.1.2 Các hoạt động đảm bảo chất lượng trong quản lý đào tạo đại học Theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở đào tạo và chương trình đào tạo của BGDDT, việc xây dựng chương trình đào tạo ngoài việc dựa vào chương trình khung của BGDĐT còn phải tham khảo ý kiến từ các bên liên quan: người sử dụng lao động - nhà tuyển dụng, nhu cầu của xã hội, cựu sinh viên, sinh viên, giảng viên và các nhà chuyên môn. Tiêu chuẩn đánh giá chương trình của AUN và các tổ chức khác trên thế giới như AACSB, ABET, WMFE,cũng đưa ra yêu cầu tham khảo ý kiến của các bên liên quan khi xây dựng chương trình đào tạo là điều bắt buộc. Tuy nhiên, việc này không thể hiện rõ ở các trường trong nghiên cứu. Kết quả phỏng vấn tại các trường cho thấy việc chỉnh sửa, rà soát chương trình chưa được thực hiện thường xuyên, hệ thống và 19 theo quy trình cụ thể. Hoạt động cập nhật, chỉnh sửa chỉ mang tính tự phát, theo một số nghiên cứu và dự án. Hoạt động đánh giá chương trình mới chỉ được thực hiện ở trường A2 với chương trình đào tạo thạc sĩ Y tế công cộng, ngoài ra chưa có trường nào cứu thực hiện, đây cũng là những khoảng trống đáng kể trong ĐBCL chương trình đào tạo ở các trường trong nghiên nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Tất cả các trường đều khuyến khích áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực. Tuy nhiên, hoạt động này chưa được thực hiện một cách hệ thống. Các trường cho biết 3 hình thức lượng giá lý thuyết phổ biến hiện nay đang áp dụng là trắc nghiệm khách quan (TNKQ), tự luận, vấn đáp. Hoạt động Khảo thí vẫn chủ yếu mới chỉ dừng lại ở tổ chức thi mà chưa chú ý nhiều đến các hoạt động khác như tập huấn cho giảng viên, phân tích câu hỏi thi, rà soát và nâng cao chất lượng câu hỏi, nghiên cứu cải thiện chất lượng Khảo thí. 4.1.3 Các hoạt động đảm bảo chất lượng trong Nghiên cứu khoa học Hiện nay các đề tài nghiên cứu khoa học đã được các trường thực hiện theo các văn bản hướng dẫn quản lý đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Y tế. Tuy nhiên, quy trình quản lý các đề tài nghiên cứu ở mỗi trường mỗi khác. Trong 6 trường có duy nhất một trường chưa có quy trình cụ thể quản lý đề tài các cấp. Hầu hết các trường đã xây dựng quy trình quản lý đề tài cấp cơ sở, một số trường có thêm các quy trình quản lý đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước. Về việc quản lý các bài báo đăng tạp chí trong nước, quốc tế của cán bộ thì hiện nay các trường đã có văn bản quản lý về hoạt động này nhưng chủ yếu bằng cách các cán bộ tự nộp các minh chứng các bài báo đã đăng của mình về phòng KHCN để tính giờ NCKH, xét thi đua mà chưa có quy trình chủ động quản lý số bài báo đã thực hiện của các cán bộ và của từng đề tài đã đăng ký với Nhà trường. Về việc ĐBCL trong các đề tài nghiên cứu khoa học thì hiện nay các đề tài NCKH đều phải thông qua Hội đồng Khoa học Giáo dục để đánh giá chính xác nhu cầu, khoảng trống, xác định đề tài NCKH phù hợp, xem xét khía cạnh đạo đức khi nghiên cứu, đặc biệt là các đề tài có liên quan đến con người. Về mặt CGCN, các trường đều nhận định chưa có đủ văn bản phục vụ quản lý hoạt động CGCN. Việc quản lý hoạt động CGCN vẫn chưa có quy trình cụ thể, chưa được quản lý chặt chẽ và chưa có biện pháp theo dõi, giám sát. 4.1.4 Các hoạt động Đảm bảo chất lượng trong Hợp tác quốc tế Đối với hoạt động quản lý đoàn ra, tất cả các trường đều đã có đầy đủ văn bản theo quy định của Nhà nước và Bộ Y tế. Ngoài ra, 20 một số trường còn xây dựng riêng các quy định nội bộ như Trường A1 có Quy chế đào tạo bồi dưỡng trong nước, ngoài nước đối với viên chức, hợp đồng lao động; Quy chế về hợp tác quốc tế. Hiện nay, Phòng HTQT các trường chỉ quản lý lịch đi công tác nước ngoài của Ban Giám hiệu còn số liệu về cán bộ đi nước ngoài thì chủ yếu dựa vào số liệu do phòng TCCB cung cấp và báo cáo của cán bộ sau khi đi nước ngoài về. Trên thực tế, hoạt động này đã có văn bản quy định nhưng nghiên cứu cho thấy các trường chưa có quy trình chuẩn để thực hiện một cách bài bản. Nhìn chung, các hoạt động được các trường nhắc đến nhiều là quản lý đoàn ra, đoàn vào, tổ chức hội thảo/hội nghị quốc tế về giảng dạy, nghiên cứu khoa học... và các hoạt động nghiệp vụ thường xuyên khác của phòng HTQT. Trong khi đó, các hoạt động nhằm đảm bảo chất lượng cho HTQT ít được nhắc đến là: Xây dựng chiến lược phát triển HTQT phù hợp, thực hiện theo dõi, giám sát, đánh giá, báo cáo các hoạt động HTQT. Lãnh đạo các trường cần nhận thức rõ, phát triển HTQT vừa là cơ hội vừa là trách nhiệm phát triển nhà trường trong quá trình hội nhập. Vì thế, cần đầu tư thích đáng cho hoạt động HTQT và có sự gắn kết của tất cả các đơn vị trong trường, xây dựng mạng lưới cộng tác viên HTQT và có cơ chế hoạt động cụ thể. 4.1.5 Các hoạt động đảm bảo chất lượng trong quản lý tài chính Bên cạnh việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, các trường cũng đã xây dựng các quy trình thực hiện các hoạt động tài chính như quy trình dự trù, tạm ứng, quy trình thanh quyết toán, các quy trình này được công khai rõ ràng cho các cán bộ trong trường để các đơn vị, cá nhân thực hiện đúng giúp cho việc quản lý tài chính ở các trường được thuận lợi. Về quản lý chi tiêu, các trường đều đã xây dựng các quy trình, quy định thực hiện hoạt động thanh quyết toán cụ thể. Tuy nhiên, các trường đều phản ánh hiện nay ngân sách cấp cho trường thấp, thu học phí nợ đọng nhiều, chứng từ phức tạp, thủ tục phê duyệt chứng từ thanh quyết toán còn chậm. 4.2. Bộ công cụ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng 4.2.1 Hướng dẫn tự đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng Xây dựng công cụ hướng dẫn đánh giá chương trình đào tạo cử nhân YTCC là một giải pháp giúp cho các trường thuận lợi hơn trong hoạt động tự đánh giá chương trình này. Công cụ đã tập trung vào mô tả rõ hơn các khái niệm của tiêu chuẩn, tiêu chí bằng “ngôn ngữ” gần hơn với YTCC. Qua đánh giá, khoảng gần 10% số minh 21 chứng và gần 8% số chỉ số được nhận định là “không phù hợp”; 12% số minh chứng và gần 20% số chỉ số “không khả thi” mặc dù phần lớn trong số đó được nhận định là “cần thiết”. Lý do không phù hợp và không khả thi được đưa ra chủ yếu là do dữ liệu “không có sẵn”, do “chưa thực hiện” điều này cho thấy còn rất nhiều hoạt động ĐBCL chưa thực hiện được hoặc thực hiện nhưng chưa hệ thống. 4.2.2 Các phiếu phản hồi Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên về nhà trường, về chương trình đào tạo, cơ sở vật chất... đã được các tác giả trong và ngoài nước thực hiện khá nhiều. Tuy nhiên, điểm chung của các nghiên cứu trong và ngoài nước vừa nêu ở trên mới chỉ đề cập đến sự hài lòng về các mặt hoạt động chính của nhà trường như: cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, môi trường học tập, cam kết của nhà trường,mà chưa đi cụ thể đến các khía cạnh sâu hơn của sự hài lòng. Nghiên cứu của chúng tôi đưa ra một số công cụ nhằm đánh giá sự hài lòng của người học trên các khía cạnh cụ thể: hài lòng về từng môn học, về thực hành, về bài giảng lý thuyết của giảng viên; công cụ đánh giá sự hài lòng của chính cán bộ, giảng viên về môi trường làm việc, về lãnh đạo Nhà trường và lãnh đạo đơn vị trực tiếp phụ trách. Qua kết quả phân tích cho thấy, thang đo của các phiếu phản hồi có độ tin cậy khá cao (hệ số Cronbach Alpha>0,8). Điều đó cho thấy, việc sử dụng các thang đo này vào hoạt động phản hồi là rất tốt. 4.3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 4.3.1 Nghiên cứu thực trạng Với phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp định lượng, sản phẩm nghiên cứu của phần này là một bức tranh tổng thể về hệ thống ĐBCL của các trường đại học y có đào tạo cử nhân YTCC. Nghiên cứu định lượng cho thấy thực trạng của hệ thống qua những chỉ số như: tỷ lệ cán bộ ĐBCL tham gia các hoạt động ĐBCL, hoạt động tự đánh giá theo các mức độ; hiểu biết của cán bộ ĐBCL về vai trò, nhiệm vụ của đơn vị ĐBCL. Nghiên cứu định tính đã giúp cho nghiên cứu tìm hiểu sâu hơn về những chủ trương, định hướng phát triển của nhà trường, các ưu tiên trong chính sách ĐBCL, quan điểm về “văn hóa chất lượng” của cán bộ phụ trách các mảng hoạt động của nhà trường. Nhờ đó, bức tranh về hệ thống ĐBCL của các trường trong nghiên cứu hiện lên khá rõ nét, thể hiện các điểm mạnh, điểm yếu và cả những “khoảng trống”. 22 Tuy nhiên, nghiên cứu cũng còn một số hạn chế. Trong nghiên cứu này, mới chỉ nghiên cứu hệ thống ĐBCL tại 6 trường đại học y công lập có đào tạo cử nhân YTCC mà chưa nghiên cứu các trường y ngoài công lập và các trường không phải ngành y có đào tạo cử nhân YTCC. 4.3.2 Công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình cử nhân y tế công cộng Với phương pháp định tính kết hợp phương pháp chuyên gia, sản phẩm nghiên cứu của phần này là bộ công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình đào tạo cử nhân YTCC. Công cụ Hướng dẫn tự đánh giá sau khi phác thảo, đã được nhóm nhỏ các chuyên gia góp ý lần 1, sau đó được góp ý lần 2 qua hội thảo chuyên gia. Bản chỉnh sửa sau hai lần góp ý lại được đánh giá theo từng minh chứng, chỉ số của các tiêu chí. Việc đánh giá được thực hiện theo phương pháp nghiên cứu định tính bằng phỏng vấn sâu Lãnh đạo và chuyên viên phụ trách các bộ phận liên quan đến chương trình đào tạo cử nhân YTCC. Tuy vậy, phương pháp nghiên cứu này cũng có hạn chế là các cán bộ tham gia đánh giá phần lớn không trực tiếp làm về ĐBCL nên những nhận xét của họ có thể mang tính chủ quan. Ngoài ra, nghiên cứu chỉ đánh giá ở hai trường A1, A2 là những trường lớn trong đào tạo cử nhân YTCC và cùng khu vực địa lý nên ít nhiều ảnh hướng đến tính đại diện. KẾT LUẬN Thực trạng Đảm bảo chất lượng tại các trường trong nghiên cứu Tất cả các trường trong nghiên cứu đều đã có đơn vị chuyên trách về Đảm bảo chất lượng với tên gọi khác nhau: Trung tâm, Phòng, Ban. Về nhân lực đơn vị ĐBCL, đa số các trường có 4-8 cán bộ. Nhân lực tham gia ĐBCL tại các trường chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm (74,3%) và có 72,8% cán bộ có trình độ từ Thạc sỹ/tương đương trở lên. Các cán bộ ĐBCL kể cả chuyên trách và kiêm nhiệm ít được đào tạo về phương pháp đánh giá, điều tra nhà tuyển dụng, tình hình việc làm. Cán bộ ĐBCL ở các trường là đội ngũ cán bộ trẻ, kinh nghiệm làm việc ở lĩnh vực ĐBCL chưa nhiều, số năm công tác trung bình trong lĩnh vực này là 2,5 năm. Các mảng quản lý như Đào tạo Đại học, Tổ chức cán bộ, Quản lý sinh viên, Nghiên cứu khoa học, Hợp tác Quốc tế, Tài chính - Kế toán,đều có đặc điểm chung là các trường chủ yếu dựa vào các quy định, quy trình sẵn có của các Bộ chủ quản cho các 23 hoạt động. Chỉ có một ít trường xây dựng riêng quy trình, quy định cụ thể cho trường họ dựa trên các văn bản của cấp trên. Đối với quản lý cán bộ, sinh viên và văn bản hành chính: Đa số các trường đã sử dụng phần mềm nhưng các phần mềm này chưa đồng bộ giữa các phòng ban liên quan trong trường, chưa thống nhất được giữa các trường, chưa trích xuất được các báo cáo về chất lượng các mảng hoạt động của trường. Về mảng Tài chính - Kế toán: Tất cả các trường đều đã xây dựng và thực hiện việc thu, chi dựa vào qui chế chi tiêu nội bộ. Các qui trình, qui định về quản lý tài chính cũng được các trường xây dựng khá đầy đủ. Công cụ hỗ trợ đánh giá chương trình cử nhân y tế công cộng Với hơn 90% minh chứng và chỉ số được nhận định là “phù hợp” hoặc “rất phù hợp”; gần 90% số minh chứng và hơn 80% số chỉ số được nhận định là “khả thi” và “rất khả thi”; hơn 50% số minh chứng và chỉ số được nhận định là có tính “đặc thù” trong y tế công cộng cùng với phần mô tả các tiêu chuẩn và từng tiêu chí khá rõ ràng, chắc chắn rằng công cụ Hướng dẫn tự đánh giá sẽ giúp cho các trường thuận lợi hơn khi đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng. Các mẫu phiếu xây dựng để thu thập về thông tin phản hồi từ sinh viên và cán bộ nhân viên trong nghiên cứu này là phù hợp, có độ tin cậy và tính giá trị cao. KHUYẾN NGHỊ Mỗi trường cần xem xét lựa chọn cách tiếp cận về ĐBCL giáo dục cho phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. Phân loại, định hướng và lên kế hoạch cho từng loại hoạt động sẽ giúp các trường thực hiện hiệu quả công tác ĐBCLGD vì quá trình này gồm nhiều khâu, với sự tham gia của nhiều đơn vị khác nhau trong môi trường giáo dục rất năng động. Các trường cần có có đủ cán bộ chuyên trách công tác ĐBCLGD để tập trung phù hợp cho hoạt động này. Các cán bộ này cần được tập huấn các kiến thức và kỹ năng liên quan đến công việc. Cần tăng cường đào tạo, khuyến khích các cán bộ ĐBCL học tập, nâng cao trình độ và các kỹ năng về đánh giá chất lượng giáo dục trong nhà trường. 24 Cân nhắc sử dụng hướng dẫn tự đánh giá và các phiếu thu thập thông tin đã phát triển trong nghiên cứu này cho quá trình đánh giá chương trình cử nhân y tế công cộng nói riêng và các chương trình đào tạo nói chung. Tùy theo điều kiện và mức độ ưu tiên, các trường cân nhắc xác định những hoạt động ĐBCL và cách thức thực hiện hoạt động cho phù hợp. Các hoạt động ĐBCL gợi ý trong nghiên cứu này nên được triển khai tối đa và có quy trình cụ thể, thống nhất vì các hoạt động này đều thuộc nhóm các hoạt động được khuyến cáo bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các hệ thống ĐBCL trên thế giới. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRONG THỰC TIỄN Những kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để các trường có đào tạo cử nhân y tế công cộng nhìn nhận lại hệ thống đảm bảo chất lượng của trường mình, từ đó có kế hoạch điều chỉnh phù hợp với phát triển chung của nhà trường. Công cụ hỗ trợ giúp cho các trường thực hiện hoạt động đánh giá chương trình đào tạo cử nhân y tế công cộng nói riêng và các chương trình đào tạo nói chung.
File đính kèm:
tom_tat_luan_van_thuc_trang_he_thong_dam_bao_chat_luong_tai.pdf

