Tóm tắt luận án Đánh giá tác động của mô hình tăng cường phát hiện sớm khuyết tật đối với các bà mẹ có con dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức - thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2016
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thời thơ ấu của trẻ em là giai đoạn quan trọng của tăng trưởng và phát triển bởi vì những trải nghiệm
trong thời kỳ này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống sau này của một cá nhân. Đối với trẻ khuyết tật
(TKT) thì việc phát hiện sớm (PHS) và can thiệp sớm (CTS) trong thời kỳ này rất quan trọng vì nó giúp cho
TKT phát huy tối đa tiềm năng của mình và tạo cơ hội cho TKT hòa nhập xã hội, giảm bớt gánh nặng cho
gia đình và xã hội. PHS một dạng khuyết tật đóng vai trò quan trọng không những trong việc thiết lập một
chương trình CTS mà còn quyết định sự thành công của chương trình CTS cho dạng khuyết tật đó. Tuy
nhiên có đến một nửa TKT không được xác định trước khi đi học. Điều này đã làm trẻ mất đi cơ hội được
CTS và làm cho chí phí của xã hội tăng lên trong quá trình can thiệp sau này. Theo Shonkoff thì nếu TKT
được phát hiện và được can thiệp trước khi học mẫu giáo thì có thể tiết kiệm cho xã hội từ 30.000$ đến
100.000$/ mỗi TKT.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt luận án Đánh giá tác động của mô hình tăng cường phát hiện sớm khuyết tật đối với các bà mẹ có con dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức - thành phố Hà Nội giai đoạn 2014-2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - BỘ Y TẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG NGUYỄN HỮU CHÚT ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA MÔ HÌNH TĂNG CƢỜNG PHÁT HIỆN SỚM KHUYẾT TẬT ĐỐI VỚI CÁC BÀ MẸ CÓ CON DƢỚI 6 TUỔI TẠI HUYỆN HOÀI ĐỨC – THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2014 - 2016 Chuyên ngành Y tế công cộng Mã số: 62.72.03.01 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH 62.72.03.01 Hà Nội - 2017 Công trình được hoàn thành tại trường Đại học Y tế công cộng Người hướng dẫn khoa học 1. PGS. TS. Nguyễn Thị Minh Thủy 2. TS. Nguyễn Xuân Trƣờng Phản biện 1: TS. Nguyễn Thị Hương Giang Phản biện 2: PGS. TS. Phạm Việt Cường Phản biện 3: PGS. TS. Trần văn Chương Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ cấp Trường tại Trường Đại học Y Tế Công Cộng vào hồi 9 giờ 00 phút, ngày 21 tháng 09 năm 2017. Có thể tìm hiểu luận án tại: 1. Thư viện Quốc gia 2. Thư viện trường Đại học Y tế công cộng 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Thời thơ ấu của trẻ em là giai đoạn quan trọng của tăng trưởng và phát triển bởi vì những trải nghiệm trong thời kỳ này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống sau này của một cá nhân. Đối với trẻ khuyết tật (TKT) thì việc phát hiện sớm (PHS) và can thiệp sớm (CTS) trong thời kỳ này rất quan trọng vì nó giúp cho TKT phát huy tối đa tiềm năng của mình và tạo cơ hội cho TKT hòa nhập xã hội, giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội. PHS một dạng khuyết tật đóng vai trò quan trọng không những trong việc thiết lập một chương trình CTS mà còn quyết định sự thành công của chương trình CTS cho dạng khuyết tật đó. Tuy nhiên có đến một nửa TKT không được xác định trước khi đi học. Điều này đã làm trẻ mất đi cơ hội được CTS và làm cho chí phí của xã hội tăng lên trong quá trình can thiệp sau này. Theo Shonkoff thì nếu TKT được phát hiện và được can thiệp trước khi học mẫu giáo thì có thể tiết kiệm cho xã hội từ 30.000$ đến 100.000$/ mỗi TKT. Ở những quốc gia phát triển, hoạt động phát hiện sớm khuyết tật (PHSKT) ở trẻ em là một phần cơ bản trong hoạt động chăm sóc sức khỏe trẻ em. Hoạt động này thường được lồng ghép trong các hoạt động của hệ thống y tế, giáo dục và các dịch vụ chăm sóc xã hội khác. Với các nước có thu nhập thấp và trung bình thì việc thực hiện hoạt động PHSKT vẫn chưa được quan tâm đúng mức và việc triển khai thực hiện vẫn còn là một thách thức lớn. Tại Việt Nam, một trong những chương trình có nội dung PHSKT ở trẻ em đầu tiên là chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ). Bên cạnh chương trình PHCNDVCĐ cũng có một số đề án, dự án PHSKT ở trẻ em của chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các cá nhân được triển khai, nhưng theo đánh giá của Bộ Y tế thì hoạt động này vẫn chưa phát triển. PHSKT là trách nhiệm của cả cộng đồng trong đó có trách nhiệm của gia đình. Trong gia đình thì bà mẹ là người gần gũi với trẻ nhiều nhất, họ thường quan sát, để ý đến sự phát triển của trẻ và họ đều có xu hướng so sánh con cái của họ với con cái của những người khác để hình thành những đánh giá hoặc họ so sánh sự phát triển từ những nhận thức, hành vi đơn giản cho đến các kỹ năng tư duy phức tạp. Họ tự tìm kiếm và sử dụng những thông tin về sự phát triển ở mức độ cơ bản nhất. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng bà mẹ là người sớm nhận ra các dấu hiệu bất thường (DHBT) của trẻ và những băn khoăn lo lắng của các bà mẹ về phát triển của con mình có độ nhạy và độ đặc hiệu như các công cụ sàng lọc chất lượng. Các nghiên cứu này cũng chỉ ra sự băn khoăn, lo lắng của các bà mẹ về sự phát triển và hành vi của trẻ có mối liên quan trực tiếp đến kết quả sàng lọc cho các vấn đề phát triển và hành vi. Glascoe đã chỉ ra những lợi thế của PHSKT thông qua các bà mẹ như: Sự hợp tác của các bà mẹ với nhân viên y tế được cải thiện đáng kể, khi bà mẹ phát hiện những dấu hiệu bất thường ở con mình thì thời gian để chẩn đoán được rút ngắn lại đáng kể. PHSKT ở trẻ em thông qua các bà mẹ loại bỏ được những thách thức như trẻ không hợp tác, sợ hãi, buồn ngủ hoặc bị bệnh khi các chuyên gia y tế trực tiếp đo lường các kỹ năng của trẻ. PHSKT thông qua các bà mẹ đã cải thiện đáng kể tỷ lệ TKT được phát hiện sớm. Tuy nhiên nhiều cuộc điều tra quốc tế đã cho thấy nhiều phụ huynh cần được tư vấn về phương pháp phát hiện những DHBT về phát triển của trẻ em. Tại Việt Nam mới chỉ có một số ít nghiên cứu đề cập về kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT ở trẻ em trên nhóm đối tượng là cha/mẹ của TKT (TKT) và cũng đã ít nhiều đề cập tới các khía cạnh kiến thức, thái độ, thực hành của bà mẹ liên quan đến PHSKT ở trẻ em. Nghiên cứu “Đánh giá tác động của mô hình tăng cường phát hiện sớm khuyết tật đối với các bà mẹ có con dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức – Thành 2 phố Hà Nội giai đoạn 2014-2016” với ba mục tiêu: 1) Mô tả thực trạng phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức – Thành phố Hà Nội. 2) Đánh giá hiệu quả của can thiệp tăng cường phát hiện sớm khuyết tật lên sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành phát hiện sớm khuyết tật của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi. 3) Bước đầu đánh giá sự thay đổi tuổi phát hiện khuyết tật ở trẻ khuyết tật dưới 6 tuổi sau can thiệp. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Nghiên cứu này có một số đóng góp mới cho trong nghiên cứu về PHSKT ở trẻ em tại Việt Nam: Là một trong những số ít nghiên cứu can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành tăng cường PHSKT ở trẻ em cho các bà mẹ có con dưới 6 tuổi tại Việt Nam. Mô hình thông tin, động lực, kỹ năng ứng xử lần đầu được áp dụng vào một chương trình can thiệp tăng cường PHSKT ở trẻ em tại Việt Nam và nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng về sự phù hợp của mô hình trong can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em cho các bà mẹ. Nghiên cứu có một số kết quả mới chưa được tìm hiểu trong các nghiên cứu về PHSKT ở trẻ em tại Việt Nam như: Thực trạng PHSKT ở trẻ em tại huyện Hoài Đức năm 2014: Trung bình thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên là 12,03 tháng. Trung bình thời điểm hỏi ý kiến người khác là 12,16 tháng. Trung bình thời điểm khẳng định trẻ không bình thường là 13,85 tháng. Trung bình thời điểm đưa trẻ đi khám là 19,15 tháng. Trung bình thời điểm trẻ được chẩn đoán xác định khuyết tật là 20,59 tháng. Trung bình thời gian từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định khuyết tật chung là 8,72 tháng và dạng KT tật thần kinh/tâm thần có thời gian từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định khuyết tật là muộn nhất (13,46 tháng). Các yếu tố liên quan đến thực trạng PHSKT ở trẻ em tại huyện Hoài Đức năm 2014 như: Bà mẹ TKT có tình trạng mang thai bình thường thì phát hiện dấu hiệu khuyết tật ở TKT muộn hơn bà mẹ TKT có tình trạng mang thai bất thường và TKT cũng được chẩn đoán xác định khuyết tật muộn hơn (B = -4,79; p<0,01). Bà mẹ TKT được tiếp cận thông tin PHSKT thì phát hiện được dấu hiệu khuyết tật ở TKT sớm hơn bà mẹ không được tiếp cận thông tin PHSKT và TKT cũng được chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn (B=-8,181; p<0,01). TKT được phát hiện DHBT sớm thì được chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn (B = 8,362; p<0,001). Thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên và thời điểm được chẩn đoán xác định khuyết tật ở dạng khuyết tật trí tuệ muộn hơn các dạng khuyết tật khác (B=6,123; p<0,01). Kết quả cho thấy bước đầu chương trình can thiệp đã có những thành công nhất định trong việc thay đổi kiến thức, thái độ, thực hành PHSKT ở trẻ em của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi và gián tiếp tác động đến sự cải thiện tuổi được phát hiện, chẩn đoán xác định khuyết tật của TKT tại huyện Hoài Đức (điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT chung của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi sau can thiệp tăng 7,62 điểm (p<0,001). Trung bình thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 3,98 tháng (p<0,05). Trung bình thời điểm trẻ được chẩn đoán xác định sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 5,95 tháng (p<0,01). Trung bình thời gian từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 3,66 tháng (p<0,05)). KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN Luận án gồm 109 trang, 27 bảng, 5 biểu đồ, 5 hình, 154 tài liệu tham khảo trong đó có 113 tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh. Đặt vấn đề 2 trang, mục tiêu nghiên cứu 1 trang, tổng quan 28 trang, phương pháp nghiên cứu 17 trang, kết quả 24 trang, bàn luận 34 trang, kết luận 2 trang, khuyến nghị 1 trang. 3 Chƣơng 1 TỔNG QUAN 1.1. Khái niệm về phát hiện sớm khuyết tật 1.1.1. Định nghĩa phát hiện sớm khuyết tật PHSKT là các biện pháp sàng lọc rối loạn phát triển của trẻ theo độ tuổi và giai đoạn nhằm phát hiện những trẻ có yếu tố nguy cơ bị khuyết tật (KT) để gửi đi khám và phân loại KT từ đó có biện pháp can thiệp sớm. 1.1.2. Các bước phát hiện sớm khuyết tật Nhận biết sớm: Là quan sát được những dấu hiệu đầu tiên gợi ý sự phát triển của trẻ có thể có nguy cơ hoặc bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần, hành vi. Phát hiện sớm: Là sự nhận diện một cách hệ thống các DHBT về phát triển hoặc bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần và hành vi. Các công cụ sàng lọc để phát hiện các bất thường sẽ được thành viên gia đình, cộng đồng hoặc cán bộ y tế, giáo dục thực hiện. Kết quả sàng lọc chưa phải là chẩn đoán, trẻ cần được khám chuyên khoa để có chẩn đoán cuối cùng. Chẩn đoán: Là sự xác định các khiếm khuyết về phát triển hoặc bất thường về thể chất, giác quan, tâm thần và hành vi do các nhà chuyên môn chuyên ngành sâu như Phục hồi chức năng (PHCN), Nhi khoa, chuyên gia tâm lý - giáo dục - xã hội 1.1.3. Đối tượng của phát hiện sớm khuyết tật Đối tượng của PHSKT là tất cả trẻ em từ 0 - 6 tuổi tại cộng đồng (bình thường và khuyết tật đã được chẩn đoán trước đó). 1.1.4. Nhân lực tham gia phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em Những người có trách nhiệm tham gia trong công tác PHSKT ở trẻ em bao gồm: Cha mẹ, người thân, người chăm sóc chính. Cán bộ ngành Y tế Cán bộ ngành giáo dục (nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, phổ thông). Cán bộ ngành lao động thương binh và xã hội. Các tổ chức xã hội khác tại cộng đồng như: Hội chữ thập đỏ, Hội phụ nữ 1.2. Tầm quan trọng của phát hiện sớm khuyết tật. 1.2.1. PHSKT giúp trẻ khuyết tật có cơ hội được can thiệp sớm Trong nghiên cứu của Hix-Small cho thấy 67,5% trẻ em được xác định là chậm phát triển đã không được xác định trước đó bởi các bác sĩ nhi khoa. Sau khi sử dụng các công cụ đánh giá tiêu chuẩn thì tỉ lệ trẻ cần CTS tăng hơn 200%. Sau bốn năm thực hiện chương trình đảm bảo tốt hơn sức khỏe và phát triển trẻ em của Bắc Carolina (North Carolina’s Assuring Better Child Health and Development) thì số lượng TKT được giới thiệu đến các chương trình CTS tăng gấp bốn lần, tỷ lệ TKT được CTS trên toàn tiểu bang tăng từ 3% năm 2003 lên 4,3% vào năm 2008. 1.2.2. PHSKT nâng cao hiệu quả của can thiệp sớm. PHSKT đóng vai trò quan trọng không những trong việc thiết lập một chương trình CTS mà còn quyết định sự thành công của chương trình CTS cho TKT. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng nếu khả năng nghe được xác định sớm và được CTS thì kết quả can thiệp sẽ cao hơn nếu xác định muộn và can thiệp muộn (r = - 0,452; F change = 19,24). 1.2.3. PHSKT tạo cơ hội cho TKT hòa nhập xã hội, giảm bớt gánh nặng cho gia đình, xã hội. 4 Phát hiện muộn TKT làm cho quốc gia và người dân phải trả tiền cho các chương trình giáo dục đặc biệt rất tốn kém mà lẽ ra các vấn đề này có thể được giải quyết với chi phí rẻ hơn trong giai đoạn phát triển sớm của trẻ. Theo Shonkoff thì nếu TKT được phát hiện và được can thiệp trước khi học mẫu giáo thì có thể tiết kiệm cho xã hội từ 30.000$ đến 100.000$/ mỗi TKT. 1.2.4. PHS và CTS giúp trẻ khuyết tật phát huy tối đa tiềm năng của mình Đối với tất cả trẻ em, thời thơ ấu là giai đoạn quan trọng của tăng trưởng và phát triển, những trải nghiệm trong thời kỳ này có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống sau này của trẻ. Đối với TKT thì việc PHSKT và can thiệp trong thời kỳ này rất quan trọng vì nó giúp cho TKT phát huy tối đa tiềm năng của mình. 1.3. Vai trò của bà mẹ trong phát hiện sớm khuyết tật 1.3.1.Hiểu biết của bà mẹ ảnh hưởng đến phát triển của trẻ Nghiên cứu cho thấy khoảng thời gian từ lúc thụ thai đến 6 tuổi là khoảng thời gian ảnh hưởng nhất đến sự phát triển của não đồng thời giai đoạn này cũng ảnh hưởng nhất đến việc học tập, hành vi và sức khỏe của trẻ trong tương lai. Chất lượng của những trải nghiệm ban đầu trong quan hệ gia đình, cụ thể như mối quan hệ mẹ - con có tác động mạnh tới sự phát triển của não và có ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe và hạnh phúc của trẻ sau này. Nghiên cứu sự phát triển tâm vận động của trẻ 0 - 24 tháng của Hàn Nguyệt Kim Chi cho thấy, trong số 39 trẻ có chỉ số phát triển khu vực cá nhân xã hội đạt ở mức sớm có 29 trẻ (khoảng 75%) được mẹ hoặc ông bà chăm sóc hoàn toàn trong những năm đầu. Tỷ lệ gia tăng của các vấn đề phát triển và hành vi ở trẻ em là minh chứng cho thấy trẻ em và gia đình trẻ thiếu khả năng để đối phó một cách thích hợp với những căng thẳng ngày càng tăng trong cuộc sống của họ và từ đó dẫn đến nhu cầu cha/mẹ trẻ cần được hỗ trợ trong việc chăm sóc và phát hiện những rối loạn về hành vi và phát triển của trẻ. Các bà mẹ đều có xu hướng so sánh con cái của họ với con cái của những người khác để hình thành những đánh giá ví dụ: “Tôi nhìn những gì mà những đứa trẻ khác có thể làm và sau đó xem con tôi có thể làm được hay không” hoặc họ so sánh sự phát triển từ những nhận thức, hành vi đơn giản cho đến các kỹ năng tư duy phức tạp. Họ tự tìm kiếm và sử dụng những thông tin về sự phát triển ở mức độ cơ bản nhất. Tuy nhiên các cuộc điều tra quốc tế đều cho thấy nhiều phụ huynh không được chuẩn bị và không được hỗ trợ trong vai trò làm cha/mẹ của họ và họ thấy là cần được tư vấn về phương pháp nuôi dạy con cái và phát hiện những rối loạn về hành vi và phát triển của. 1.3.2. Bà mẹ là người sớm nhận ra các dấu hiệu bất thường của trẻ Việc xác định các vấn đề phát triển và hành vi của trẻ được dựa trên đánh giá lâm sàng của các chuyên gia y tế và thường bắt đầu bằng việc quan sát, xem xét, so sánh với các mốc phát triển bình thường. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng đánh giá lâm sàng thường bị ảnh hưởng bởi cách thức đánh giá, lựa chọn thông tin lâm sàng mà các chuyên gia y tế nêu ra. Chính vì vậy có một tỷ lệ đáng kể trẻ em có vấn đề vẫn không được phát hiện. Nghiên cứu của Rikhy Shivani và cộng sự (2010) cho thấy sự băn khoăn, lo lắng của các bà mẹ về sự phát triển và hành vi của trẻ có mối liên quan trực tiếp đến kết quả sàng lọc cho các vấn đề phát triển và hành vi và nếu có được những thông tin về trẻ từ các bà mẹ thì độ chính xác về lâm sàng cũng tăng lên. Trong một nghiên cứu khác, 70% trẻ em không qua được test kiểm tra các vấn đề hành vi và cảm xúc có phụ huynh lo ngại về tình trạng hành vi và cảm xúc của chúng. Glascoe chỉ ra rằng các bà mẹ có thể cung cấp các chỉ số chính xác cao về các vấn đề hành vi và sự phá ... oán xác định khuyết tật. TKT tật trí tuệ có thời điểm chẩn đoán xác định khuyết tật muộn hơn trẻ có các dạng khuyết tật khác 6,12 tháng tuổi (B= 6,12; P<0,01). Dạng khuyết tật trí tuệ có thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên và thời điểm chẩn đoán xác định khuyết tật đều muộn hơn các dạng khuyết tật khác. Điều này là do cộng đồng thiếu kiến thức về các dấu hiệu phát hiện trẻ khuyết tật trí tuệ nên thường dẫn đến chẩn đoán xác định khuyết tật muộn. Đây cũng là một điểm rất cần được chú ý khi thực hiện chương trình can thiệp tăng cường PHSKT ở trẻ em chúng ta cần tăng cường kiến thức về dấu hiệu phát hiện sớm trẻ khuyết tật trí tuệ và cách xử trí khi trẻ có những dấu hiệu khuyết tật trí tuệ. Phân tích đa biến và phân tích đơn biến đều cho thấy có mối liên quan giữa số khuyết tật trên trẻ với thời điểm chẩn đoán xác định khuyết tật. Trẻ đa khuyết tật có thời điểm chẩn đoán sớm hơn trẻ có một khuyết tật 5,58 tháng (B= -5,58; p<0,001). Trẻ đa khuyết tật có thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên và thời điểm chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn trẻ có một khuyết tật vì trẻ đa khuyết tật biểu hiện nhiều dấu hiệu hơn và các dấu hiệu cũng biểu hiện trầm trọng hơn (đặc biệt liên quan đến việc chăm sóc trẻ) nên các thành viên trong cộng đồng phát hiện được sớm hơn và vì mức độ trầm trọng của trẻ nên người dân cũng đưa trẻ đi khám sớm hơn. TKT có bà mẹ khi mang thai có vấn đề bất thường được chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn TKT có bà mẹ khi mang thai bình thường 5,65 tháng tuổi (B= -5,65; p<0,01). Như trên đã phân tích khi bà mẹ mang thai có bất thường thì khi khám thai đã được nhân viên y tế tư vấn về PHSKT ở trẻ em chính vì vậy bà mẹ biết được cách xử lý khi trẻ có DHBT nên trẻ được chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn do đó khi can thiệp truyền thông PHSKT ở trẻ em cần lưu ý hơn đối với nhóm đối tượng các bà mẹ có tình trạng mang thai bình thường. TKT có bà mẹ tiếp cận được với thông tin PHSKT được chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn TKT có bà mẹ không tiếp cận được thông tin PHSKT 8,18 tháng (B=-8,18; p<001). TKT có bà mẹ tiếp cận được với thông tin PHSKT nên biết được các dấu hiệu khuyết tật và phát hiện DHBT đầu tiên sớm hơn trẻ khác và họ biết được cách xử trí khi trẻ có biểu hiện các DHBT nên họ đưa trẻ đi khám sớm do đó có thời điểm chẩn đoán xác định khuyết tật sớm hơn. 21 Khi thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên muộn hơn 1 tháng tuổi thì thời điểm chẩn đoán muộn hơn 0,68 tháng (B= 0,68; p<0,001). Kết quả này tương đồng với kết quả của nghiên cứu thành phố (B=0,62; p<0,001). Điều này cho thấy để chẩn đoán sớm thì cần phải phát hiện DHBT sớm vì vậy tăng cường các biện pháp truyền thông nhằm nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT cho cộng đồng để phát hiện DHBT sớm từ đó sẽ chẩn đoán xác định khuyết tật sớm là biện pháp hết sức cần thiết. 4.2. Đánh giá hiệu quả của can thiệp tăng cƣờng PHSKT lên sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT ở trẻ em của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng 4.2.1. Thông tin chung của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi Tuổi của các bà mẹ chủ yếu ở nhóm tuổi 25 đến 30 (trước can thiệp chiếm 46,6%, sau can thiệp chiếm 51,5%). Trình độ học vấn trên THPT của các bà mẹ trước can thiệp là chiếm 53,1%, sau can thiệp chiếm 48,3%. Nghề nghiệp là viên chức, công nhân chiếm đa số (trước can thiệp (43,1%), sau can thiệp (45,6%)). Không có sự khác biệt về đặc điểm nhân khẩu học của hai nhóm bà mẹ trước và sau can thiệp (p>0,05). Các bà mẹ có tình trạng mang thai bình thường chiếm đa số (95,8% trước can thiệp và 93,8% sau can thiệp). Đẻ thường chiếm đa số (69,2% trước can thiệp và 64,4% sau can thiệp). Không có sự khác biệt về tiền sử thai sản của các bà mẹ trước can thiệp và sau can thiệp (P>0,05). Nguồn thông tin về PHSKT trước can thiệp là truyền miệng (47%) chiếm đa số và rất ít bà mẹ nhận được thông tin PHSKT từ tờ rơi, áp phíc hay loa phát thanh của xã, thôn. Từ thực trạng này trong hoạt động can thiệp, NCS đã thiết kế tờ rơi, áp phíc có các thông tin về PHSKT để phát cho các bà mẹ cũng như tăng tần suất các buổi phát thanh về PHSKT bên cạnh các hoạt động can thiệp khác. Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy sau can thiệp nguồn thông tin về PHSKT từ loa phát thanh chiếm 68,9%, từ cán bộ Y tế chiếm 67,6%, từ tờ rơi chiếm 50,3%. Sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01. 4.2.2. Sự thay đổi kiến thức PHSKT ở trẻ em của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi sau can thiệp Kiến thức chung về PHSKT của nhóm các bà mẹ sau can thiệp cao hơn 2,32 điểm (p<0,001). Trong 3 mục đánh giá về kiến thức PHSKT (kiến thức về khuyết tật và phòng ngừa khuyết tật, kiến thức về PHSKT và kiến thức về các dấu hiệu nhận biết TKT) thì mục đánh giá kiến thức về PHSKT của nhóm bà mẹ sau can thiệp có sự khác biệt lớn nhất (1,11 điểm). Điểm trung bình kiến thức về PHSKT ở nhóm bà mẹ trước can thiệp cũng thấp (3,2 điểm) nhóm bà mẹ sau can thiệp cao hơn (4,31 điểm). Trước can thiệp thì những khái niệm này là mới (mới đối với ngay cả cán bộ Y tế cơ sở) cho nên số lượng bà mẹ ở nhóm trước can thiệp trả lời đúng thấp hơn và sau khi can thiệp thì số lượng bà mẹ ở nhóm sau can thiệp trả lời đúng cao hơn rõ rệt. Đây cũng là bằng chứng về hiệu quả của chương trình can thiệp. 4.2.3.Sự thay đổi thái độ PHSKT ở trẻ em của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi sau can thiệp Trong 4 mục đánh giá về thái độ của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi đối với PHSKT (quan điểm/thái độ đối với TKT, quan niệm/niềm tin trong PHSKT, thái độ đối với PHSKT, thái độ trong tham gia PHSKT) thì điểm trung bình của cả 4 mục ở nhóm bà mẹ sau can thiệp đều cao hơn nhóm bà mẹ trước can thiệp (cao hơn từ 0,15 đến 0,29 điểm). Trong đó khác biệt lớn nhất là mục quan điểm/thái độ đối với TKT (0,74 điểm với p<0,001) tiếp theo là mục thái độ trong tham gia PHSKT tại cộng đồng (0,29 điểm với p<0,001). Điểm trung bình thái độ chung ở nhóm bà mẹ sau can thiệp cao hơn 1,33 điểm so với nhóm bà mẹ trước can thiệp với p<0,001 (17,93 điểm so với 16,59 điểm). 4.2.4. Sự thay đổi thực hành PHSKT ở trẻ em của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi sau can thiệp 22 Điểm trung bình của cả 6 mục đánh giá thực hành theo dõi PHSKT trẻ em của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi ở nhóm sau can thiệp đều cao hơn có ý nghĩa thống kê (thực hành theo dõi các dấu hiệu phát triển trẻ em cao hơn 0,34 điểm, thực hành theo dõi các dấu hiệu phát triển vận động thô và vận động tinh cao hơn 0,33 điểm, thực hành theo dõi các dấu hiệu khiếm khuyết về nhìn cao hơn 0,44 điểm, thực hành theo dõi các dấu hiệu khiếm khuyết về nghe/nói cao hơn 0,45 điểm, thực hành theo dõi các dấu hiệu khiếm khuyết về trí tuệ cao hơn 0,31, thực hành tìm kiếm và sử dụng tài liệu PHSKT cao hơn 2,09 điểm). Điểm trung bình thực hành chung cũng cao hơn 3,96 điểm có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Những thay đổi trong từng chỉ số đo lường cụ thể về thực hành PHSKT ở trẻ em của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi ở nhóm sau can thiệp đã cho thấy kết quả của chương trình can thiệp. 4.2.5. Sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT ở trẻ em của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi Điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành của nhóm bà mẹ trước can thiệp là 37,16 điểm, điểm trung bình của nhóm các bà mẹ sau can thiệp là 44,78 điêm cao hơn 7,62 điểm so với nhóm bà mẹ trước can thiệp có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Đây là kết quả thể hiện sự chuyển biến nhanh chóng kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT ở trẻ của các bà mẹ sau một năm can thiệp. Điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành phát hiện sớm của nhóm bà mẹ trước can thiệp và nhóm bà mẹ sau can thiệp có sự khác biệt giữa các xã (phụ lục 12). Nhóm bà mẹ trước can thiệp ở xã Đức Giang (thu nhập bình quân đầu người/năm đứng thứ 3) có điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành cao nhất (40,57 điểm) và thấp nhất là nhóm bà mẹ ở xã Sơn Đồng (thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 2) là 35,88 điểm với p<0,001. Sau can thiệp thì nhóm bà mẹ ở xã Đức Giang vẫn có điểm kiến thức, thái độ và thực hành cao nhất (45,41 điểm), nhóm bà mẹ ở xã Kim Chung (thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 4) có điểm trung bình thấp nhất (43,69 điểm) với p<0,05. Tuy nhiên khi phân tích đa biến thì không còn có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ kiến thức, thái độ và thực hành giữa các xã (bảng 3.23). Điều này cho thấy điều kiện kinh tế không liên quan đến kiến, thức thái độ và thực hành PHSKT của các bà mẹ. 4.3. Đánh giá sự thay đổi tuổi phát hiện khuyết tật ở TKT dưới 6 tuổi sau can thiệp Tuổi trung bình thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên ở nhóm sau can thiệp sớm hơn 3,98 tháng (p<0,05). Điều này có thể do sau can thiệp kiến thức về dấu hiệu phát hiện các dạng khuyết tật của cộng đồng được cải thiện hơn và việc theo dõi phát triển của trẻ em cũng thường xuyên hơn nên các DHBT của TKT được phát hiện sớm hơn. Qua phỏng vấn cho thấy sau can thiệp cha/mẹ của TKT đã có thái độ cởi mở hơn trong việc trao đổi với các thành viên khác trong cộng đồng về những bất thường của trẻ do đó tuổi trung bình thời điểm gia đình trao đổi với người khác về những bất thường của trẻ sau can thiệp sớm hơn 2,69 tháng. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tuổi trung bình thời điểm khẳng định trẻ không bình thường sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 3,62 tháng không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuổi trung bình thời điểm trẻ được đi khám ở nhóm sau can thiệp sớm hơn ở nhóm trước can thiệp 5,22 tháng (p<0,05). Tuổi trung bình thời điểm trẻ được chẩn đoán xác định khuyết tật ở nhóm sau can thiệp sớm hơn ở nhóm trước can thiệp 5,96 tháng (p<0,01). Trung bình khoảng cách từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định khuyết tật ở nhóm sau can thiệp thấp hơn ở nhóm trước can thiệp 3,66 tháng (p<0,05). Điều này có thể do sau khi tăng cường các biện pháp truyền thông nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT cho cộng động thì các bà mẹ đã thấy được tầm quan trọng của việc đưa trẻ đi khám ngay nếu thấy dấu hiệu bất thường ở trẻ và do đó TKT đã được phát hiện sớm hơn và chẩn đoán sớm hơn trước can thiệp. 23 KẾT LUẬN 1. Thực trạng PHSKT Trung bình thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên : 12,03 tháng ± 0,89 tháng. Trung bình thời điểm hỏi ý kiến người khác: 12,16 tháng ± 0,88 tháng. Trung bình thời điểm khẳng định trẻ không bình thường: 13,85 tháng ± 0,98 tháng. Trung bình thời điểm đưa trẻ đi khám: 19,15 tháng ± 1,32 tháng. Trung bình thời điểm trẻ được chẩn đoán xác định: 20,59 tháng ± 1,35 tháng. Trung bình thời gian từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định khuyết tật chung là 8,72 tháng ± 0,98 tháng và KT tật thần kinh/tâm thần là muộn nhất 13,46 tháng ± 4 tháng. Một số yếu tố liên quan đến thời điểm chẩn đoán xác định Tuổi của trẻ (B= 0,178; p<0,01). Trẻ khuyết tật vận động (B=-4,548; p<0,05). Trẻ khuyết tật trí tuệ (B=6,123; p<0,01). Trẻ đa khuyết tật (B= -5,588; p<0,01). Bà mẹ có tình trạng mang thai bất thường (B = -5,658; p<0,01). Tiếp cận được thông tin PHSKT (B=-8,181; p<0,01. Thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên (B = 8,362; p<0,001). 2. Sự thay đổi kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT của các bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi. Điểm trung bình kiến thức chung về PHSKT của các bà mẹ có con từ 0 -12 tháng tuổi sau can thiệp tăng lên 2,32 điểm với p<0,001. Điểm trung bình thái độ chung về PHSKT của các bà mẹ có con từ 0 -12 tháng tuổi sau can thiệp tăng lên 1,33 điểm với p<0,001. Điểm trung bình thực hành chung về PHSKT của các bà mẹ có con từ 0 -12 tháng tuổi sau can thiệp tăng 3,96 điểm với p<0,001. Điểm trung bình kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT chung của các bà mẹ có con từ 0 -12 tháng tuổi sau can thiệp tăng 7,62 điểm với p<0,001. 3. Đánh giá hiệu quả của can thiệp tăng cƣờng PHSKT lên sự thay đổi tuổi phát hiện khuyết tật ở trẻ khuyết tật dƣới 6 tuổi sau can thiệp. Trung bình thời điểm phát hiện DHBT đầu tiên sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 3,98 tháng (p<0,05). Trung bình thời điểm trẻ được chẩn đoán xác định sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 5,95 tháng (p<0,01). Trung bình thời gian từ khi phát hiện DHBT đầu tiên đến khi được chẩn đoán xác định sau can thiệp sớm hơn trước can thiệp 3,66 tháng (p<0,05). 24 KHUYẾN NGHỊ Trung tâm y tế huyện Hoài Đức nên tiếp tục duy trì hoạt động nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành PHSKT ở trẻ em cho các bà mẹ với những tài liệu đã có. Trung tâm y tế huyện Hoài Đức nên lồng ghép mô hình truyền thông tăng cường PHSKT ở trẻ em vào các chương trình chăm sóc sức khỏe trẻ em khác tại địa phương. Tăng cường hình thức truyền thông bằng áp phíc. Sở y tế Hà Nội nên nhân rộng mô hình tăng cường PHSKT ở trẻ em ra các huyện khác của Hà Nội. Cần tiến hành thêm những nghiên cứu tăng cường PHSKT ở trẻ em cho các bà mẹ với thời gian can thiệp dài hơn. DANH MỤC CÁC BÀI BÁO ĐÃ XUẤT BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường (2016), “Tổng quan về phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ em”, Tạp chí Y học dự phòng, tập XXVI số 8 (181) 2016, tr 9 -14. 2. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường (2016), “Tổng quan về kiến thức và thái độ phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ của các bà mẹ”, Tạp chí Y dược học quân sự, Vol 41, N09, tháng 12/2016, tr 202 – 208. 3. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường (2016), “Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành phát hiện sớm khuyết tật của bà mẹ có con từ 0 - 12 tháng tuổi tại huyện Hoài Đức – Hà nội năm 2014”, Tạp chí Y học thực hành, 9(1021) 2016, tr 35 -37. 4. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường (2016), “Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành phát hiện sớm khuyết tật của các bà mẹ có con từ 0 -12 tháng tuổi tại huyện Hoài Đức – Hà Nội năm 2014”, Tạp chí Y học thực hành, 9(1022) 2016, tr 181 – 183. 5. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường, Trịnh Quang Dũng, Nguyễn Thị Hương Giang, Nguyễn Thu Thủy (2017), “Thực trạng phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức – Hà nội năm 2014”, Tạp chí phục hồi chức năng, số 1 - 3/2017, tr 61 – 64. 6. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường, Trịnh Quang Dũng (2017), “Tổng quan tài liệu về mô hình phát hiện sớm khuyết tật”, Tạp chí phục hồi chức năng, số 2 - 6/2017, tr 28 – 30. 7. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Hồng Tuyết (2017), “Tỷ lệ các dạng khuyết tật ở trẻ khuyết tật dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức – Hà nội năm 2014”, Tạp chí phục hồi chức năng, số 2 - 6/2017, tr 24 – 27. 8. Nguyễn Hữu Chút, Nguyễn Thị Minh Thủy, Nguyễn Xuân Trường, Nguyễn Xuân Hoa, Hoàng Thị Thanh (2017), “Một số yếu tố liên quan đến thời điểm phát hiện sớm khuyết tật ở trẻ dưới 6 tuổi tại huyện Hoài Đức – Hà nội năm 2014”, Tạp chí phục hồi chức năng, số 2 - 6/2017, tr 59 – 62.
File đính kèm:
tom_tat_luan_an_danh_gia_tac_dong_cua_mo_hinh_tang_cuong_pha.pdf

