Tóm tắt luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh tay-chân-miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm lây từ người sang

người, do vi rút đường ruột gây ra, bệnh thường gặp ở trẻ em (dưới 5 tuổi) với

các biểu hiện sốt (trên 37,5oC), biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng hoặc

bọng mụn nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, đầu gối. Bệnh có

thể lây theo đường tiêu hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, phỏng nước và

phân của trẻ nhiễm bệnh. Bệnh gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não,

màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát

hiện sớm và xử lý kịp thời.

Bệnh TCM đã gặp ở tất cả các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Úc,

Hungary, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam , nhưng tập

trung chủ yếu tại các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tại Việt Nam,

ca bệnh TCM đầu tiên được phát hiện vào năm 2003 và bệnh có xu hướng tăng

dần theo thời gian. Năm 2011, bệnh TCM bùng phát trên toàn quốc với số

người mắc và tử vong cao nhất từ trước đến nay và đã xuất hiện ở cả 63 tỉnh

thành phố, với 112.370 ca bệnh, trong đó có 169 ca tử vong, số ca tử vong tăng

gấp 6 lần so với năm 2010

pdf 27 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tóm tắt luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam

Tóm tắt luận án Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG 
LÊ THỊ LAN 
 HƯƠNG 
LÊ THỊ LAN HƯƠNG 
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CAN THIỆP 
CẢI THIỆN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG 
BỆNH TAY – CHÂN - MIỆNG CỦA BÀ MẸ CÓ CON DƯỚI TUỔI 
TẠI XÃ AN LÃO, BÌNH LỤC, HÀ NAM 
Chuyên ngành: Y tế công cộng 
Mã số chuyên ngành: 9720701 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG 
HÀ NỘI – 2018 
CÔNG TRÌNH NÀY ĐƯỢC HOÀN THÀNH 
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG 
Hướng dẫn khoa học: 
1. PGS. TS. Lê Thị Tài 
2. GS. TS. Lê Thị Hương 
Phản biện 1: PGS.TS. Lê Thị Thanh Xuân 
Phản biện 2: TS. Lê Thị Thanh Hương 
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thị Ngọc Lan 
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ cấp 
Trường tại Trường Đại học Y tế Công cộng. Vào hồi 9 giờ 00 ngày 
04 tháng 07 năm 2018. 
Có thể tìm luận án tại: 
 - Thư viện Quốc gia. 
 - Thư viện trường Đại học Y tế Công cộng 
 - Viện Thông tin - Thư viện Y học Trung Ương. 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Lê Thị Lan Hương, Lê Thị Tài, Lê Thị Hương (2016). Kiến thức, thái 
độ, thực hành về bệnh tay chân miệng của người dân tại xã An Lão, Bình 
Lục, Hà Nam năm 2013. Tạp chí Y học Việt Nam, số 2-5/2016, tập 442, 
trang 232-237. 
2. Lê Thị Lan Hương, Lê Thị Tài, Lê Thị Hương, Nguyễn Văn Hiến 
(2016). Thay đổi về kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh tay chân miệng 
của bà mẹ có con dưới 5 tuổi sau hai năm can thiệp bằng truyền thông tại 
xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam. Tạp chí Y học Việt Nam, số 1-7/2016, tập 
444, trang 143-148. 
3. Lê Thị Lan Hương, Lê Thị Tài, Lê Thị Hương, Nguyễn Văn Hiến 
(2018). Sử dụng phương pháp DID để đánh giá hiệu quả can thiệp cải 
thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh Tay-chân-miệng của bà mẹ 
có con dưới 5 tuổi sau 2 năm can thiệp bằng truyền thông giáo dục sức 
khoẻ. Tạp chí Y học Việt Nam, số 2-7/2018, tập 468, Trang 73-78. 
1 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh tay-chân-miệng (TCM) là một bệnh truyền nhiễm lây từ người sang 
người, do vi rút đường ruột gây ra, bệnh thường gặp ở trẻ em (dưới 5 tuổi) với 
các biểu hiện sốt (trên 37,5oC), biếng ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng hoặc 
bọng mụn nước ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, vùng mông, đầu gối. Bệnh có 
thể lây theo đường tiêu hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, phỏng nước và 
phân của trẻ nhiễm bệnh. Bệnh gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não, 
màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát 
hiện sớm và xử lý kịp thời. 
Bệnh TCM đã gặp ở tất cả các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Úc, 
Hungary, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam, nhưng tập 
trung chủ yếu tại các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tại Việt Nam, 
ca bệnh TCM đầu tiên được phát hiện vào năm 2003 và bệnh có xu hướng tăng 
dần theo thời gian. Năm 2011, bệnh TCM bùng phát trên toàn quốc với số 
người mắc và tử vong cao nhất từ trước đến nay và đã xuất hiện ở cả 63 tỉnh 
thành phố, với 112.370 ca bệnh, trong đó có 169 ca tử vong, số ca tử vong tăng 
gấp 6 lần so với năm 2010. 
Hiện nay, bệnh TCM chưa có vắc xin dự phòng và thuốc điều trị đặc 
hiệu, việc điều trị chủ yếu là điều trị triệu chứng và biến chứng, do vậy, kiến 
thức, thực hành của các bà mẹ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phòng 
bệnh TCM. Với câu hỏi kiến thức và thực hành phòng bệnh TCM của các bà 
mẹ có con dưới 5 tuổi tại huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam như thế nào? những 
giải pháp can thiệp nào có thể cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM 
của những bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại đây? Để trả lời các câu hỏi này chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, 
thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam” với 2 mục tiêu: 
1. Mô tả kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà 
mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và Đồn Xá, huyện Bình Lục, Hà 
Nam năm 2013. 
2. Đánh giá kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống 
bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, huyện 
Bình Lục, Hà Nam năm 2015. 
2 
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 
Để phòng bệnh TCM, Bộ Y tế khuyến cáo người dân chủ động phòng 
bệnh, tuy nhiên trong thực tiễn, dịch bệnh TCM vẫn bùng phát ở một số địa 
phương, đặc biệt là những vùng có điều kiện vệ sinh môi trường chưa tốt. Cộng 
đồng nông thôn Hà Nam nói chung, xã An Lão nói riêng phát triển chăn nuôi 
rất mạnh, nhưng chưa giải quyết tốt vấn đề vệ sinh môi trường tạo điều kiện 
cho dịch bùng phát, trong đó có nguy cơ dịch bệnh TCM. 
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng là hoạt động nghiên cứu 
mang tính khoa học, có giá trị cao, kết quả đạt được thật sự là bằng chứng có 
sức thuyết phục đối với các nhà khoa học và các nhà quản lý. Hoạt động can 
thiệp dựa trên nguồn lực sẵn có từ hệ thống y tế cơ sở, cá nhân và sự tham gia 
của cộng đồng là chính, nên đảm bảo sự duy trì và tính bền vững. 
Đề tài chứng minh được hiệu quả can thiệp TT-GDSK trên toàn cộng 
đồng. Về can thiệp đã có cái mới là đa kênh, đa hình thức về truyền thông và có 
sự giám sát của hệ thống y tế, đánh giá được kiến thức, thực hành của bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi trong việc phòng bệnh TCM. Đây là cơ sở và là bằng chứng 
khoa học giúp cho các nhà quản lý vận dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn 
để nâng cao hiệu quả hoạt động của chương trình dự phòng, phòng bệnh TCM 
cho cộng đồng. 
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích DID (Difference in 
Difference) để đánh giá hiệu quả can thiệp về kiến thức/thực hành phòng chống 
bệnh TCM. Đây là một phương pháp mới trong đánh giá hiệu quả can thiệp khi 
không cùng cỡ mẫu trước và sau can thiệp. 
Bố cục của luận án: Luận án gồm 123 trang, 21 bảng, 09 biểu đồ, 05 sơ 
đồ và 109 tài liệu tham khảo, trong đó có 59 tài liệu bằng tiếng Anh. Đặt vấn đề 
gồm 2 trang, tổng quan tài liẹ ̂u 33 trang, đối tượng và phu ̛ơng pháp nghiên cứu 
21 trang, kết quả nghiên cứu 38 trang, bàn luận 26 trang, kết luận 1 trang và 
khuyến nghị 1 trang. 
Chương 1 
 TỔNG QUAN 
1.1. Giới thiệu về bệnh tay-chân-miệng 
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) – bệnh TCM là một bệnh truyền 
nhiễm lây từ người sang người, do các vi rút thuộc nhóm đường ruột gây ra. 
Bệnh thường gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi với các biểu hiện sốt (trên 37,50C), biếng 
ăn, mệt mỏi, đau họng, loét miệng hoặc bọng nước ở lòng bàn tay, lòng bàn 
chân, vùng mông, đầu gối. Hầu hết các trường hợp là tự khỏi, mà không cần 
điều trị. Một tỷ lệ ít các trường hợp có thể nặng và biểu hiện triệu chứng thần 
3 
kinh như viêm màng não, viêm não hoặc liệt do Enterovirus gây ra. Bệnh 
thường xảy ra quanh năm và có xu hướng theo mùa (tháng 3-5 và tháng 9-12). 
Bệnh TCM lây theo đường tiêu hóa, nguồn lây trực tiếp từ nước bọt, 
phỏng nước và phân của trẻ nhiễm bệnh, hoặc gián tiếp qua nước, thực phẩm, 
tay bẩn bị nhiễm phân của người bệnh. 
Để chủ động phòng bệnh TCM, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực 
hiện 6 biện pháp: Rửa tay thường xuyên với xà phòng, thực hiện tốt vệ sinh ăn 
uống, vệ sinh bề mặt, dụng cụ tiếp xúc, sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, không 
cho trẻ tiếp xúc với trẻ bệnh và cần đưa trẻ đi khám khi nghi ngờ trẻ mắc bệnh. 
1.2. Hoạt động truyền thông phòng bệnh tay-chân-miệng 
Truyền thông giáo dục sức khoẻ (TT-GDSK) là một trong những nhiệm 
vụ quan trọng trong công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, góp phần giúp mọi 
người chủ động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Trong việc phòng bệnh TCM tại 
cộng đồng, thực hiện TT-GDSK là không thể thiếu, dựa vào những hoạt động 
TT-GDSK để giúp các bà mẹ biết kiến thức về bệnh và thực hành phòng bệnh 
TCM thông qua truyền thông trực tiếp và truyền thông gián tiếp. 
Bệnh TCM hiện nay chưa có vắc xin phòng bệnh và thuốc điều trị đặc 
hiệu, do vậy, để phòng bệnh TCM cho cộng đồng, một trong những hoạt động 
thiết yếu cần ưu tiên phối hợp liên ngành thực hiện là TT-GDSK, các CBYT, 
tuyên truyền viên, lãnh đạo cộng đồng là những người phải có kiến thức tốt về 
bệnh TCM và thực hành đúng các hành vi phòng bệnh TCM đồng thời cần phải 
thực hiện các hoạt động TT-GDSK đến tất cả các đối tượng trong cộng đồng, 
ưu tiên bà mẹ có con dưới 5 tuổi và người trực tiếp chăm sóc trẻ. Nội dung TT-
GDSK phòng bệnh chống TCM cho người dân, cần cụ thể, rõ ràng dễ đọc, dễ 
hiểu và có khả năng thực hiện. Các nội dung này bao gồm kiến thức bệnh TCM 
như biểu hiện của bênh, đường lây truyền... và thực hành phòng bệnh TCM 
như: rửa tay bằng xà phòng, thực hiện ăn chín, uống chín, thu gom rác thải, 
phân của trẻ đổ nhà tiêu hợp vệ sinh ...., giúp cho người dân thay đổi được các 
thói quen, lối sống, thực hành các hành vi có lợi, hạn chế hành vi có hại ảnh 
hưởng đến sức khoẻ và tránh sự lây lan của bệnh trong cộng đồng. 
Đẩy mạnh công tác TT–GDSK phòng bệnh TCM là một chiến lược quan 
trọng giúp mọi người dân, cụ thể là các bà mẹ chủ động phòng chống dịch bệnh 
nói chung và bệnh TCM nói riêng, từ đó có cách nhìn nhận vấn đề sức khoẻ 
đúng đắn và hành động thích hợp. Để đảm bảo thành công trong các chương 
trình TT-GDSK trong phòng bệnh TCM, không chỉ ngành y tế mà các cấp 
chính quyền, ban ngành, đoàn thể cần phải tham gia vào hoạt động TT-GDSK. 
4 
1.3. Một số nghiên cứu can thiệp phòng chống bệnh tay-chân-miệng trên 
thế giới và Việt Nam 
Các chương trình phòng chống bệnh TCM tại cộng đồng đã được triển 
khai tại nhiều quốc gia. Các chương trình này có nhiều điểm tương đồng, bao 
gồm những nội dung chính: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ sinh cơ bản thông qua 
chiến dịch truyền thông sâu rộng; xây dựng và củng cố hệ thống giám sát dịch; 
hỗ trợ cho trường học và các cơ sở chăm sóc trẻ; phổ biến những yếu tố nguy 
cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp thực hành phòng bệnh. Các nghiên cứu 
đã có nhiều cách tiếp cận và nhiều biện pháp khác nhau để phòng bệnh TCM, 
triển khai các chương trình phòng bệnh TCM tại cộng đồng ở nhiều quốc gia 
như Trung Quốc, Singapore..., nội dung chính gồm: Giáo dục vệ sinh tốt và vệ 
sinh cơ bản thông qua chiến dịch truyền thông sâu, rộng; Xây dựng và củng cố 
hệ thống giám sát dịch; hỗ trợ cho trường học và các cơ sở chăm sóc ban ngày; 
Phổ biến những yếu tố nguy cơ của bệnh; tuyên truyền các biện pháp thực hành 
phòng bệnh, các nghiên cứu đều đạt kết quả tốt trong quá trình thực hiện. 
Một số can thiệp YTCC hiệu quả đã được áp dụng phòng chống bệnh 
TCM tại Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông và đu ̛ợc WHO khuyến cáo như: 
thiết lập hệ thống giám sát và cảnh báo dịch sớm, thu ̛ờng xuyên; triển khai các 
chiến dịch truyền thông; triển khai các chiến dịch vẹ ̂ sinh, rửa tay bằng xà 
phòng, chủ động xây dựng kế hoạch, chính sách phòng bệnh TCM. 
Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 581/QĐ-BYT ngày 
24/2/2012 hướng dẫn “Giám sát và phòng bệnh TCM” nhằm tuyên truyền cho 
người dân các nội dung: Nguy cơ mắc bệnh; đường lây truyền; các triệu chứng 
của bệnh và những dấu hiệu bệnh chuyển nặng để người dân chủ động phòng 
bệnh, có thể phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh và đưa đến cơ sở y tế kịp 
thời; không để bệnh lây lan ra cộng đồng; Thực hiện 3 sạch: Ăn sạch, ở sạch, 
bàn tay và chơi đồ chơi sạch. Do vậy, cần có những nghiên cứu can thiệp tiếp 
theo, xây dựng mạng lưới truyền thông, huy động sự tham gia của cộng đồng để 
phòng chống dịch bệnh được tốt hơn. 
1.4. Khung lý thuyết nghiên cứu 
Cơ sở xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu: 
Kết quả tổng quan các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam cho thấy 
việc phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi phụ thuộc kiến thức 
của các bà mẹ. Kết quả này phù hợp với nguyên lý mà mô hình niềm tin sức 
khoẻ đưa ra. Bên cạnh các yếu tố thuộc về cá nhân, thì những yếu tố tác động từ 
5 
môi trường xung quanh như gia đình, cộng đồng cũng ảnh hưởng đến việc 
phòng bệnh TCM. 
Từ những phân tích trên, chúng tôi đã xây dựng khung lý thuyết cho 
nghiên cứu này dựa trên sự kết hợp từ 2 mô hình lý thuyết, đó là: mô hình lý 
thuyết thay đổi hành vi là Mô hình niềm tin sức khoẻ để phân tích các yếu tố 
ảnh hưởng đến hành vi sức khỏe từ đó xác định yếu tố có thể can thiệp, và mô 
hình lý thuyết về truyền thông là Mô hình chiến lược truyền thông để xác định 
đối tượng, nội dung, phương pháp truyền thông phù hợp. 
Sơ đồ 1.1: Khung lý thuyết nghiên cứu. 
6 
Chương 2 
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
2.1.1. Thời gian nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện từ: 6/2013 - 12/2015 gồm 2 giai đoạn: 
+ Giai đoạn 1: Điều tra, đánh giá thực trạng và xây dựng kế hoạch can 
thiệp: 6/2013 – 12/2013. 
+ Giai đoạn 2: Giai đoạn can thiệp (7/2014 – 12/2015) và đánh giá sau 
can thiệp (01/2016). 
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện tại 2 xã thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam: 
xã An Lão (xã can thiệp) và xã Đồn Xá (xã đối chứng). 
2.2. Đối tượng nghiên cứu 
x Đối tượng nghiên cứu định lượng: Bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An 
Lão và xã Đồn Xá của huyện Bình Lục, Hà Nam. 
x Đối tượng nghiên cứu định tính: CBYT, đại diện cán bộ chính quyền và 
một số ban/ngành của huyện, xã, đại diện bà mẹ có con dưới 5 tuổi. 
2.3. Phương pháp nghiên cứu 
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện theo hai giai đoạn. 
- Giai đoạn 1: Nghiên cứu cắt ngang nhằm mô tả thực trạng kiến thức, thực 
hành phòng bệnh TCM của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và Đồn 
Xá. 
- Giai đoạn 2: Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có nhóm chứng, để đánh giá 
thay đổi kiến thức, thực hành phòng chống bệnh TCM của bà mẹ có có 
dưới 5 tuổi. 
2.3.2. Mẫu nghiên cứu 
2.3.2.1. Cỡ mẫu 
¾ Cỡ mẫu cho mục tiêu 1 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng: 
Đề tài này là một phần của đề tài cấp nhà nước “Nghiên cứu thực trạng, 
xây dựng mô hình dự báo, kiểm soát một số nhóm bệnh có liên quan đến biến 
đổi khí hậu ở Việt Nam” mã số ĐTĐL.2012- G/32. Từ những người được 
phỏng vấn của mỗi xã chúng tôi chỉ lấy bà mẹ có con dưới 5 tuổi để phân tích 
mô tả thực trạng kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM. Kết quả có 105 bà mẹ 
có con dưới 5 tuổi ở xã An Lão và 91 bà mẹ có con dưới 5 tuổi ở xã Đồn Xá 
được đưa vào phân tích. 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định tính: 
7 
- Tuyến huyện: Thực hiện 02 cuộc phỏng vấn sâu và 01 cuộc thảo luận nhóm 
- Tuyến xã: Thực hiện 04 cuộc phỏng vấn sâu và 06 cuộc thảo luận nhóm. 
¾ Cỡ mẫu cho mục tiêu 2 
* Cỡ mẫu cho nghiên cứu định lượng: 
Trong đó: 
n1: Cỡ mẫu cho nhóm chứng, n2: Cỡ mẫu cho nhóm can th ...  95%CI for EXP(B) Lower Upper 
(β0) Hằng số -3,379 0,000 0,034 
(β1) Thời gian -0,112 0,880 0,89 0,21 3,83 
(β2) Can thiệp 0,383 0,607 1,47 0,34 6,31 
(β3) Tương tác 
(Thời gian * can thiệp) 6,078 0,000 436,10 68,48 777,11 
* p của mô hình <0,05. 
Phương trình hồi quy logistic đa biến: 
Thực hành = 0,383*Can thiệp - 0,112*Thời gian + 6,078*Tương tác – 3,379 
Nhận xét: Có sự khác biệt về thực hành phòng chống bệnh TCM trước và sau 
can thiệp với p(tương tác)<0,05. Sau can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có 
thực hành phòng chống bệnh TCM cao gấp 436,10 lần so với nhóm chứng có ý 
nghĩa thống kê với 95%CI: 68,480 – 777,11. 
3.3.4. Khả năng duy trì và nhân rộng các hoạt động can thiệp 
Người dân ủng hộ, tích cực tham gia, được CBYT xã An Lão đánh giá cao. 
Đây là một điểm quan trọng để có thể duy trì và nhân rộng các hoạt động can thiệp. 
Các hoạt động can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM 
của chúng tôi là một phần của Mô hình kiểm soát một số nhóm bệnh liên quan 
20 
đến biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng đã được Trung tâm y tế huyện Bình 
Lục gửi công văn nhân rộng mô hình kiểm soát dịch bệnh kiên quan đến biến 
đổi khí hậu tại các xã/thị trấn trong huyện. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân xã An 
Lão cũng ra quyết định thành lập Nhóm Hành động Ứng phó nhanh với dịch 
bệnh liên quan đến biến đổi khí hậu trong đó có bệnh TCM để khẳng định các 
hoạt động can thiệp tại xã An Lão có hiệu quả, được cộng đồng đánh giá cao. 
Chương 4 
BÀN LUẬN 
4.1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi tại xã An Lão và xã Đồn Xá, huyện Bình Lục, Hà Nam năm 
2013 và một số yếu tố liên quan 
Kiến thức về bệnh và phòng TCM của các ĐTNC chưa được tốt (bảng 3.3, 
bảng 3.4, bảng 3.5), các bà mẹ chưa có kiến thức đầy đủ về bệnh TCM cũng 
như về nguồn lây bệnh, đường lây truyền, dấu hiệu nhận biết bệnh và các biện 
pháp phòng bệnh. Trong bảng 3.6, bảng 3.7 cho thấy, việc thực hành các biện 
pháp phòng bệnh của ĐTNC chưa được toàn diện, việc lau rửa vẹ ̂ sinh sàn nhà, 
đồ chơi, đồ dùng, của trẻ hàng ngày chu ̛a được các bà mẹ quan tâm thực hiẹ ̂n. 
Vì vậy, trong các hoạt động can thiệp, cần tập trung công tác tuyên truyền, tập 
huấn bổ sung kiến thức cho các bà mẹ để các bà mẹ biết đầy đủ kiến thức về 
bệnh TCM, để các bà mẹ chủ động trong việc phòng bệnh cho con mình, sớm 
phát hiện bệnh kịp thời, tránh để bệnh TCM chuyển nặng, gây tử vong ở trẻ. 
Các bà mẹ cũng mong muốn tìm hiểm về bệnh TCM qua ti vi, qua CBYT, 
và qua tờ rơi, do vậy cần phải nâng cao kiến thức phòng bệnh TCM cho các 
CBYT và kỹ năng TT-GDSK, đồng thời thiết kế tờ rơi rõ ràng, dễ hiểu, thu hút. 
Trên cơ sở chấm điểm để đánh giá kiến thức, thực hành phòng bệnh TCM 
của bà mẹ có con dưới 5 tuổi, kết quả biểu đồ 3.4 cho thấy có mối liên quan 
tuyến tính giữa điểm kiến thức về bệnh TCM với điểm thực hành phòng bệnh 
TCM cho trẻ của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Những bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
có kiến thức phòng bệnh TCM tốt có xu hướng thực hành phòng bệnh TCM tốt 
ho ̛n so với những bà mẹ có kiến thức chu ̛a tốt. Vì vậy, cần quan tâm tuyên 
truyền kiến thức về bệnh, phòng bệnh TCM đến các bà mẹ có con nhỏ nói 
chung, và bà mẹ có con dưới 5 tuổi nói riêng, kiến thức phòng bệnh TCM của 
các bà mẹ tốt sẽ thực hành phòng bệnh được tốt hơn. Đồng thời, cần quan tâm 
hơn đối với các bà mẹ là nông dân, những bà mẹ có học vấn thấp và những bà 
mẹ thuộc hộ nghèo vì trong nghiên cứu này họ có kiến thức, thực hành phòng 
bệnh TCM thấp hơn những bà mẹ khác. 
21 
4.2. Kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng bệnh tay-chân-
miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam năm 
2015 
4.2.1. Các hoạt động can thiệp đã được thực hiện 
* Xây dựng mạng lưới TT-GDSK: Chúng tôi đã xây dựng được mạng lưới TT-
GDSK, thành lập được ban chỉ đạo tuyến huyện, tuyến xã và phân công trách nhiệm 
cho người tham gia TT-GDSK phòng bệnh TCM tại cộng đồng. Đây là một nhân tố rất 
quan trọng, nếu không có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền thì cũng sẽ rất 
khó huy động được cộng đồng tham gia. 
* Kết quả phát triển tài liệu truyền thông: Qua các cuộc phỏng vấn sâu và 
thảo luận nhóm với cán bộ y tế, ban chỉ đạo huyẹ ̂n, ngu ̛ời dân, bà mẹ có con 
dưới 5 tuổi. Tài liệu đã được các ĐTNC đánh giá cao về giá trị nội dung, rất có 
ích, viết ngắn gọn, rõ ràng, đọc rất dễ hiểu. Cuốn tài liệu này rất phù hơp cho 
ngu ̛ời dân và người làm công tác tuyên truyền. 
* Kết quả tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ y tế. 
Trong quá trình can thiệp chúng tôi đã tổ chức tập huấn cho các CBYT 
kiến thức về bệnh và cách phòng bệnh TCM, kỹ năng TT-GDSK, kỹ năng tư 
vấn sức khoẻ. Sau 18 tháng can thiệp, qua các cuộc phỏng vấn sâu lãnh đạo 
cộng đồng, thảo luận nhóm CBYT huyẹ ̂n, CBYT xã/thôn và thảo luận nhóm 
của người dân, các ý kiến đều cho rằng: Cán bộ tham gia đề tài đã được học tập 
về kiến thức, kỹ na ̆ng truyền thông nên đã áp dụng vào công việc của mình tốt, 
họ tự tin và chủ động ho ̛n trong hoạt động TT-GDSK, biết kết hợp lồng ghép 
hoạt động phòng bệnh TCM với các hoạt động y tế khác ở địa phương. 
* Kết quả thực hiện TT-GDSK. 
Các ý kiến đều cho rằng hoạt động TT-GDSK là phù hợp và được người dân 
chấp nhận, ủng hộ. Sự phù hợp của hoạt động can thiệp còn thể hiện ở chỗ các hoạt 
động TT-GDSK đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay trong phong trào xây dựng nông 
thôn mới, thu hút được chính quyền và nhiều ban ngành, đoàn thể tham gia. Trong 
các hoạt động can thiệp tại xã An Lão, chúng tôi quan tâm đến hoạt động TT-
GDSK cho cộng đồng, coi đây là hoạt động can thiệp cốt lõi của nghiên cứu. 
Bên cạnh những tác động tích cực đến người dân, các can thiệp cũng ảnh 
hưởng tích cực đến các nhà quản lý tại địa phương. Nhiều hoạt động chỉ đạo cụ thể 
của chính quyền xã, thôn đã tác động đến người dân theo nhiều kênh thông tin, 
giúp người dân nhớ được những kiến thức về bệnh và thường xuyên có các việc 
làm cụ thể, góp phần phòng chống bệnh tật nói chung và bệnh TCM nói riêng. 
4.2.2. Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức, thực hành phòng chống bệnh 
tay-chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi 
x Hiệu quả can thiệp thay đổi kiến thức phòng chống bệnh tay-chân-
miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi. 
22 
Sau thời gian can thiệp, sự thay đổi kiến thức về bệnh TCM của ĐTNC đã 
cho kết quả rõ rệt, kết quả này phần nào đã thể hiện các hoạt động TT-GDSK 
được thực hiện là phù hợp. Các hoạt động can thiệp đã được ĐTNC tích cực 
hưởng hứng thể hiện thông qua hiểu biết kiến thức của bệnh (bảng 3.13, bảng 
3.14, bảng 3.15). ĐTNC không chỉ quan tâm đến các biểu hiện của bệnh rõ ràng 
mà còn quan tâm đến các biểu hiện sớm, để có biện pháp xử trí kịp thời, tránh 
bệnh trầm trọng. Kết quả này cũng cho thấy hiệu quả của chương trình can 
thiệp phòng bệnh TCM tại xã An Lão, các bà mẹ có kiến thức phòng bệnh 
TCM tốt sẽ thực hành phòng bệnh TCM tốt hơn. 
Như vậy hoạt động can thiệp phòng bệnh TCM của đề tài tại xã An Lão đã 
đạt được kết quả nhất định, kiến thức về bệnh TCM đã tăng lên đáng kể so với 
trước can thiệp và so với nhóm chứng. Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức chung về bệnh 
TCM đạt của xã can thiệp là 97,6% cao hơn nhiều so với trước can thiệp là 
5,7%, hiệu quả can thiệp đạt 1900%, tuy nhiên vẫn còn 2,4% bà mẹ có kiến 
thức về bệnh TCM chưa đạt, do vậy các hoạt động can thiệp tại xã tiếp tục phải 
được đẩy mạnh và duy trì thường xuyên, việc phòng bệnh tại địa phương được 
tốt hơn. Để phòng bệnh TCM, ngoài việc biết kiến thức về bệnh thì các bà mẹ 
cần phải biết các dấu hiệu bệnh TCM chuyển nặng là rất quan trọng, vì trẻ có 
những dấu hiệu này sẽ được đưa đến bẹ ̂nh viện sớm để theo dõi và điều trị kịp 
thời, giúp giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong ở trẻ. 
x Hiệu quả can thiệp thay đổi thực hành phòng chống bệnh tay-chân-
miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi. 
Sau can thiệp, tỷ lệ ĐTNC thực hành các biện pháp phòng bệnh tăng lên ở 
cả hai xã nhưng xã can thiệp tăng nhiều hơn so với xã đối chứng và so với trước 
can thiệp (bảng 3.16, bảng 3.17). Tỷ lệ ĐTNC có thực hành chung về bệnh 
TCM đạt của xã can thiệp là 95,6% cao hơn nhiều so với trước can thiệp là 
4,8%, hiệu quả can thiệp đạt 1918,9%. Sự vào cuộc của các cấp chính quyền, 
của các lãnh đạo cộng đồng và của người dân, đặc biệt là các bà mẹ có con dưới 
5 tuổi của chương trình can thiệp đã tác động đến hành vi của người dân, đặc 
biệt là bà mẹ có con dưới 5 tuổi, họ đã chủ động trong việc phòng bệnh cho gia 
đình và cộng đồng, tránh sự lây lan của bệnh. 
Dựa vào phân tích DID, kết quả (bảng 3.18, bảng 3.19) cho thấy các hoạt 
động can thiệp tiến hành tại xã An Lão có hiệu quả, cải thiện kiến thức, thực 
hành phòng bệnh TCM của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Sau can thiệp, khả 
năng nhóm can thiệp có kiến thức phòng bệnh TCM cao gấp 320,32 lần so với 
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với 95%CI: 42,295 - 425,95. Sau can thiệp, 
khả năng nhóm can thiệp có thực hành phòng chống bệnh TCM cao gấp 436,10 
lần so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với 95%CI: 68,480 – 777,11. 
4.2.3. Khả năng duy trì và nhân rộng hoạt động can thiệp 
Hoạt động TT-GDSK đã làm thay đổi kiến thức, thực hành của đối tu ̛ợng 
23 
tham gia nghiên cứu trong đó có CBYT. Với kết quả thảo luận nhóm trong ban 
chỉ đạo huyẹ ̂n Bình Lục cũng nhu ̛ lãnh đạo ban ngành của xã An Lão đã đánh 
giá cao giá trị của đề tài và mong muốn tiếp tục mở rộng hoạt động TT-GDSK 
và khẳng định hoạt động TT-GDSK có thể duy trì được. 
Chúng tôi cho rằng, để duy trì các hoạt động can thiệp ở xã An Lão và mở 
rộng ra các xã khác cần tiếp tục đẩy mạnh TT-GDSK, hướng dẫn cộng đồng 
hành động. Mặt khác không thể thiếu sự chỉ đạo của chính quyền, ngành y tế và 
sự tham gia của các ban, ngành, đoàn thể để duy trì bền vững các hoạt động can 
thiệp phòng chống dịch bệnh trong đó có bệnh TCM. 
4.3. Ưu điểm và hạn chế của đề tài 
Đề tài này là một phần của đề tài cấp nhà nước, đã nhận được sự ủng hộ 
nhiệt tình và hỗ trợ của các cấp chính quyền địa phương và người dân, cùng với 
sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ y tế từ tỉnh, huyện, xã đến thôn xóm 
nên các hoạt động can thiệp đều được triển khai đúng tiến độ. 
Đề tài sử dụng một phần số liệu của đề tài cấp Nhà nước, cỡ mẫu điều tra 
ban đầu được lấy từ đề tài cấp Nhà nước, do vậy cỡ mẫu điều tra ban đầu nhỏ 
hơn cỡ mẫu đánh giá sau can thiệp, đồng thời chúng tôi không thực hiện đánh 
giá nhiều lần trong quá trình can thiệp để giám sát và hiệu chỉnh cho can thiệp 
mà chỉ thực hiện được đánh giá trước can thiệp và sau 18 tháng can thiệp. Tuy 
nhiên, chúng tôi điều tra kiến thức, thực hành của các hộ gia đình trước can 
thiệp trong đó có cả bà mẹ có con dưới 5 tuổi. Trong quá trình chúng tôi thực 
hiện can thiệp, không có một nghiên cứu, cũng như hoạt động can thiệp khác 
nào được thực hiện tại xã An Lão. 
Khi đánh giá thực hành của bà mẹ có con dưới 5 tuổi, chúng tôi chỉ khảo 
sát ý kiến của bà mẹ thông qua bộ câu hỏi, không quan sát được thực hành của 
các bà mẹ. Điều này chúng tôi đã khắc phục trong khi thiết kế bộ câu hỏi phỏng 
vấn các bà mẹ, những câu hỏi mang tính chất nhớ lại, chúng tôi có những câu 
hỏi kiểm tra chéo thông tin. 
KẾT LUẬN 
1. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-chân-miệng của bà mẹ có 
con dưới 5 tuổi ở xã An Lão và xã Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam năm 2013. 
Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh TCM năm 2013 của bà mẹ có con dưới 
5 tuổi rất hạn chế. Không có sự khác biệt giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng. 
Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi có kiến thức về bệnh và phòng chống bệnh 
TCM đạt chỉ 5,7%, không đạt chiến 94,3%. Tỷ lệ bà mẹ có con dưới 5 tuổi có 
thực hành phòng bệnh TCM đạt chỉ chiếm 4,8%, không đạt chiếm 95,2%. 
2. Kết quả can thiệp cải thiện kiến thức, thực hành phòng chống bệnh tay-
chân-miệng của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại xã An Lão, Bình Lục, Hà Nam 
năm 2015 
24 
Hoạt động can thiệp được thực hiện tại xã An Lão, huyện Bình Lục, tỉnh 
Hà Nam đã thu hút được sự tham gia của chính quyền, ban ngành, đoàn thể 
trong việc phòng chống bệnh TCM. Kiến thức, thực hành phòng chống bệnh 
TCM sau can thiệp của bà mẹ có con dưới 5 tuổi tăng lên đáng kể, khác biệt có 
ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức mức đạt về bệnh và phòng bệnh 
TCM sau can thiệp đạt chiếm 97,6%. kiến thức đạt tăng thêm 91,9% so với 
trước can thiệp. Tỷ lệ ĐTNC thực hành phòng chống bệnh TCM mức đạt của 
các bà mẹ chiếm 95,6%, thực hành đạt tăng thêm 90,8% so với trước can thiệp. 
Dựa vào phân tích DID, sau can thiệp, khả năng nhóm can thiệp có kiến 
thức phòng chống bệnh TCM cao gấp 320,32 lần so với nhóm chứng có ý nghĩa 
thống kê với p<0.05; Khả năng nhóm can thiệp có thực hành phòng chống bệnh 
TCM cao gấp 436,10 lần so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0.05. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng: cần duy trì và mở rộng các hoạt động 
can thiệp TT-GDSK, huy động nguồn lực của cộng đồng và nâng cao nâng lực 
cho cộng đồng. Các hoạt động can thiệp phòng chống bệnh TCM có khả năng 
duy trì và nhân rộng ra các xã khác của huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, phù hợp 
với tiêu chí xây dựng nông thôn mới hiện nay. 
KHUYẾN NGHỊ 
Đối với các bà mẹ: 
1. Duy trì các hoạt động phòng bệnh TCM đã thực hiện tại địa phương và áp 
dụng thực hiện tốt, thường xuyên, đầy đủ các biện pháp phòng bệnh TCM 
khi chăm sóc trẻ. 
2. Chủ động và tích cực tham gia các hoạt động hướng dẫn phòng bệnh TCM 
do địa phương tổ chức. Tích cực tham gia tuyên truyền cho gia đình, bạn 
bè, cộng đồng phòng bệnh TCM. 
Đối với chính quyền, CBYT, ban ngành đoàn thể liên quan: 
1. Tăng cường công tác TT-GDSK trên các phương tiện thông tin đại chúng 
về nguồn lây bệnh, biểu hiện của bệnh và các biện pháp phòng chống TCM 
tại cộng đồng. 
2. CBYT xã An Lão cần tiếp tục tăng cường lồng ghép thực hiện các hoạt 
động TT-GDSK, góp phần quan trọng trong kiểm soát bệnh TCM. Tập 
huấn nâng cao trình độ cho CBYT công tác phòng chống bệnh TCM và đội 
ngũ cộng tác viên, kỹ năng truyền thông cho cộng đồng. 
3. Chính quyền UBND xã An Lão cần tiếp tục chỉ đạo, tăng cường sự phối 
hợp các ban ngành, đoàn thể để duy trì và nhân rộng các kết quả can thiệp 
đã đạt được tại xã. 
4. Trung tâm y tế huyện Bình Lục cần có kế hoạch tiếp tục hỗ trợ trạm y tế xã 
trong việc duy trì hoạt động TT-GDSK tại xã An Lão và mở rộng hoạt động 
TT-GDSK sang các xã khác trong huyện Bình Lục. 

File đính kèm:

  • pdftom_tat_luan_an_danh_gia_ket_qua_can_thiep_cai_thien_kien_th.pdf