Tối ưu hóa Isoflavone đậu nành trong điều trị mãn kinh
Thời kỳ chuyển tiếp đến mãn kinh có thể gây ra một số triệu chứng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống sau này. Các triệu chứng khó chịu nhất là cơn bốc hỏa/ra mồ hôi vào ban đêm. Isoflavone từ đậu nành là một lựa chọn điều trị các triệu chứng mãn kinh đặc biệt là cơn bốc hỏa. Dựa trên các nghiên cứu khoa học gần đây, người ta đã có sự hiểu biết tốt hơn về Isoflavone đậu nành để có thể dùng đúng hoạt chất này nhằm đem lại hiệu quả tối ưu đồng thời đảm bảo độ an toàn
Bạn đang xem tài liệu "Tối ưu hóa Isoflavone đậu nành trong điều trị mãn kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tối ưu hóa Isoflavone đậu nành trong điều trị mãn kinh
18 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Tối ưu hóa Isoflavone đậu nành trong điều trị mãn kinh Hoàng Anh Thư* * BS. Khoa Sinh lý bệnh & Sinh học - Trường Đại Học Deakin, Australia DĐ: 090 3433715- Email: [email protected] Thời kỳ chuyển tiếp đến mãn kinh có thể gây ra một số triệu chứng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống sau này. Các triệu chứng khó chịu nhất là cơn bốc hỏa/ra mồ hôi vào ban đêm. Isoflavone từ đậu nành là một lựa chọn điều trị các triệu chứng mãn kinh đặc biệt là cơn bốc hỏa. Dựa trên các nghiên cứu khoa học gần đây, người ta đã có sự hiểu biết tốt hơn về Isoflavone đậu nành để có thể dùng đúng hoạt chất này nhằm đem lại hiệu quả tối ưu đồng thời đảm bảo độ an toàn. Mối liên quan giữa estrogen và các triệu chứng tiền mãn kinh, mãn kinh Các triệu chứng liên quan tới mãn kinh được tin là phát sinh do ngừng tiết estrogen, tuy nhiên sự biến thiên nồng độ của estrogen trong thời kỳ tiền mãn kinh cũng gây ra các triệu chứng này. Sự thay đổi hoạt động của estrogen gây ảnh hưởng một cách có hệ thống vì nhiều chức năng trong cơ thể được điều chỉnh bởi sự hoạt hóa các thụ thể estrogen, gồm điều hòa thân nhiệt, cân bằng dẫn truyền thần kinh, ổn định cảm xúc, cân bằng lipid máu, tiết melatonin, hệ opioid trung ương và trục dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận (HPA). Estrogen cũng cần cho phát triển cấu trúc và chức năng của các mô bao gồm xương, vú, âm đạo và tử cung. Để có tác dụng làm giảm các triệu chứng mãn kinh, vấn đề chính là tăng và điều hòa hoạt động của estrogen. Điều hòa hoạt động của estrogen là một yếu tố quan trọng, giúp hạn chế ảnh hưởng của sự thay đổi thất thường nồng độ estrogen đồng thời phòng ngừa tác dụng quá mức của estrogen, giảm thiểu các tác dụng phụ. Isoflavone đậu nành là gì? Isoflavone là một loại phytoestrogen (estrogen thực vật), là các hợp chất được chiết xuất từ thực vật có hoạt tính estrogen. Đậu nành (Glycine max) là một trong số những loại thực vật giàu isoflavone nhất. Đậu nành chứa ba loại isoflavone khác nhau ở dạng tự nhiên là các hợp chất glycoside: genistin, daidzin và glycitin. Khi các hợp chất này được lên men trong đường tiêu hóa, phân tử đường được loại bỏ và chúng chuyển hóa thành dạng hoạt động aglycone (dạng không đường): genistein, daidzein và glycitein. Điều này có nghĩa là hiệu quả của isoflavone bị ảnh hưởng bởi sự chuyển hóa của nó, tùy thuộc vào hoạt động của hệ vi khuẩn trong ruột non của người. - Genistein là isoflavone có hoạt tính sinh học cao nhất. - Daidzein đứng thứ hai trừ khi nó được chuyển hóa thành S-equol, dạng chuyển hóa cuối cùng của nó và là một hợp chất cạnh tranh với genistein trong gắn kết và hoạt động phiên mã. Người ta ước tính một phần ba số người có thể chuyển hóa đến S-equol do có đủ hệ vi khuẩn có ích cho quá trình chuyển hóa này. - Glycitein có tác dụng yếu nhất. Tối đa hóa hiệu quả là ưu tiên nhắm tới hàm lượng genistein và tiếp đến là daidzein/S-equol. Cơ chế tác dụng của Isoflavone đậu nành Isoflavone đậu nành có cấu trúc tương tự 17β-estradiol do đó Isoflavone đậu nành có khả năng gắn kết với các thụ thể estrogen 19 TỔNG QUAN Y VĂN và bắt đầu hoạt động phiên mã (hình 1). Isoflavone đậu nành có các đặc tính estrogen và kháng estrogen. Khi gắn vào thụ thể estrogen, Isoflavone đậu nành cho đáp ứng estrogen yếu hơn 17β-estradiol.Genistein có hoạt tính estrogen chỉ bằng 35% hoạt tính của 17β-estradiol. Ở tình trạng ngừng tiết estrogen (mãn kinh), Isoflavone đậu nành sẽ gắn kết với các thụ thể estrogen gây tăng hoạt tính của estrogen và giảm các triệu chứng (Hình 2). Ngược lại khi lượng estrogen ở mức cao (sự dao động nồng độ estrogen trong thời kì quanh mãn kinh hoặc tiền kinh nguyệt -PMS), Isoflavone đậu nành cạnh tranh gắn kết với thụ thể estrogen, ngăn cản 17β-estradiol cho một đáp ứng yếu hơn và giảm toàn diện hoạt tính của estrogen (hình 2). Isoflavone đậu nành - Lựa chọn điều trị an toàn các triệu chứng mãn kinh Isoflavone đậu nành và liệu pháp thay thế hormone (HRT) cùng chung một cơ chế là tăng hoạt động của estrogen để làm giảm các triệu chứng mãn kinh, nhưng có hai điểm khác biệt chính: - Isoflavone đậu nành còn có đặc tính kháng estrogen để điều hòa hoạt động của estrogen - Isoflavone đậu nành gắn kết chọn lọc với thụ thể phụ estrogen β (ERβ) hơn là thụ thể phụ estrogen α (ERα). Các yếu tố này làm cho Isoflavone đậu nành là một lựa chọn điều trị an toàn. Estrogen tổng hợp được sử dụng trong HRT không có đặc tính điều hòa kháng estrogen và có tác dụng trên cả thụ thể ERβ và ERα nên có thể dẫn đến nhiều tác dụng phụ và làm tăng nguy cơ bị ung thư. HRT có thể tăng nguy cơ bị ung thư vú và ung thư cổ tử cung do kích thích và hoạt hóa quá mức thụ thể ERα ở mô vú và tử cung làm bùng phát sự hình thành khối u. Isoflavone đậu nành chỉ cho tác dụng estrogen nhẹ nhưng quan trọng hơn, chúng có ái lực gắn kết với thụ thể ERβ nhiều hơn gấp 20-30 lần so với thụ thể ERα.11 Điều này có nghĩa là Isoflavone đậu nành hoạt hóa thụ thể ERβ làm giảm các triệu chứng mãn kinh và có ít hoặc không tương tác với thụ thể ERα. Phân tích 9.514 bệnh nhân bị ung thư vú cho thấy sử dụng đậu nành không có tác dụng phụ đối với mô vú.12 Điều thú vị nữa là sử dụng đậu nành làm giảm 25% sự xuất hiện khối u trong thời gian theo dõi hơn bảy năm. Sử dụng Isoflavone đậu nành như thế nào để có hiệu quả và an toàn? Sử dụng đủ liều: Một số nghiên cứu thiết kế mù đôi, có nhóm đối chứng cho thấy hiệu quả giảm các cơn bốc hỏa và ra mồ hôi vào ban đêm của isoflavone đậu nành mạnh hơn giả dược.1,2,5,6,7 (Hình 3) Isoflavone đậu nành cũng làm giảm đáng kể điểm Kupperman Index (KI) cho thấy hiệu quả làm giảm tất cả các triệu chứng mãn kinh của chúng.3,4,7 Hàm lượng Isoflavone đậu nành chủ yếu nằm trong khoảng từ 50 mg/ ngày đến 100 mg/ngày, tuy nhiên một nghiên cứu về liều phụ thuộc cho thấy liều 84 mg/ ngày có hiệu quả giảm điểm KI và tần số cơn bốc hỏa giống như liều 126 mg/ngày.7 Năm 2011, một phân tích gộp gồm 14 nghiên cứu lâm sàng cho thấy liều isoflavone đậu nành là 50 mg hoặc cao hơn trong một ngày làm giảm ý nghĩa tình trạng bốc hỏa.8 20 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Bên cạnh tác dụng cải thiện các triệu chứng thực thể, người ta còn quan tâm tới các lợi ích lâu dài của hoạt chất này đối với sức khỏe tim mạch cũng như phòng ngừa loãng xương ở giai đoạn tiền mãn kinh, mãn kinh. Một nghiên cứu phân tích gộp tiến hành năm 2008 gồm 10 nghiên cứu lâm sàng đánh giá hiệu quả của isoflavone đậu nành đối với mật độ xương cũng như mức độ khoáng hóa xương trên 608 phụ nữ mãn kinh.13 Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả giảm rõ mức độ mất xương, tăng khoáng hóa xương chỉ thấy ở liều dùng Isoflavone đậu nành ≥ 80 mg/ ngày. Tương tự như vậy, tác dụng làm giảm cholesterol toàn phần, triglyceride máu của isoflavone đậu nành cũng chỉ được ghi nhận rõ với mức liều ≥ 80 mg/ngày.14 Dựa vào các bằng chứng này, người ta cho rằng nên dùng tối thiều 80 mg isoflavone đậu nành mỗi ngày đối với phụ nữ tiền mãn kinh, mãn kinh để đạt hiệu quả cải thiện các triệu chứng thực thể đồng thời có lợi ích lâu dài bảo vệ tim mạch, phòng ngừa loãng xương. Sử dụng đúng Isoflavone đậu nành • Lựa chọn các loại Isoflavone đậu nành đã tiêu chuẩn hóa. Mỗi nhà sản xuất sẽ đưa ra tiêu chuẩn riêng cho loại Isoflavone được chiết xuất và tiến hành thử nghiệm lâm sàng trên loại Isoflavone đó để đưa ra được liều khuyến cáo sử dụng phù hợp nhất. Tiêu chuẩn của loại Isoflavone thường được dựa trên tỷ lệ daidzein: genistein, do đó người tiêu dùng cần chú ý khi lựa chọn các sản phẩm sử dụng để đạt hiệu quả như mong muốn. Một nghiên cứu đã chứng minh là hiệu quả của isoflavone đậu nành có thể được quyết định bởi lượng genistin/genistein.9 Trong một phân tích gộp gồm 11 nghiên cứu, có 5 nghiên cứu sử dụng hơn 15mg genistin/ein mỗi ngày cho thấy tác dụng giảm đáng kể các cơn bốc hỏa trong khi đó chỉ có một trong số sáu nghiên cứu sử dụng ít hơn 15mg mỗi ngày ghi nhận là 21 TỔNG QUAN Y VĂN có hiệu quả. Khi phân tích sâu hơn, người ta thấy sử dụng genistin/ein với hàm lượng trên mức trung bình 18,8mg/ngày làm giảm tần số cơn bốc hỏa hơn 2,3 lần so với các nghiên cứu sử dụng genistin/ein ở hàm lượng dưới mức trung bình.10 • Sử dụng đúng Sự chuyển hóa isoflavone đậu nành trong đường tiêu hóa thành dạng dễ hấp thu hơn, có hiệu quả tốt hơn phụ thuộc một loại vi khuẩn đặc biệt trong ruột non (probiotics) cũng như lượng chất xơ có trong chế độ ăn.15 Do vậy lời khuyên khi sử dụng isoflavone đậu nành là: - Bổ sung chất xơ, probiotics (ví dụ sữa chua) trong chế độ ăn - Nên uống vào một thời điểm nhất định trong ngày, nên uống vào buổi tối (có tác dụng hỗ trợ điều trị chứng mất ngủ trong giai đoạn tiền mãn kinh, mãn kinh). Kết luận Hiện nay xu hướng sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên đang định hướng nghiên cứu cho các nhà khoa học, bác sỹ và dược sỹ tăng cường tìm hiểu và phát triển nhiều giải pháp tự nhiên có lợi cho sức khỏe. Trong đó, Isoflavone đậu nành đang ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới với ứng dụng trong điều trị các vấn đề liên quan tới thời kỳ tiền mãn kinh, mãn kinh. Các nghiên cứu về Isoflavone đậu nành vẫn đang tiếp tục được thực hiện nhằm khẳng định về lợi ích của hoạt chất này. Tài liệu tham khảo 1. Cheng, G. et al., (2007) ‘Isoflavone treatment for acute menopausal symptoms.’ Menopause. 14(3 Pt 1): p. 468-73. 2. Faure, E.D. et al., (2002) ‘Effects of a standardized soy extract on hot flushes: a multicenter, double- blind, randomized, placebo-controlled study.’ Menopause. 9(5): p. 329-34. 3. Han, K.K. et al., (2002) ‘Benefits of soy isoflavone therapeutic regimen on menopausal symptoms.’ Obstet Gynecol. 99(3): p. 389-94. 4. Nahas, E.A. et al., (2007) ‘Efficacy and safety of a soy isoflavone extract in postmenopausal women: a randomized, double-blind, and placebo- controlled study.’ Maturitas. 58(3): p. 249-58. 5. Petri Nahas, E. et al., (2004) ‘Benefits of soy germ isoflavones in postmenopausal women with contraindication for conventional hormone replacement therapy.’ Maturitas. 48(4): p. 372-80. 6. Scambia, G. et al., (2000) ‘Clinical effects of a standardized soy extract in postmenopausal women: a pilot study.’ Menopause. 7(2): p. 105-11. 7. Ye, Y.B. et al., (2012) ‘Soy germ isoflavones improve menopausal symptoms but have no effect on blood lipids in early postmenopausal Chinese women: a randomized placebo-controlled trial.’ Menopause. 19(7): p. 791-8. 8. (2011) ‘The role of soy isoflavones in menopausal health: report of The North American Menopause Society/Wulf H. Utian Translational Science Symposium in Chicago, IL (October 2010).’ Menopause. 18(7): p. 732-53. 9. Williamson-Hughes, P.S. et al., (2006) ‘Isoflavone supplements containing predominantly genistein reduce hot flash symptoms: a critical review of published studies.’ Menopause. 13(5): p. 831-9. 10. Taku, K. et al., (2012) ‘Extracted or synthesized soybean isoflavones reduce menopausal hot flash frequency and severity: systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials.’ Menopause. 19(7): p. 776-90. 11. Lagari, V.S. and S. Levis, (2014) ‘Phytoestrogens for menopausal bone loss and climacteric symptoms.’ J Steroid Biochem Mol Biol. 139: p. 294-301. 12. Messina, M., (2014) ‘Soy foods, isoflavones, and the health of postmenopausal women.’ Am J Clin Nutr. 100 (Supplement 1): p. 423S-430S. 13. Alekel, DL et al (2000).” Isoflavone-rich soy protein isolate attenuates bone loss in the lumbar spine of perimanopausal women”. Am J Clin Nutr .72(3): 844-852 14. Potter, SM et al. (1998).” Soy protein and isoflavones: their effects on blood lipids and bone density in postmenopausal women”. Am J Clin Nutr. 68(suppl): 1375S-1379S. 15. Setchell, KD et al (1999).” Dietary isoflavones: biological effects and relevance to human health.” J Nutr.; 129 (3): 758s-767s
File đính kèm:
toi_uu_hoa_isoflavone_dau_nanh_trong_dieu_tri_man_kinh.pdf

