Tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị trên người cao tuổi tại viện dưỡng lão TP. Hồ Chí Minh

Mục tiêu: Xác định tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị liên quan trên người cao tuổi tại Viện dưỡng

lão TP. Hồ Chí Minh.

Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 791 người cao tuổi (360 nam, 431 nữ, tuổi trung bình

72,9 ± 9,1) tại 3 Viện dưỡng lão, Tp. Hồ Chí Minh năm 2013. Đối tượng nghiên cứu được khám tình trạng sâu

răng, nha chu, tình trạng hàm giả và được xác định nhu cầu điều trị liên quan.

Kết quả: Khoảng 90% (90,1%) đối tượng nghiên cứu còn răng. Số trung bình răng hiện có, răng chức năng,

răng sâu thân răng, răng sâu chân răng lần lượt là 15,2 ± 7,7; 14,2 ± 7,4; 5,8 ± 4,0 và 6,0 ± 4,2. 98,6% đối tượng

cần trám ít nhất 1 thân răng và 96,1% cần trám ít nhất 1 chân răng. Tất cả đối tượng còn răng đều có chảy máu

nướu khi thăm dò và 26,2% có túi nha chu sâu (≥4mm) vì vậy 96,5% đối tượng cần cải thiện vệ sinh răng miệng

kết hợp với cạo vôi răng và 20,3% cần phối hợp với điều trị nha chu chuyên sâu. 31,6% đối tượng cần nhổ răng vì

bệnh sâu răng hay bệnh nha chu. Trong toàn bộ mẫu nghiên cứu, 13,4% không cần điều trị phục hình và 86,6%

cần sửa chữa hàm giả hiện có hay làm hàm giả mới

pdf 7 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị trên người cao tuổi tại viện dưỡng lão TP. Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị trên người cao tuổi tại viện dưỡng lão TP. Hồ Chí Minh

Tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị trên người cao tuổi tại viện dưỡng lão TP. Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 298
TÌNH TRẠNG RĂNG MIỆNG VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ TRÊN NGƯỜI CAO TUỔI 
TẠI VIỆN DƯỠNG LÃO TP. HỒ CHÍ MINH 
Phạm Anh Vũ Thụy* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Xác định tình trạng răng miệng và nhu cầu điều trị liên quan trên người cao tuổi tại Viện dưỡng 
lão TP. Hồ Chí Minh. 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên 791 người cao tuổi (360 nam, 431 nữ, tuổi trung bình 
72,9 ± 9,1) tại 3 Viện dưỡng lão, Tp. Hồ Chí Minh năm 2013. Đối tượng nghiên cứu được khám tình trạng sâu 
răng, nha chu, tình trạng hàm giả và được xác định nhu cầu điều trị liên quan. 
Kết quả: Khoảng 90% (90,1%) đối tượng nghiên cứu còn răng. Số trung bình răng hiện có, răng chức năng, 
răng sâu thân răng, răng sâu chân răng lần lượt là 15,2 ± 7,7; 14,2 ± 7,4; 5,8 ± 4,0 và 6,0 ± 4,2. 98,6% đối tượng 
cần trám ít nhất 1 thân răng và 96,1% cần trám ít nhất 1 chân răng. Tất cả đối tượng còn răng đều có chảy máu 
nướu khi thăm dò và 26,2% có túi nha chu sâu (≥4mm) vì vậy 96,5% đối tượng cần cải thiện vệ sinh răng miệng 
kết hợp với cạo vôi răng và 20,3% cần phối hợp với điều trị nha chu chuyên sâu. 31,6% đối tượng cần nhổ răng vì 
bệnh sâu răng hay bệnh nha chu. Trong toàn bộ mẫu nghiên cứu, 13,4% không cần điều trị phục hình và 86,6% 
cần sửa chữa hàm giả hiện có hay làm hàm giả mới 
Kết luận: Tình trạng răng miệng của người cao tuổi tại Viện dưỡng lão đáng lo ngại vì tỷ lệ hiện mắc của 
các bệnh răng miệng chưa được điều trị rất cao. Các viện dưỡng lão cần khám răng miệng ban đầu khi tiếp nhận 
người cao tuổi, chuyển sớm tới các Bác sĩ Răng Hàm Mặt khi phát hiện bệnh và cần chú ý hơn đến chăm sóc vệ 
sinh răng miệng hàng ngày. 
Từ khóa: Tình trạng răng miệng, Nhu cầu điều trị, Người cao tuổi, Viện dưỡng lão, Tp. Hồ Chí Minh 
ABSTRACT 
ORAL HEALTH STATUS AND TREATMENT NEEDS OF NURSING HOME ELDERLY IN HO CHI 
MINH CITY 
Pham Anh Vu Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 298 - 304 
Objective: To determine the oral health status and treatment needs of nursing home elderly in Ho Chi Minh 
City 
Methods: This study was performed on 791 elderly (360 males and 431 females, mean age 72.9±9.1 years) in 
three nursing homes, Ho Chi Minh City. Subjects were clinically examined and interviewed using a questionnaire. 
In the course of clinical examination, coronal caries, root caries, periodontal disease, denture status and related 
treatment needs were assessed. 
Results: About ninety percent (90.1%) of the subjects were dentate. The mean numbers of teeth present, 
teeth with decayed coronal, functioning teeth, and teeth with decayed root were 15.2 ± 7.7, 14.2 ± 7.4, 5.8 ± 4.0 
and 6.0 ± 4.2, respectively. Of the dentate subjects, 98.6% required at least one restoration for coronal caries and 
96.1% required at least one restoration for root caries. Most dentate subjects had bleeding gum on probing and 
26.2% had deep pockets (≥4mm) therefore 96.5% needed oral hygiene improvement plus scaling and 20.3% 
required complex periodontal treatment. 31.6% of dentate subjects needed tooth extractions because of dental 
caries or periodontal disease. 13.4% of subjects had no need for prosthetic treatment, and the rest required new 
* Bộ môn Nha Chu, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. HCM 
Tác giả liên lạc: TS. Phạm Anh Vũ Thụy ĐT: 0916810874 Email: [email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 299
dentures or repairs of existing dentures. 
Conclusion: The oral health status of nursing home elderly remains a concern as the prevalence of untreated 
oral disease is very high. Nursing homes should provide dental screening upon admission, early referral to general 
dental practitioners for detected problems and greater attention to daily oral hygiene care. 
Key words: Oral health status, Treatment needs, elderly, Nursing home, Ho Chi Minh City 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Giống như việc gia tăng dân số, dân số già 
hóa gây ra nhiều thách thức cho sự tăng trưởng 
kinh tế cũng như các dịch vụ an sinh xã hội. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy vấn đề này còn tác 
động mạnh đến mối quan hệ gia đình, lối sống, 
đặc biệt là hệ thống hưu trí quốc gia. Với sự phát 
triển của ngành y học và sự tiến bộ của khoa học 
kỹ thuật, dân số người cao tuổi ngày càng gia 
tăng ở hầu hết quốc gia trên toàn thế giới. Tỷ lệ 
người cao tuổi so với tổng dân số ở Việt Nam 
cũng tăng dần, cụ thể năm 1979, 1989, 1999 và 
2009 lần lượt là 6,96%; 7,2%, 8,11% và 8,69%. 
Theo dự báo dân số của Tổng cục Thống kê 
(2010) thì tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ 
chạm ngưỡng 10% tổng dân số vào năm 2017, 
hay dân số Việt Nam chính thức bước vào giai 
đoạn “già hóa” từ năm 2017; và ước tính đến 
năm 2019 và năm 2029 tỷ lệ người cao tuổi lần 
lượt là 11,78% và 16,66%(11). Liên hiệp quốc (2008) 
dự báo biến động dân số Việt Nam theo cơ cấu 
tuổi trong giai đoạn 2010-2050 là tỷ lệ người cao 
tuổi sẽ tăng mạnh từ năm 2015 và đạt mức 26,1% 
tổng dân số năm 2050(2). Xu hướng và tốc độ biến 
động dân số theo hướng già hóa đang đặt ra 
những cơ hội và thách thức lớn cho nước ta 
trong việc chuẩn bị nguồn lực để đón nhận số 
lượng dân số cao tuổi ngày càng tăng. Dân số già 
hóa sẽ đặt một gánh nặng ngày càng tăng trên 
các hệ thống chăm sóc y tế quốc gia. Tuổi thọ 
càng cao thì nhu cầu chăm sóc y tế càng tăng, 
liên quan đến các bệnh như bệnh tim mạch, ung 
thư, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, loãng xương, 
suy giảm thị lực, và mất trí nhớ. Tình trạng sức 
khỏe răng miệng ở người cao tuổi thường ít 
được quan tâm hơn sức khỏe toàn thân. Người 
cao tuổi thường ít được nhận những điều trị cấp 
cứu nha khoa hơn là các bệnh lý toàn thân 
khác(1,7). Tác động của sức khỏe răng miệng lên 
chất lượng cuộc sống gia tăng vì dân số người 
cao tuổi tăng lên cũng như kéo dài tuổi thọ trên 
người cao tuổi bị mất răng(4). Mặc dù sự nhận 
thức về nhu cầu chăm sóc răng miệng ở người 
cao tuổi trong thập kỷ qua có tăng lên nhưng 
tình trạng răng miệng của họ tại các Trung tâm 
dưỡng lão vẫn chưa được quan tâm đúng mức(5). 
Nhiều người cao tuổi thường gặp khó khăn 
trong việc duy trì vệ sinh răng miệng và hàm giả 
vì những hạn chế của tay chân, khiếm khuyết thị 
lực hay kèm với các bệnh lý toàn thân khác. 
Người cao tuổi sống tại các viện dưỡng lão 
thường có tình trạng răng miệng kém hơn 
những người sống tại nhà và thường có mức độ 
cao hơn những bệnh lý răng miệng được phát 
hiện khi khám trên lâm sàng(8). 
Cho đến hiện tại, nhiều nghiên cứu trên đối 
tượng người cao tuổi tại Việt Nam đã được thực 
hiện nhưng các nghiên cứu này lại ít quan tâm 
đến tình trạng sức khỏe răng miệng. Nghiên cứu 
khoa học xã hội có xu hướng tập trung vào phúc 
lợi kinh tế xã hội ở người cao tuổi, trong khi 
nghiên cứu sức khỏe răng miệng thì quan tâm 
nhiều đến trẻ em và người lớn mà ít nghiên cứu 
trên người cao tuổi, đặc biệt là đối tượng này tại 
các Viện dưỡng lão tại Việt Nam nói chung và 
Tp. Hồ Chí Minh nói riêng. Vì vậy, có rất ít số 
liệu điều tra về tình trạng sức khỏe răng miệng 
cũng như chưa có nhiều các chương trình phòng 
ngừa và can thiệp nhằm cải thiện sức khỏe răng 
miệng trên nhóm đối tượng này. Riêng tại Tp. 
Hồ Chí Minh, hiện nay có nhiều trung tâm 
người cao tuổi, viện dưỡng lão đang được các cá 
nhân, các tổ chức trong nước và ngoài nước hỗ 
trợ khám và chăm sóc sức khỏe tổng quát; trong 
khi chưa có nhiều các chương trình điều tra và 
can thiệp về sức khỏe răng miệng cho nhóm 
người cao tuổi này. Nhằm bổ sung vào số liệu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 300
hiện có về sức khỏe răng miệng của người cao 
tuổi tại Việt Nam cũng như làm cơ sở cho các 
chương trình phòng ngừa và can thiệp các bệnh 
răng miệng ở người cao tuổi trong tương lai, 
nghiên cứu này thực hiện với mục đích xác định 
tình trạng răng miệng gồm sâu răng, nha chu và 
mất răng; và nhu cầu điều trị liên quan trên 
người cao tuổi sống tại một số Viện dưỡng lão 
Tp. Hồ Chí Minh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được tiến hành tại 3 Viện dưỡng 
lão (Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè, Trung tâm 
nuôi dưỡng bảo trợ xã hội Chánh Phú Hòa và 
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ người già Thạnh 
Lộc) là các trung tâm có số lượng người cao tuổi 
lớn nhất trực thuộc Sở Lao động và Thương binh 
Xã hội Tp. Hồ Chí Minh. Đối tượng nghiên cứu 
là 791 người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) trong đó 
có 360 nam (tuổi trung bình 72,4±9,6 tuổi) và 431 
nữ (tuổi trung bình 73,4±8,7 tuổi), có thể giao tiếp 
được và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Trước khi tiến hành khám răng miệng, tất cả 
đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn về số lần 
chải răng và thói quen hút thuốc lá bởi các điều 
dưỡng của trung tâm. Thông tin liên quan đến 
tuổi, giới tính, trình độ học vấn được ghi nhận từ 
hồ sơ của đối tượng tại trung tâm. 
Một Bác sĩ Răng Hàm Mặt khám răng miệng 
gồm tình trạng sâu răng, mất răng và nha chu, 
tình trạng hàm giả và xác định nhu cầu điều trị 
liên quan có sử dụng đèn khám đội đầu, thám 
trâm, cây thăm dò túi nha chu cho tất cả đối 
tượng trong nghiên cứu này tại phòng y tế của 
Trung tâm. Răng được ghi nhận hiện diện nếu 
được nhìn thấy trong miệng và được đánh giá là 
răng chức năng hay không có chức năng. Răng 
chức năng nếu còn thân răng lâm sàng và có thể 
dùng để nhai hay lưu giữ hàm giả. Răng không 
chức năng là những răng không còn thân răng 
hay còn thân răng nhưng không thể dùng để 
nhai hay không thể dùng để lưu giữ hàm giả. 
Tổng số răng hiện có gồm răng chức năng và 
răng không chức năng. 
Sâu răng thân răng và chân răng được đánh 
giá theo tiêu chuẩn của Tổ chức sức khỏe thế giới 
(WHO, 1997). Độ sâu túi nha chu (PD) và độ mất 
bám dính lâm sàng (CAL) được đo tại 6 vị trí của 
răng chức năng bằng cây thăm dò và ghi nhận 
mức độ sâu nhất cho từng răng. Có hay không 
chảy máu nướu của mỗi răng (BOP) được ghi 
nhận sau 30 giây khi thăm dò. Chỉ số mảng bám 
(PI) được đánh giá dựa vào tiêu chí của Quigley 
và Hein (1962). 
Nhu cầu điều trị sâu thân răng hay chân 
răng của mỗi răng được ghi nhận: 0, không cần 
điều trị; 1, cần trám thân răng; và 3, cần trám 
chân răng. 
Nhu cầu điều trị nha chu của đối tượng 
nghiên cứu được đánh giá và ghi nhận theo 
tiêu chí sau: 0, không cần điều trị; 1, cải thiện 
vệ sinh răng miệng; 2, cải thiện vệ sinh răng 
miệng và cạo vôi răng; và 3, cải thiện vệ sinh 
răng miệng và cạo vôi răng phối hợp với điều 
trị nha chu chuyên sâu. 
Răng có nhu cầu nhổ răng được điều tra 
đánh giá vì lý do sâu răng, nha chu hay vì lý 
do khác. 
Sự hiện diện của hàm giả toàn phần hay 
bán phần hàm trên hay hàm dưới được ghi 
nhận. Tình trạng vệ sinh hàm giả được đánh 
giá và cho điểm số dựa vào sự tích tụ mảng 
bám trên hàm giả: số 0, không có mảng bám; 
số 1, mảng bám ít; số 2, mảng bám trung bình; 
số 3, mảng bám nhiều. 
Nhu cầu điều trị phục hình trên những đối 
tượng sẽ mất răng (vì nhổ răng) hay đang 
mang phục hình nhưng không sử dụng được 
hay đối tượng đang mất răng và chưa mang 
hàm giả được đánh giá. Ghi nhận cho cả hàm 
trên và hàm dưới theo tiêu chí sau: 0, không có 
nhu cầu; 1, sữa chữa hàm giả hiện có; 2, bán 
hàm; và 3, toàn hàm (WHO, 1997). 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu được trình bày 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 301
trong Bảng 1. Trong số 791 đối tượng nghiên cứu, 
có 360 nam (45,5%) và 431 nữ (54,5%) với độ tuổi 
trung bình là 72,9±9,1, không khác biệt có ý 
nghĩa thống kê về tuổi của nam (72,4±9,6) so với 
tuổi của nữ (73,4±8,7), p=0,116. 
Trong toàn bộ mẫu nghiên cứu có 78 (9,9%) 
đối tượng mất răng toàn bộ trên và dưới và 713 
(90,1%) đối tượng còn răng. Đối tượng mất răng 
toàn bộ có tuổi trung bình (77,3±9,4) cao hơn có ý 
nghĩa thống kê so với tuổi của đối tượng còn 
răng (72,4±9,0), p<0,001. Có 37 đối tượng nam 
mất răng toàn bộ (tuổi trung bình 76,9±9,9) và 41 
đối tượng nữ mất răng toàn bộ (tuổi trung bình 
77,7±9,0). Không khác biệt có ý nghĩa thống kê về 
tuối giữa nam và nữ (p=0,70). Có 323 đối tượng 
nam còn răng (tuổi trung bình 71,8±9,5) và 390 
đối tượng nữ còn răng (tuổi trung bình 72,9±8,5). 
Không khác biệt về tuối có ý nghĩa thống kê giữa 
nam và nữ còn răng (p=0,107). 
Khoảng 50% đối tượng trong nghiên cứu này 
mù chữ hay có trình độ tiểu học (49,2%), 44,0% 
có trình độ trung học cơ sở hay trung học phổ 
thông và chỉ có 6,85 đối tượng có trình độ sau 
trung học phổ thông. Đối tượng nam có trình độ 
học vấn cao hơn nữ và sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001). Khoảng 43,0% đối tượng 
nghiên cứu có thói quen hút thuốc lá, trong đó tỷ 
lệ nam (60,0%) cao hơn nữ (29,0%) có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001). Liên quan đến thói quen chải 
răng, 22,4% đối tượng nghiên cứu không chải 
răng; 22,3% chải 1 lần/ ngày, và 56,3% đối tượng 
chải từ 2-3 lần trong ngày. Nữ có thói quen chải 
răng nhiếu lần trong ngày hơn nam (p=0,02). 
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Nam (n=360) Nữ (n=431) Tổng số (n=791) p 
Đối tượng nghiên 
cứu, n (%) 
Còn răng 323 (40,8) 390 (49,3) 713 (90,1) 0,40 
Mất răng toàn bộ 37 (4,7) 41 (5,2) 78 (9,9) 
Trình độ 
học vấn, 
 n (%) 
Không đi học, tiểu học 152 (42,2%) 237 (55,0%) 389 (49,2%) 
<0,001 Trung học cơ sở, trung học phổ thông 173 (48,1%) 175 (40,6%) 348 (44,0%) 
Sau trung học phổ thông 35 (9,7%) 19 (4,4%) 54 (6,8%) 
Hút thuốc lá, 
n (%) 
Có 216 (60,0%) 125 (29,0%) 341 (43,1%) 
<0,001 
Không 144 (40,0%) 306 (71,0%) 450 (56,9%) 
Số lần 
chải răng, 
n (%) 
0 86 (26,6%) 74 (19,0%) 160 (22,4%) 
0,02 
1 67 (20,7%) 85 (21,8%) 152 (21,3%) 
2 162 (50,2%) 208 (53,3%) 370 (52,0%) 
3 8 (2,5%) 23 (5,9%) 31 (4,3%) 
Kiểm định Chi bình phương; có ý nghĩa thống kê khi p<0,05 
Tình trạng răng và nhu cầu điều trị sâu 
răng 
Tình trạng răng và nhu cầu điều trị sâu răng 
của đối tượng còn răng được trình bày trong 
Bảng 2. Trung bình số răng hiện có và răng chức 
năng lần lượt là 15,2±7,7 và 14,2±7,4. Nữ có nhiều 
răng và răng chức năng hơn nam có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05). Trung bình mỗi đối tượng còn 
răng có 1 răng không chức năng và không khác 
biệt giữa nam và nữ trong mẫu nghiên cứu. 
Trung bình số răng có sâu thân răng và sâu chân 
răng lần lượt là 5,8±4,0 và 6,0±4,2. Nam có tỷ lệ 
sâu thân răng nhiều hơn nữ và nữ lại có sâu 
chân răng nhiều hơn nam nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 
Trong số những đối tượng còn răng, chỉ có 
1,4% không có nhu cầu điều trị trám thân răng. 
Khoảng 31,6% cần trám 1-3 thân răng, 41,4% cần 
trám 4-6 thân răng, 20% cần trám 7-9 thân răng 
và 14,7% cần trám từ 10 thân răng trở lên. 
Khoảng 4% không có nhu cầu điều trị trám chân 
răng. 29,6% cần trám 1-3 chân răng, 24,4% cần 
trám 4-6 chân răng, 25,9% cần trám 7-9 chân răng 
và 16,1% cần trám từ 10 chân răng trở lên. Nam 
có nhu cầu trám nhiều thân răng hơn nữ và nữ 
có nhu cầu trám chân răng nhiều hơn nam, 
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 302
(p>0,05). 
Bảng 2. Tình trạng răng và nhu cầu điều trị sâu răng 
Nam (n=323) Nữ (n=390) Tổng số (n=713) p 
Tình trạng răng 
(TB±ĐLC)* 
Số răng hiện có 14,5±7,4 15,8±7,9 15,2±7,7 0,022 
Số răng chức năng 13,5±6,9 14,7±7,8 14,2±7,4 0,021 
Số răng không chức năng 1,0±1,9 1,1±2,0 1,0±2,0 0,65 
Số răng có trám thân răng 0,5±0,8 0,3±0,7 0,4±0,7 0,02 
Số răng sâu thân răng 5,9±3.9 5,7±4,0 5,8±4,0 0,59 
Số răng sâu chân răng 5,9±4.1 6,1±4,2 6,0±4,2 0,56 
Nhu cầu 
điều trị sâu răng, 
 n (%)** 
Đối tượng 
cần trám thân răng 
Không 6 (1,9%) 4 (1,0%) 10 (1,4%) 
0,67 
1 - 3 răng 99 (30,7%) 126 (32,3%) 225 (31,6%) 
4 - 6 răng 96 (29,7%) 128 (32,8%) 224 (31,4%) 
7 - 9 răng 72 (22,3%) 77 (19,7%) 149 (20,9%) 
≥ 10 răng 50 (15,5%) 55 (14,1%) 105 (14,7%) 
Đối tượng 
cần trám chân răng 
Không 14 (4,3%) 14 (3,6%) 28 (3,9%) 
0,77 
1 - 3 răng 95 (29,4%) 116 (29,7%) 211 (29,6%) 
4 - 6 răng 84 (26,0%) 90 (23,1%) 174 (24,4%) 
7 - 9 răng 83 (25,7%) 102 (26,2%) 185 (25,9%) 
≥ 10 răng 47 (14,6%) 68 (17,4%) 115 (16,1%) 
(*) Kiểm định T; (**) Kiểm định Chi bình phương; Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05 
Tình trạng nha chu và nhu cầu điều trị 
Tình trạng nha chu và nhu cầu điều trị nha 
chu của đối tượng còn răng được trình bày trong 
Bảng 3. Trong tổng số 713 người cao tuổi, trung 
bình mỗi đối tượng có 7,68 ± 4,55 răng bị chảy 
máu nướu khi thăm dò. Chỉ số trung bình mảng 
bám răng, độ sâu túi nha chu và độ mất bám 
dính lâm sàng lần lượt là 3,72 ± 1,07; 3,65 ± 1,21 
và 3,84 ± 1,27. Đối tượng nam còn răng trong 
nghiên cứu này có tất cả các chỉ số nha chu cao 
hơn có ý nghĩa thống kê so với đối tượng nữ 
(p<0,05). Có 26,2% đối tượng còn răng có ít nhất 
1 túi nha chu sâu nhất từ 4mm trở lên, trong đó 
có 16,7% có túi nha chu từ 4-6mm và 9,5% có túi 
nha chu từ 7mm trở lên. Tỷ lệ nam giới có có túi 
nha chu sâu hơn nữ giới có ý nghĩa thống kê 
(p=0,024). Nghiên cứu cho thấy tất cả đối tượng 
còn răng trong nghiên cứu này đều có nhu cầu 
điều trị nha chu. Cụ thể, hơn 3/4 đối tượng có 
nhu cầu cải thiện vệ sinh răng miêng và cạo vôi 
(76,2%), 20,3% đối tượng cần cải thiện vệ sinh 
răng miệng, cạo vôi răng kết hợp với điều trị 
chuyên sâu và chỉ có 3,3% đối tượng cần cải 
thiện vệ sinh răng miệng. Nam giới có nhu cầu 
điều trị nha chu chuyên sâu nhiều hơn nữ giới có 
ý nghĩa thống kê (p=0,025). 
Bảng 3. Tình trạng nha chu và nhu cầu điều trị 
Nam 
(n = 323) 
Nữ 
(n = 390) 
Tổng số 
(n=713) 
p 
Tình trạng nha 
chu, (TB ± ĐLC)* 
 Mảng bám răng (PI) 3,92 ± 1,91 3,55 ± 1,17 3,72 ± 1,07 <0,001 
 Chảy máu nướu khi thăm dò (BOP) 8,07 ± 4,53 7,35 ± 4,56 7,68 ± 4,55 0,035 
 Độ sâu túi nha chu (PD, mm) 3,76 ± 1,14 3,56 ± 1,26 3,65 ± 1,21 0,024 
 Độ mất bám dính lâm sàng (CAL, mm) 3,98 ± 1,21 3,73 ± 1,30 3,84 ± 1,27 0,009 
Đối tượng 
có túi nha chu sâu 
nhất, n (%)** 
 ≤ 3mm 223 (69.0%) 303 (77.7%) 526 (73.8%) 
0.024 4 - 6 mm 61 (18.9%) 58 (14.9%) 119 (16.7%) 
 ≥ 7 mm 39 (12.1%) 29 (7.4%) 68 (9.5%) 
Nhu cầu điều trị 
nha chu, n (%)** 
 Cải thiện vệ sinh răng miệng 15 (4,6%) 10 (2,6%) 25 (3,5%) 
0.025 
 Cải thiện vệ sinh răng miệng và cạo vôi răng 231 (71,5%) 312 (80,0%) 543 (76,2%) 
Cải thiện vệ sinh răng miệng, cạo vôi răng kết hợp 
với điều trị nha chu chuyên sâu 
77 (23,8%) 68 (17,4%) 145 (20,3%) 
(*) Kiểm định T; (**) Kiểm định Chi bình phương; Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 303
Tổng cộng, có 488 đối tượng còn răng 
(68,4%) không có nhu cầu nhổ răng, 149 người 
(20,9%) cần nhổ từ 1 đến 3 răng và 76 người 
(10,7%) cần nhổ từ 4 đến 10 răng. Đối tượng nam 
cần nhổ nhiều răng hơn nữ nhưng sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê (p=0,58). 
Tình trạng hàm giả và nhu cầu điều trị 
Tình trạng vệ sinh hàm giả và nhu cầu điều 
trị phục hình của toàn bộ mẫu nghiên cứu được 
trình bày trong Bảng 4. Trong tổng số 86 đối 
tượng mang hàm giả hàm trên, 4 đối tượng 
mang hàm giả toàn phần (4,7%) và 95,3% đối 
tượng mang hàm giả bán phần. Liên quan đến 
vệ sinh hàm giả hàm trên, không có đối tượng có 
điểm số 0, khoảng 1/4 đối tượng có điểm số 1 
(24,4%). Có tỷ lệ đối tượng có điểm số 2 cao nhất 
(70,9%) và khoảng 5% đối tượng có điểm số 3 
(4,7%). Có 86 đối tượng mang hàm giả dưới, và 
tất cả là hàm giả bán phần. Liên quan đến vệ 
sinh hàm giả hàm dưới, không có đối tượng nào 
có chỉ số vệ sinh hàm giả là 0, khoảng 1/5 đối 
tượng có điểm số 1 (22,1%), hơn một nữa đối 
tượng có điểm số 2 (54,7%) và khoảng 1/4 đối 
đượng có điểm số 3 (23,2%). 
Bảng 4. Tình trạng vệ sinh hàm giả và nhu cầu điều 
trị 
Hàm trên, n 
(%) 
Hàm dưới, n 
(%) 
Tình 
trạng vệ 
sinh 
hàm giả 
 Sạch hoàn toàn 0 0 
 Mảng bám ít 21 (24.4%) 19 (22.1%) 
 Mảng bám trung 
bình 
61 (70.9%) 47 (54.7%) 
 Mảng bám nhiều 4 (4.7%) 20 (23.2%) 
 Tổng số 86 (100.0%) 86 (100.0%) 
Nhu cầu 
răng 
hàm giả 
 Không cần 182 (23.0%) 139 (17.5%) 
Sửa chữa 
hàm giả hiện có 
58 (7.3%) 48 (6.1%) 
 Hàm bán phần mới 393 (49.7%) 458 (57.9%) 
 Hàm toàn phần mới 158 (20.0%) 146 (18.5%) 
 Tổng số 791 (100.0%) 791 (100.0%) 
Tỷ lệ phần trăm đối tượng nghiên cứu không 
cần hàm giả ở hàm trên và hàm dưới lần lượt là 
23,0% và 17,5%. 49,7% đối tượng nghiên cứu cần 
hàm giả bán phần mới ở hàm trên và 57,9% cần 
hàm giả bán phần mới ở hàm dưới. Khoảng 1/5 
đối tượng cần hàm giả toàn phần (20% cần cho 
hàm trên và 18,5% cần cho hàm dưới). Nhu cầu 
cần sửa chữa hàm giả hàm trên và hàm giả hàm 
dưới hiện có lần lượt là 7,3% và 6,1%. 
BÀN LUẬN 
Với sự gia tăng nhanh tỷ lệ người cao tuổi tại 
các nước phát triển và đang phát triển đã đưa 
đến những vấn đề về sức khỏe chung cũng như 
sức khỏe răng miệng nói riêng. Sự gia tăng tuổi 
thọ kéo theo tăng nhu cầu chăm sóc răng miệng 
của người cao tuổi. Nghiên cứu này cho thấy 
mặc dù tỷ lệ mất răng toàn bộ của mẫu nghiên 
cứu không cao, nhưng nhu cầu về điều trị sâu 
răng, nha chu và phục hình rất cao. 
Tỷ lệ mất răng toàn bộ trong nghiên cứu này 
thấp hơn một số nghiên cứu khác trên thế giới 
như của Gift và cs, 1997 (nghiên cứu trên 8056 
người cao tuổi tại các Viện dưỡng lão cho thấy tỷ 
lệ mất răng toàn bộ là 47%)(3), nhưng 100% người 
mất răng toàn bộ trong nghiên cứu này đều 
không mang phục hình toàn phần cả trên và 
dưới. Nhu cầu phục hình bán phần của người 
cao tuổi trong nghiên cứu này cao, chiếm hơn 
50% và nhu cầu phục hình toàn phần chiếm 
khoảng 20% trong toàn bộ mẫu nghiên cứu. 
Uludamar và cs (2011)(10) nghiên cứu trên 346 
người cao tuổi tại các Viện dưỡng lão cho thấy tỷ 
lệ mất răng toàn bộ là 58,2%, cao hơn trong 
nghiên cứu này và chỉ có 38% trong số đó không 
mang hàm giả. 
Nghiên cứu này cho thấy hơn 95% đối tượng 
còn răng có nhu cầu trám thân răng và chân răng. 
Về nhu cầu điều trị nha chu, mặc dù chỉ có 
khoảng 26% đối tượng có túi nha chu từ 4mm 
trở lên, nhưng tất cả các đối tượng trong nghiên 
cứu này đều có nhu cầu cải thiện vệ sinh răng 
miệng. Trong đó hơn 75% trường hợp cần phải 
kết hợp cạo vôi răng và 20% cần phải phối hợp 
điều trị nha chu chuyên sâu. Tình trạng vệ sinh 
răng miệng và hàm giả của đối tượng nghiên 
cứu cũng rất trầm trọng. Vì vậy tăng cường giáo 
dục vệ sinh răng miệng kết hợp với việc cải thiện 
vệ sinh răng miệng và cạo vôi răng cho đối 
tượng trong nghiên cứu là thật sự cần thiết. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 304
Nghiên cứu của này cho thấy trung bình số 
răng sâu và tỷ lệ sâu chân răng cao hơn so với 
nghiên cứu trước đây của Lâm Kim Triển, 2014 
(trên 122 người cao tuổi tại Viện dưỡng lão Tp. 
Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ sâu chân răng là 
43,4% và chỉ số trung bình sâu răng là 2,97)(6). 
Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại 3 Viện 
dưỡng lão lớn tại Tp. Hồ Chí Minh, trên cỡ mẫu 
lớn hơn nhiều nên có thể đại diện cho cộng đồng 
người cao tuổi tại các Viện dưỡng lão hơn, và 
cũng có thể là đối tượng người cao tuổi còn răng 
trong nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu trước 
đây. Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Phượng 
(2011)(9) trên 300 bệnh nhân cao tuổi đến khám 
và điều trị tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung 
Ương Tp. Hồ Chí Minh cho thấy trung bình chỉ 
số sâu răng là 5,31; sâu chân răng là 1,97; nhu cầu 
điều trị nha chu là 69,3%, tất cả đều thấp hơn so 
với kết quả trong nghiên cứu này. Người cao 
tuổi tại các Viện dưỡng lão thường có tình trạng 
răng miệng trầm trọng hơn và nhu cầu điều trị 
bệnh răng miệng cao hơn so với người cao tuổi 
sống tại nhà. 
Kết quả từ nghiên cứu này cho thấy có tỷ lệ 
cao bệnh sâu răng và nha chu. Vì vậy việc cải 
thiện vệ sinh răng miệng, kết hợp với giáo dục 
nha khoa tại các Viện dưỡng lão là thật sự cần 
thiết. Nhu cầu điều trị bệnh sâu răng, nha chu và 
mất răng cũng rất cao, vì vậy cần có những 
chương trình phòng ngừa và can thiệp thích hợp 
nhằm cải thiện và duy trì sức khỏe răng miệng 
hiện tại của họ. Tăng cường tập huấn kiến thức 
nha khoa cho các Bác sĩ và điều dưỡng y khoa tại 
các trung tâm để việc giáo dục vệ sinh răng 
miệng thích hợp, khám răng miệng định kỳ 
được duy trì và phát hiện sớm các bệnh lý răng 
miệng đơn giản có thể được thực hiện bởi các 
Bác sĩ và điều dưỡng tại trung tâm. Cần quan 
tâm việc phối hợp với các Y/Bác sĩ Răng Hàm 
Mặt tại các bệnh viện tuyến cơ sở gần các trung 
tâm dưỡng lão trong việc điều trị các bệnh răng 
miệng cho người cao tuổi. Ngoài ra, các viện 
dưỡng lão cần khám răng miệng ban đầu khi 
tiếp nhận người cao tuổi, chuyển sớm tới các Bác 
sĩ Răng Hàm Mặt khi phát hiện bệnh và cần chú 
ý hơn đến việc chăm sóc vệ sinh răng miệng 
hàng ngày cho người cao tuổi sống tại Viện. 
Lời cảm ơn : Tác giả chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Trung 
tâm dưỡng lão Thị Nghè, Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ xã hội 
Chánh Phú Hòa và Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ người già 
Thạnh Lộc, đã tạo mọi điều kiện để thực hiện nghiên cứu này. 
Cảm ơn BS. Lương Văn Tô My, Nguyên trưởng bộ môn Tia X, 
Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh đã hỗ trợ 
trang thiết bị và vật liệu phục vụ cho nghiên cứu. 
Cám ơn BS. Nguyễn Quang Tâm và nhóm Bác sĩ tình nguyện của 
Phòng nha khoa, Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo Tp. Hồ Chí Minh 
đã hỗ trợ trong việc thu thập số liệu. Công ty Colgate Palmolive đã 
cung cấp các công cụ giáo dục vệ sinh răng miệng, kem và bàn chải 
cho các đối tượng tham gia nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. De Baat C, Bruins H, et al (1993), “Oral health care for nursing 
home residents in the Netherlands – a national survey”, 
Community Dent Oral Epidemiol, 21: pp, 240-242. 
2. Giang Thanh Long, Lê Hà Thanh (2010), “Vượt qua bẫy thu 
nhập trung bình: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, 
Nhà xuất bản Giao thông vận tải, tr 168. 
3. Gift HC, Cherry-Peppers G, Oldakowski RJ (1997) “Oral 
health status and related behaviors of US nursing home 
residents”, Gerodontology, 14, pp,89-99. 
4. Gift HC, Redford M (1992) “Oral health and quality of life”, 
Clin Geriatr Med, 8, pp,673-683. 
5. Keyser-Jones J, Bird WF, Paul FM, Long L, Schell ES (1995), 
“An instrument to assess the oral health status of nursing 
home residents”, Geriodontologist, 35, pp,814-824. 
6. Lâm Kim Triển (2014) “Tác động của sức khỏe răng miệng lên 
chất lượng cuộc sống của người cao tuổi tại một số viện 
dưỡng lão Tp. Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ y học. 
7. MacEntee MI, Weiss R, Waxler-Morrison NE, Morrison BJ 
(1987), “Factors influencing oral health in long term care 
facilities”, Community Dent Oral Epidemiol, 15, pp.314-316. 
8. Steele JG, Sheiham A, Marcenes W, Walls AWG (1998), 
“National diet and nutrition survey: people aged 65 years and 
over, vol.2: report of oral health survey. HMSO, London” 
9. Trần Thị Tuyết Phượng (2011) “Ảnh hưởng của sức khỏe răng 
miệng đến chất lượng cuộc sống của người bệnh cao tuổi tại 
Bệnh viên Răng Hàm Mặt Trung Ương Tp. Hồ Chí Minh”. 
Luận văn thạc sĩ y học. Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
10. Uludamar A, Evren BA, Iseri U, Ozkan YK (2011), “Oral 
health status and treatment requirements of different 
residential homes in Istanbul: A comparative study”, Arch 
Gerontol Geriatr, 53(1),e67-74. 
11. UNFPA (2011), “Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt 
Nam: thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách” 
tr17-18. 
Ngày nhận bài báo: 29/01/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2016 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2016 

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_rang_mieng_va_nhu_cau_dieu_tri_tren_nguoi_cao_tuo.pdf