Tình trạng kháng kháng sinh của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương

Nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh. Chẩn đoán và điều trị

nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là một thách thức với các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh. Hiệu quả điều trị ngày càng

giảm do tình trạng kháng kháng sinh. Nghiên cứu được tiến hành tại trung tâm chăm sóc và điều trị sơ sinh,

bệnh viện Phụ sản Trung ương trên 102 trẻ sơ sinh được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết sơ sinh theo tiêu chuẩn

của Y tế quốc gia và chất lượng điều trị Vương Quốc Anh (NICE – UK) năm 2012 và của cơ quan dược phẩm

châu Âu EMA năm 2010. Căn nguyên chính gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh sớm và nhiễm khuẩn sơ sinh muộn

lần lượt là Coagulase-negative Staphylococcus (CoNS) (28%) và S. marcescen (32,3%). 100% các chủng vi

khuẩn S. marcescens, E. coli và K. pneumoniae đều kháng với kháng sinh nhóm Penicillin. Tỷ lệ kháng của S.

marcescens và K. pneumoniae với kháng sinh nhóm Carbapenem trên 60%. 90% kháng sinh nhóm penicillin

bị kháng bởi các vi khuẩn CoNS 100%. Kháng sinh vancomycin vẫn còn nhạy cảm với các vi khuẩn này

pdf 6 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng kháng kháng sinh của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng kháng kháng sinh của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương

Tình trạng kháng kháng sinh của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
93TCNCYH 131 (7) - 2020
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Việt Hà, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 05/03/2020
Ngày được chấp nhận: 10/07/2020
TÌNH TRẠNG KHÁNG KHÁNG SINH CỦA 
MỘT SỐ VI KHUẨN GÂY NHIỄM KHUẨN HUYẾT SƠ SINH 
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Hà Đức Dũng¹, Nguyễn Thị Vân², Lê Minh Trác¹, Nguyễn Thị Việt Hà1, 
1Bệnh viện Phụ sản Trung ương,
2Trường Đại học Y Hà Nội, 
Nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong ở trẻ sơ sinh. Chẩn đoán và điều trị 
nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là một thách thức với các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh. Hiệu quả điều trị ngày càng 
giảm do tình trạng kháng kháng sinh. Nghiên cứu được tiến hành tại trung tâm chăm sóc và điều trị sơ sinh, 
bệnh viện Phụ sản Trung ương trên 102 trẻ sơ sinh được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết sơ sinh theo tiêu chuẩn 
của Y tế quốc gia và chất lượng điều trị Vương Quốc Anh (NICE – UK) năm 2012 và của cơ quan dược phẩm 
châu Âu EMA năm 2010. Căn nguyên chính gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh sớm và nhiễm khuẩn sơ sinh muộn 
lần lượt là Coagulase-negative Staphylococcus (CoNS) (28%) và S. marcescen (32,3%). 100% các chủng vi 
khuẩn S. marcescens, E. coli và K. pneumoniae đều kháng với kháng sinh nhóm Penicillin. Tỷ lệ kháng của S. 
marcescens và K. pneumoniae với kháng sinh nhóm Carbapenem trên 60%. 90% kháng sinh nhóm penicillin 
bị kháng bởi các vi khuẩn CoNS 100%. Kháng sinh vancomycin vẫn còn nhạy cảm với các vi khuẩn này.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là một hội chứng 
lâm sàng xuất hiện trong vòng 28 ngày đầu sau 
đẻ với biểu hiện hội chứng nhiễm khuẩn toàn 
thân và xuất hiện vi khuẩn trong máu. Trong đó, 
nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là nhiễm khuẩn xuất 
hiện trong vòng 72 giờ sau đẻ và nhiễm khuẩn 
sơ sinh muộn là nhiễm khuẩn xuất hiện sau 72 
giờ. Đây là bệnh lý thường gặp và là nguyên 
nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong ở trẻ sơ 
sinh.¹ Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới, 
tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn huyết sơ sinh ước tính là 
2203/100000 trẻ sơ sinh sinh sống với tỷ lệ tử 
vong dao động từ 11 – 19%.² Nguyên nhân gây 
nhiễm khuẩn huyết sơ sinh có thể là vi khuẩn 
gram âm, gram dương hoặc do nấm Candida.3 
Trong một nghiên cứu tại Mỹ, nguyên nhân 
hàng đầu gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là 
E. coli (42%) và Streptococcus nhóm B (GBS) 
(23%).4 Tại Việt Nam, theo kết quả nghiên cứu 
trên 2202 trẻ có chỉ định cấy máu tại Bệnh 
viện Nhi đồng 1, 17,5% trẻ có kết quả cấy máu 
dương tính với nguyên nhân chủ yếu là gram 
âm như Klebsiella (20%), Acinetobacter (15%) 
và E.coli (5%).⁵ Chẩn đoán và điều trị nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh là một thách thức với các 
bác sĩ chuyên khoa sơ sinh vì các dấu hiệu, 
triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu và mất 
nhiều thời gian để có kết quả xét nghiệm khẳng 
định tình trạng nhiễm khuẩn. Khả năng kiểm 
soát nhiễm khuẩn khó khăn hơn cũng như hiệu 
quả điều trị ngày càng giảm do tình trạng kháng 
kháng sinh có xu hướng gia tăng trên toàn thế 
giới.⁶ Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
với mục tiêu “Mô tả tình trạng kháng kháng sinh 
Từ khóa: nhiễm khuẩn huyết sơ sinh, kháng kháng sinh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
94 TCNCYH 131 (7) - 2020
của một số vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ 
sinh tại Trung tâm chăm sóc và điều trị sơ sinh 
bệnh viện Phụ sản Trung ương”
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tất cả trẻ sơ sinh đẻ ra sống được điều 
trị tại Trung tâm chăm sóc và Điều trị sơ sinh 
bệnh viện Phụ sản Trung ương được chẩn 
đoán nhiễm khuẩn huyết sơ sinh dựa vào tiêu 
chuẩn chẩn đoán theo viện Y tế quốc gia và 
chất lượng điều trị Vương Quốc Anh (NICE 
– UK) năm 2012 và của cơ quan dược phẩm 
châu Âu EMA năm 2010: Có ít nhất một dấu 
hiệu lâm sàng hoặc cận lâm sàng của nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh và ít nhất một lần cấy máu 
dương tính hoặc cấy dịch não tủy dương tính.
2. Phương pháp 
Nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh trên 102 
bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh có kết quả cấy máu, cấy dịch não tủy, 
dương tính trong khoảng thời gian từ 01/1/2018 
đến 30/8/2019. Số liệu được nhập và xử lý 
bằng phần mềm SPSS 20.0. Tỷ lệ phần trăm 
được sử dụng để tính tỷ lệ kháng kháng sinh 
của vi khuẩn được cấy ra.
Nghiên cứu được tiến hành sau khi đề cương 
nghiên cứu được thông qua Hội đồng Khoa học 
của Trường Đại học Y Hà Nội và được sự đồng 
ý của Hội đồng Khoa học – Y đức của bệnh 
viện Phụ sản Trung ương và các phòng ban 
liên quan. Nghiên cứu không gây ảnh hưởng 
đến sức khỏe và quyền lợi của bệnh nhân cũng 
như của bệnh viện và cộng đồng.
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 102 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh và có kết quả cấy máu dương tính. 
Biểu đồ 1. Phân bố tỷ lệ căn nguyên gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh 
S. marcescen và Coagulase-negative Staphylococcus (CoNS) là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn 
chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 24,5% và 22,5%. Tỷ lệ nhiễm khuẩn do E. coli và K. pneumoniae lần 
lượt là 13,7% và 10,8%. 
2,9 1
22,5
13,7
10,87,8
13,8
1
24,5 S. aureus
Enterococcus
CoNS
E. coli
K. pneumoniae
P. aeruginosa
Khác
Candida albicans
Serratia marcescens
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
95TCNCYH 131 (7) - 2020
Bảng 1. Căn nguyên gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh sớm và muộn
Nhiễm khuẩn huyết sơ sinh sớm Nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn
Căn nguyên n (%) Căn nguyên n (%)
GBS 2 Enterococcus 1,6
E. coli 12 S. aureus 1,6
S. aureus 5 CoNS 17,7
K. pneumoniae 10 K. pneumoniae 11,3
S. marcescens 13 E. coli 14,5
P. aureginosa 15 S. marcescens 32,3
CoNS 28 Vi khuẩn khác 19,4
Khác 15 Candida albicans 1,6
Căn nguyên gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh sớm thường gặp nhất là CoNS chiếm tỷ lệ 27,5%. 
Căn nguyên gây nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn thường gặp nhất là S. marcescens, chiếm tỷ lệ 
32,3%. Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn do nấm thấp (1,6%).
Biểu đồ 2. Tình hình kháng kháng sinh của một số vi khuẩn Gram âm
100% các chủng vi khuẩn S. marcescens, E. coli và K. pneumoniae đều kháng với kháng sinh 
nhóm Penicillin. Tỷ lệ vi khuẩn E. coli kháng với kháng sinh nhóm Aminoglycosid thấp nhất. Tỷ lệ 
kháng của S. marcescens và K. pneumoniae với kháng sinh nhóm Carbapenem trên 60%.
0%
20%
40%
60%
80%
100%
S. marcescens E. coli K. pneumoniae
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
96 TCNCYH 131 (7) - 2020
Bảng 2. Tình hình kháng kháng sinh của các vi khuẩn CoNS (n = 22)
Tên nhóm kháng sinh
Kháng kháng sinh Nhạy cảm
N % n %
Nhóm penicillin (n = 21) 19 90,5 2 9,5
Aminoglycoside (n = 13) 9 69,2 4 30,8
Carbapenem (n = 3) 2 66,7 1 33,3
Quinolon thế hệ 2 (n = 18) 13 72,2 5 27,8
Quinolon thế hệ 3 (n = 18) 13 76,5 4 23,5
Vancomycin (n = 20) 0 0 18 100
Trimethoprim/Sulfamethoxazole (n = 9) 5 55,6 4 44,4%
90% kháng sinh nhóm penicillin bị kháng bởi các vi khuẩn CoNS 100%. Kháng sinh vancomycin 
vẫn còn nhạy cảm với các vi khuẩn này.
IV. BÀN LUẬN
Nguyên nhân thường gặp nhất gây nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh sớm là vi khuẩn CoNS, 
chiếm tỷ lệ 27,5%. Các vi khuẩn gram âm 
gặp với tỷ lệ ít hơn như E. coli là 12,5%, S. 
marcescens là 12,5%, K. pneumoniae là 10%. 
Nghiên cứu của chúng tôi tương tự như nghiên 
cứu của Tehrani khi thấy nguyên nhân gặp 
nhiều nhất của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh 
sớm là CoNS, chiếm tỷ lệ 33,7%, đứng thứ 2 
là S. aureus chiếm tỷ lệ 22%, các căn nguyên 
vi khuẩn gram âm ít gặp hơn.⁷ Nghiên cứu tại 
Australia và New Zealand thấy rằng nguyên 
nhân gặp nhiều nhất của nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh sớm là liên cầu nhóm B (39%) và E. 
coli (25%).8 
Kết quả từ bảng 1 cho thấy căn nguyên gram 
âm thường gặp nhất gây nhiễm khuẩn huyết sơ 
sinh muộn là vi khuẩn S. mascescen (32,3%), 
E. coli (14,5%), K. pneumoniae (11,3%). Căn 
nguyên gram dương gây nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh muộn thường gặp nhất là CoNS chiếm 
tỷ lệ 17,7%. Nghiên cứu của Patel và cộng sự 
cũng cho kết quả tương tự như nghiên cứu của 
chúng tôi khi thấy nguyên nhân chủ yếu của 
nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn là các gram 
âm như E. coli, K. pneumoniae, Enterobacter.9 
Một nghiên cứu khác tại Anh lại chỉ ra rằng 
nguyên nhân chủ yếu của nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh muộn là các vi khuẩn gram dương như 
CoNS (54%), Enterobacter (21%), S. aureus 
(18%).10 Có thể thấy rằng mô hình vi khuẩn gây 
bệnh giữa các nước phát triển và đang phát 
triển là hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt này 
có thể do đặc điểm môi trường của các nước, 
sự tồn tại chủng vi khuẩn ở mỗi bệnh viên khác 
nhau, khả năng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh 
viện ở mỗi nước, mỗi khu vực là khác nhau.
Tại Trung tâm Chăm sóc và Điều trị Sơ sinh 
của Bệnh viện Phụ sản Trung ương, các kháng 
sinh thường được sử dụng để điều trị nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh là Ampicillin – Sulbactam, 
kháng sinh nhóm Aminoglycosid: selemycin 
hoặc amikacin, kháng sinh nhóm Cephalosporin 
thế hệ 3 như Ceftriaxone, Ceftazidime, 
Cefotaxim, nhóm Carbapenem như Imipenem 
và Meropenem, nhóm kháng sinh tổng hợp như 
Vancomycin. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi 
nhận thấy tình hình kháng kháng sinh ngày 
càng phức tạp.
Các vi khuẩn gram âm là căn nguyên 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
97TCNCYH 131 (7) - 2020
thường gặp nhất gây nhiễm khuẩn huyết sơ 
sinh trong nghiên cứu của chúng tôi, có tình 
trạng kháng kháng sinh rất cao. Gần như toàn 
bộ các chủng vi khuẩn gram âm thường gặp 
như S. mascescen, E. coli, K. pneumoniae đều 
là vi khuẩn đa kháng. Trong nhóm này, 100% 
các vi khuẩn kháng lại kháng sinh nhóm Beta 
– lactam, kháng trên 80% với các kháng sinh 
nhóm Aminoglycosid. 100% các vi khuẩn K. 
pneumoniae kháng lại các kháng sinh nhóm 
Cephalosporin thế hệ 3, S. mascescen cũng 
kháng với tỷ lệ trên 80%. Ngoài ra, 80% vi 
khuẩn S. mascescen kháng lại kháng sinh 
nhóm Carbapenem. Các vi khuẩn này vẫn nhạy 
cảm với kháng sinh nhóm Quinolon với tỷ lệ 
cao. 
Các căn nguyên vi khuẩn gram dương 
cũng có tình trạng kháng lại các kháng sinh 
phổ biến trong nhóm Penicillin. 90% vi khuẩn 
CoNS kháng lại các kháng sinh nhóm Penicillin 
như Oxacillin và Benzyl penicillin. Trên 2/3 vi 
khuẩn nhóm này kháng với các kháng sinh 
nhóm Aminoglycosid, Carbapenem và nhóm 
Quinolon. Mặc dù vậy, 100% vi khuẩn nhóm 
này còn nhạy cảm với kháng sinh nhóm 
Vancomycin. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự 
như kết quả nghiên cứu của Shehad El – din 
và cộng sự tại Ai Cập khi thấy rằng 100% vi 
khuẩn K. pneumoniae, S. mascescen kháng lại 
các kháng sinh nhóm Penicillin, Cephalosporin 
thế hệ 3.11 Nghiên cứu của Vergnano và cộng 
sự về nhiễm khuẩn huyết sơ sinh ở Anh cho 
thấy 95% vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết sơ 
sinh sớm còn nhạy cảm với phác đồ phối hợp 
Penicillin và Gentamycin. 84% vi khuẩn gây 
nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn còn nhạy 
cảm với phác đồ phối hợp Flucloxacillin và 
Gentamicin.10 Từ kết quả của các nghiên cứu 
này, chúng tôi có thể đưa ra kết luận rằng không 
chỉ mô hình vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh khác nhau giữa các nước phát triển và 
đang phát triển mà tình hình kháng kháng sinh 
cũng có sự khác biệt giữa các quốc gia có trình 
độ phát triển khác nhau. Có thể giải thích sự 
khác biệt này là do việc lạm dụng kháng sinh 
tại các quốc gia đang và chậm phát triển. Việc 
mua kháng sinh dễ dàng, không cần đơn của 
các bác sĩ cũng làm gia tăng mức độ kháng 
kháng sinh của các vi khuẩn. Tuy nhiên, theo 
một nghiên cứu tại một bệnh viện ở Việt Nam 
lại cho thấy K. pneumoniae kháng kháng sinh 
nhóm Cephalosporin và Aminoglycosid lần lượt 
là 86% và 85% nhưng 90% vi khuẩn này còn 
nhạy với kháng sinh nhóm Carbapenem.⁵ Điều 
này cho thấy rằng trong một quốc gia, giữa các 
bệnh viện khác nhau vẫn có sự khác biệt về mô 
hình vi khuẩn và tình hình kháng kháng sinh 
của các vi khuẩn. Do vậy, việc sử dụng kháng 
sinh theo kinh nghiệm khi chưa có kết quả 
kháng sinh đồ cần căn cứ vào mô hình vi khuẩn 
và tình hình kháng kháng sinh tại địa phương 
và bệnh viện cụ thể.
V. KẾT LUẬN
Căn nguyên chính gây nhiễm khuẩn huyết 
sơ sinh sớm là CoNS và căn nguyên chính 
của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh muộn là S. 
mascescen. Tình hình kháng kháng sinh diễn 
biến phức tạp. Hầu hết các vi khuẩn gây nhiễm 
khuẩn huyết sơ sinh kháng với các kháng sinh 
thông thường được sử dụng trong điều trị 
nhiễm khuẩn huyết sơ sinh tại bệnh viện Phụ 
sản Trung ương. 
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến 
bệnh nhân của tôi và người thân của họ. Xin 
gửi lời cảm ơn đến Ban giám đốc và các phòng 
ban của Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương, các 
đồng nghiệp và bạn bè đã giúp đỡ chúng tôi 
trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành 
bài báo.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
98 TCNCYH 131 (7) - 2020
Summary
ANTIMICROBIAL RESISTANT PATTERN OF BACTERIA 
CAUSING NEONATAL SEPSIS IN THE NATIONAL HOSPITAL 
OF OBSTETRICS AND GYNECOLOGY
Neonatal sepsis is one of the major causes of morbidity and mortality in neonates. Diagnosis 
and treatment of neonatal sepsis is still challenging for neonatologist. Treatment is less efficient 
due to antimicrobial resistant. This study was conducted at the Neonatal center of the National 
hospital of Obstetrics and Gynecology in neonates diagnosed with neonatal sepsis according 
to NICE – UK 2012 and EMA 2010 criteria. The main cause of early – onset infection was 
Coagulase-negative Staphylococcus (CoNS) (28%) and that of late – onset infection was 
S. marcescen (32,3%). 100% S. marcescens, E. coli and K.pneumoniae were resistant to 
Penicillin. The resistant rate of these bacteria groups to Carbapenem was more than 60%. 
Almost all of CoNS were resistant to Penicillin, however, they were all sensitive to Vancomycin.
Keywords: neonatal sepsis, antimicrobial resistant, bacteria
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Krugman S, Gershon AA, Hotez PJ et al. 
Sepsis in the newborn. Krugman’s Infectious 
Diseases of Children. Philadelphia, PA: Mosby; 
2004.
2. Fleischmann-Struzek C, Goldfarb DM, 
Schlattmann P et al. The global burden of 
paediatric and neonatal sepsis: a systematic 
review. Lancet Respir Med. 2018;6(3), 223–
230. PMID: 29508706 DOI: 10.1016/S2213-
2600(18)30063-8
3. Ghotaslou R, Ghorashi Z, Nahaei MR. 
Klebsiella pneumoniae in neonatal sepsis: a 
3-year-study in the pediatric hospital of Tabriz, 
Iran. Jpn J Infect Dis. 2007;60(2-3): p. 126 - 
128. PMID: 17515647
4. Biondi E, Evans R, Mischler M et al. 
Epidemiology of Bacteremia in Febrile Infants 
in the United States. Pediatrics. 2013;132(5): p. 
990 - 996. doi:10.1542/peds.2013-1759
5. Kruse AY, Chuong DHT, Phuong CN et al. 
Neonatal bloodstream infections in a pediatric 
hospital in Vietnam: A cohort study. J Trop Pediatr. 
2013; 59(6): p. 483 - 488. https://academic.oup.
com/tropej/article/59/6/483/1660090
6. Kamalakannan SK. Neonatal Sepsis Past 
to Present. Biomedical Journal of Scientific & 
Technical Research. 2018; 3(3): p. 3309 - 3314. 
DOI: 10.26717/BJSTR.2018.03.000909
7. Tehrani FHE, Moradi M, Ghorbani N. 
Bacterial Etiology and Antibiotic Resistance 
Patterns in Neonatal Sepsis in Tehran during 
2006-2014. Iran J Pathol. 2017; 12(4): p. 356 
- 361. 
8. Singh T, Barnes EH, Isaacs D. Early-onset 
neonatal infections in Australia and New Zealand, 
2002–2012. Arch Dis Child - Fetal Neonatal Ed. 
2019; 104(3), F248–F252. PMID: 29588295 
DOI: 10.1136/archdischild-2017-314671
9. Patel D, Nimbalkar A, Sethi A et al. Blood 
Culture Isolates in Neonatal Sepsis and their 
Sensitivity in Anand District of India. Indian 
J Pediatr. 2014; 81(8): p. 785 - 790. PMID: 
24408399 DOI: 10.1007/s12098-013-1314-
210. Vergnano S, Menson E, Kennea N et al. 
Neonatal infections in England: the NeonIN 
surveillance network. Arch Dis Child - Fetal 
Neonatal Ed. 2011; 96(1): p. F9 - F14. PMID: 
20876594 DOI: 10.1136/adc.2009.178798
11. Shehab El-Din EMR, El-Sokkary MMA, 
Bassiouny MR et al. Epidemiology of Neonatal 
Sepsis and Implicated Pathogens: A Study 
from Egypt. BioMed Research International. 
2015; Volume 2015, 11 pages. https://doi.
org/10.1155/2015/509484

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_khang_khang_sinh_cua_mot_so_vi_khuan_gay_nhiem_kh.pdf