Tình trạng dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng người bệnh ung thư đại trực tràng trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2018-2019

Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 100 người bệnh ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện K năm 2018

- 2019 với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư đại trực tràng trước, sau phẫu thuật

và chế độ nuôi dưỡng trong 7 ngày sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy trước phẫu thuật có 55% người bệnh có

nguy cơ suy dinh dưỡng theo phân loại SGA (Phương pháp đánh giá dinh dưỡng chủ quan - Subjective Global

Assessment of nutritional status), 36% suy dinh dưỡng theo chỉ số Albumin. Tỷ lệ người bệnh bị giảm cân trong

6 tháng và 1 tháng trước phẫu thuật lần lượt là 80% và 79% trong đó có 11% người bệnh bị giảm cân trên 10%.

Sau phẫu thuật 7 ngày: theo chỉ số khối cơ thể (BMI) tỷ lệ người bệnh suy dinh dưỡng tăng lên 8% đồng thời tỷ lệ

thừa cân giảm 3%, có 92% người bệnh bị giảm cân so với trước khi phẫu thuật, cân nặng giảm trung bình là 1,86

± 1,09 kg. Sau phẫu thuật người bệnh được nuôi dưỡng tĩnh mạch trung bình trong 6,3 ngày, thời gian bắt đầu

được tập ăn đường miệng là 3,3 ± 2,4 ngày, tỷ lệ người bệnh đáp ứng nhu cầu khuyến nghị về năng lượng còn chưa

cao, hầu hết các khẩu phần của người bệnh không đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị về vitamin và chất khoáng

pdf 9 trang phuongnguyen 160
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng người bệnh ung thư đại trực tràng trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2018-2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng người bệnh ung thư đại trực tràng trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2018-2019

Tình trạng dinh dưỡng và chế độ nuôi dưỡng người bệnh ung thư đại trực tràng trước và sau phẫu thuật tại Bệnh viện K năm 2018-2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
82 TCNCYH 129 (5) - 2020
Tác giả liên hệ: Hoàng Việt Bách, 
Trung tâm dinh dưỡng lâm sàng – Bệnh viện K 
Email: [email protected]
Ngày nhận: 07/02/2020
Ngày được chấp nhận: 25/04/2020
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ CHẾ ĐỘ NUÔI DƯỠNG 
NGƯỜI BỆNH UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG TRƯỚC VÀ SAU 
PHẪU THUẬT TẠI BỆNH VIỆN K NĂM 2018 - 2019
Hoàng Việt Bách1, , Nguyễn Thị Thảo2, Nguyễn Thị Hồng Tiến1, Đặng Thị Hằng1, 
Dương Thị Yến1, Đặng Đức Dịu1, Lê Thị Hương1,2.
1Trung tâm dinh dưỡng lâm sàng – Bệnh viện K 
2Viện ĐT YHDP&YTCC, Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến hành trên 100 người bệnh ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện K năm 2018 
- 2019 với mục tiêu mô tả tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư đại trực tràng trước, sau phẫu thuật 
và chế độ nuôi dưỡng trong 7 ngày sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy trước phẫu thuật có 55% người bệnh có 
nguy cơ suy dinh dưỡng theo phân loại SGA (Phương pháp đánh giá dinh dưỡng chủ quan - Subjective Global 
Assessment of nutritional status), 36% suy dinh dưỡng theo chỉ số Albumin. Tỷ lệ người bệnh bị giảm cân trong 
6 tháng và 1 tháng trước phẫu thuật lần lượt là 80% và 79% trong đó có 11% người bệnh bị giảm cân trên 10%. 
Sau phẫu thuật 7 ngày: theo chỉ số khối cơ thể (BMI) tỷ lệ người bệnh suy dinh dưỡng tăng lên 8% đồng thời tỷ lệ 
thừa cân giảm 3%, có 92% người bệnh bị giảm cân so với trước khi phẫu thuật, cân nặng giảm trung bình là 1,86 
± 1,09 kg. Sau phẫu thuật người bệnh được nuôi dưỡng tĩnh mạch trung bình trong 6,3 ngày, thời gian bắt đầu 
được tập ăn đường miệng là 3,3 ± 2,4 ngày, tỷ lệ người bệnh đáp ứng nhu cầu khuyến nghị về năng lượng còn chưa 
cao, hầu hết các khẩu phần của người bệnh không đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị về vitamin và chất khoáng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là một trong những nguyên nhân 
gây tử vong hàng đầu trên thế giới, có xu hướng 
ngày càng gia tăng và trở thành gánh nặng cho 
toàn xã hội.¹ Năm 2018 theo GLOBOCAN trên 
thế giới có 18,1 triệu ca mắc mới và số ca tử 
vong vì ung thư là 9,6 triệu người trong đó Ung 
thư đại trực tràng đứng thứ 3 về tỉ lệ mắc mới 
(10,2%) và đứng thứ 3 về tỉ lệ tử vong (9,2%). 
Tại Việt Nam Ung thư đại trực tràng đứng thứ 4 
ở nam (8,4%) và thứ 2 ở nữ (9,6%).²
 Suy dinh dưỡng được coi là một yếu tố tiên 
lượng làm giảm chất lượng cuộc sống cũng như 
ảnh hưởng tới kết quả điều trị của bệnh nhân 
ung thư nói chung và Ung thư đại trực tràng 
nói riêng. Theo Monika Zietarska năm 2017 có 
73,3% người bệnh ung thư đại trực tràng có 
nguy cơ suy dinh dưỡng trong đó 2,7% thuộc 
nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng cao.³ Nghiên 
cứu của Burden ST và cộng sự (2010) trên 
đối tượng người bệnh ung thư đại trực tràng 
cho thấy sau phẫu thuật có 77% người bệnh bị 
giảm cân trong đó 20% người bệnh giảm trên 
10% trọng lượng cơ thể trong vòng 2 tháng.4 
Người bệnh suy dinh dưỡng có nguy cơ tử 
vong, nhiễm trùng cao hơn từ 5 - 52%, tăng các 
biến chứng sau mổ, giảm khả năng đáp ứng 
với điều trị, tăng chi phí nằm viện do thời gian 
nằm viện kéo dài.⁵ Theo Garth AK (2010) trên 
người bệnh ung thư đường tiêu hoá thấy rằng 
thời gian nằm viện trung bình là 12 ngày, tỉ lệ 
biến chứng 35%, trong đó nhóm người bệnh 
giảm trên 10% cân nặng thì số ngày nằm viện 
là 17 ngày, người bệnh suy dinh dưỡng số 
ngày nằm viện gấp hai lần so với người bệnh 
Từ khoá:Tình trạng dinh dưỡng, Nuôi dưỡng, Ung thư đại trực tràng, Phẫu thuật
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
83TCNCYH 129 (5) - 2020
có dinh dưỡng tốt (15,8 ngày và 7,6 ngày) với p 
< 0,05.⁶ Cho tới nay ở Việt Nam chưa có nhiều 
nghiên cứu mô tả tình trạng dinh dưỡng của 
người bệnh ung thư đại trực tràng, đồng thời 
việc nuôi dưỡng người bệnh sau phẫu thuật 
vẫn chưa được quan tâm nhiều, do đó chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: mô tả 
tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Ung thư 
đại trực tràng trước, sau phẫu thật và chế độ 
nuôi dưỡng trong 7 ngày sau phẫu thuật.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.Đối tượng 
Người bệnh trên 18 tuổi, chẩn đoán ung 
thư đại tràng hoặc ung thư trực tràng nguyên 
phát bằng kết quả giải phẫu bệnh, có thể có 
hoặc không có các bệnh lý tiêu hóa hoặc một 
số bệnh mạn tính kèm theo, nhập viện phẫu 
thuật có chuẩn bị, có khả năng nghe hiểu, hồ 
sơ bệnh án đầy đủ và đồng ý tham gia nghiên 
cứu.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu và chọn mẫu
Cỡ mẫu
Dựa vào công thức tính cỡ mẫu cho ước 
tính một tỉ lệ trong quần thể
Trong đó: 
n: Tổng đối tượng cần điều tra
α: Mức ý nghĩa thống kê (chọn α = 0,05)
d = 0,1 là khoảng sai lệch mong muốn giữa 
mẫu và quần thể nghiên cứu.
p: Là tỉ lệ suy dinh dưỡng của người bệnh 
lấy từ một nghiên cứu trước (p = 0,394).⁷
Thêm 10% dự phòng người bệnh bỏ cuộc, 
các phiếu sai sót thông tin.
Như vậy cỡ mẫu tối thiểu là 100 đối tượng.
Chọn mẫu: chọn mẫu thuật tiện, tất cả các 
người bệnh đủ điều kiện trong khoảng thời 
gian từ tháng 7/2018 tới tháng 3/2019 tại khoa 
Ngoại bụng 1 và Ngoại bụng 2 đều được chọn 
vào tham gia nghiên cứu.
Các nội dung nghiên cứu
 - Đặc điểm chung: tuổi, giới, dân tộc, địa 
chỉ, nghề nghiệp, trình độ học vấn.
 - Tình trạng dinh dưỡng: chiều cao, cân 
nặng, cân nặng 1 tháng trước, cân nặng 6 
tháng trước, phần trăm mỡ cơ thể, BMI, SGA, 
Albumin.
 - Chế độ nuôi dưỡng: Đường nuôi dưỡng, 
thành phần các chất dinh dưỡng trong dịch 
truyền và trong khẩu phần ăn trong 7 ngày sau 
phẫu thuật.
Kỹ thuật và công cụ thu thập số liêu
Kỹ thuật thu thập thông tin: phương pháp 
phỏng vấn trực tiếp đối tượng theo bộ câu hỏi, 
kết hợp với phương pháp quan sát, đo lường 
các chỉ số nhân trắc học, phương pháp hỏi ghi 
khẩu phần 24h, một số thông tin về kết quả cận 
lâm sàng được lấy từ hồ sơ bệnh án. 
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi được 
xây dựng sẵn, cân Tanita, thước gỗ đo chiều 
cao, quyển ảnh dùng trong điều tra khẩu phần 
ăn của Viện Dinh dưỡng Quốc gia.
3. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi được thu thập sẽ được 
làm sạch, nhập vào máy tính bằng phần mềm 
epidata 3.1, phân tích số liệu bằng phần mềm 
STATA 12.0, phân tích chế độ ăn sử dụng bảng 
thành phần các chất dinh dưỡng của Viện Dinh 
dưỡng Quốc gia năm 2007. Sau đó kết quả sẽ 
được đối chiếu với khuyến nghị của các tổ chức 
để tính ra tỷ lệ người bệnh đạt nhu cầu.
4. Đạo đức nghiên cứu
Người bệnh được giải thích rõ mục đích và 
cách thức thực hiện nghiên cứu, tự nguyện 
tham gia vào nghiên cứu. Các thông tin của 
người bệnh được bảo mật và chỉ được sử dụng 
trong nghiên cứu. Người bệnh có thể từ chối 
tham gia nghiên cứu tại bất cứ thời điểm nào 
mà không cân thông báo lý do.
n = Z1- α 2⁄2 p (1-p)
d
2 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
84 TCNCYH 129 (5) - 2020
III. KẾT QUẢ
1. Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh Ung thư đại trực tràng trước và sau phẫu thuật.
Nghiên cứu được tiến hành trên 100 người bệnh với tỷ lệ giữa nam và nữ lần lượt là 58% và 42%. 
Tuổi trung bình của đối tượng là 58,6 ± 1,07 tuổi. Đa số người bệnh tham gia nghiên cứu là nông dân 
(42%). Tỷ lệ người bệnh mắc ung thư trực tràng cao nhất với 35,7%.
Theo các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng về BMI, SGA, Albumin trước phẫu thuật 
tỷ lệ suy dinh dưỡng giữa 2 nhóm ung thư đại tràng và ung thư trực tràng là khác nhau. Tuy nhiên 
chỉ có sự khác biệt về chỉ số Albumin giữa nhóm ung thư trực tràng và ung thư đại tràng (lần lượt là 
51,7% và 28,1%) là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (Bảng 1).
Bảng 1.Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh trước phẫu thuật theo vị trí ung thư
Ung thư đại tràng
n (%)
Ung thư trực tràng
n (%)
Chung
n (%)
p
BMI
BMI < 18,5 16 (24,6) 8 (22,9) 24 (24%)
p > 0,05*18,5 ≤ BMI < 25 43 (66,2) 22(62,9) 65 (65%)
BMI ≥ 25 6 (9,2) 5 (14,3) 11 (11%)
SGA
SGA - A 29 (44,6) 16 (45,7) 45 (45%)
p > 0,05*SGA - B 35 (53,8) 18 (51,4) 53 (53%)
SGA - C 1(1,6) 1 (2,9) 2 (2%)
Albumin
 < 35 g/l 16 (28,1) 15 (51,7) 31 (36%)
p < 0,05**
≥ 35 g/l 41 (71,9) 14 (48,3) 55 (64%)
* Fisher - exact test, ** X² test T
ình trạng giảm cân trong 6 tháng gần đây ở người bệnh Ung thư đại trực tràng chiếm tỷ lệ cao 
(80%). Trong đó tình trạng sụt cân đáng kể (giảm ≥ 10% cân nặng) chiếm 11%. Tỷ lệ giảm cân trong 
1 tháng gần đây là 70% trong đó có 7% đối tượng giảm ≥ 10% trọng lượng cơ thể (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1. Tình trạng giảm cân của người bệnh trong vòng 6 tháng và 1 tháng 
trước phẫu thuật
11 7
69
63
20
30
6 THÁNG 1 THÁNG
Không giảm/ Tăng cân Giảm <10% Giảm ≥ 10%
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
85TCNCYH 129 (5) - 2020
Cả ba chỉ số cân nặng, phần trăm mỡ cơ thể và BMI trước phẫu thuật đều giảm sau phẫu thuật 
7 ngày. Tuy nhiên chỉ có sự khác biệt ở chỉ số cân nặng trung bình là có ý nghĩa thống kê với mức 
giảm trung bình là 1,8kg sau 7 ngày phẫu thuật với p < 0,05 (Bảng 2)
Bảng 2. tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu trước và sau phẫu thuật
Đặc điểm
Trước phẫu thuật Ngày thứ 7 sau phẫu thuật
p
(X ± SD) Min - Max (X ± SD) Min - Max
Cân nặng (kg) 52,3 ± 9,1 31,8 - 82 50,5 ± 8,8 30,2 - 79,5 p < 0,05*
Phần trăm mỡ cơ thể (%) 22,1 ± 7,8 5,2 - 41,2 22,0 ± 7,4 5,7 - 46,2 p > 0,05*
BMI (kg/m²) 20,9 ± 3,0 14,3 - 29,3 20,2 ± 3,0 12,7 - 27,8 p > 0,05*
2. Chế độ nuôi dưỡng người bệnh Ung thư đại trực tràng trong 7 ngày sau phẫu thuật.
Trong 7 ngày sau phẫu thuật, 2 ngày đầu tiên người bệnh được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng 
đường tĩnh mạch và giảm dần trong những ngày sau đó.. Thời gian trung bình bắt đầu được ăn 
đường miệng ở đối tượng nghiên cứu là 3,3 ngày. Người bệnh được nuôi ăn đường miệng sớm nhất 
bắt đầu vào ngày thứ 3 sau phẫu thuật chiếm 41%, có 13 người bệnh vẫn chưa được bắt đầu ăn vào 
ngày thứ 7 sau phẫu thuật chiếm tỷ lệ 13% (Bảng 3).
Bảng 3. Đường nuôi dưỡng người bệnh trong 7 ngày sau phẫu thuật
Tĩnh mạch Tĩnh mạch + đường miệng Đường miệng
n % n % n %
Ngày thứ 1 100 100 0 0 0 0
Ngày thứ 2 100 100 0 0 0 0
Ngày thứ 3 57 57 41 41 2 2
Ngày thứ 4 37 37 61 61 2 2
Ngày thứ 5 21 21 72 72 7 7
Ngày thứ 6 16 16 67 67 17 17
Ngày thứ 7 13 13 66 66 21 21
Trong 7 ngày sau phẫu thuật, tỷ lệ đáp ứng nhu cầu khuyến nghị theo ESPEN và Viện Dinh 
dưỡng Quốc gia tương đối thấp (1,6%) thấp nhất vào ngày thứ 3 và thứ 4 sau phẫu thuật13,15 (Bảng 
4).
 Bảng 4. Đáp ứng nhu cầu năng lượng và protein sau phẫu thuật
Năng lượng 
n (%)
Protein 
n (%)
ESPEN VDD ESPEN VDD
Ngày 1
Đạt ≥ 75% 31 (31%) 22 (22%) 25 (25%) 33 (33%)
Đạt ≥ 100% 1 (1%) 0 (0%) 1 (1%) 1 (1%)
Ngày 2
Đạt ≥ 75% 28 (28%) 21 (21%) 21 (21%) 33 (33%)
Đạt ≥ 100% 3 (3%) 1 (1%) 2 (2%) 2 (2%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
86 TCNCYH 129 (5) - 2020
Năng lượng 
n (%)
Protein 
n (%)
ESPEN VDD ESPEN VDD
Ngày 3
Đạt ≥ 75% 2 (2%) 2 (2%) 3 (3%) 4 (4%)
Đạt ≥ 100% 1 (1%) 1 (1%) 1 (1%) 1 (1%)
Ngày 4
Đạt ≥ 75% 4 (4%) 4 (4%) 4 (4%) 15 (15%)
Đạt ≥ 100% 1 (1%) 1 (1%) 2 (2%) 2 (2%)
Ngày 5
Đạt ≥ 75% 22 (22%) 11 (11%) 23 (23%) 44 (44%)
Đạt ≥ 100% 2 (22%) 2 (2%) 1 (1%) 12 (12%)
Ngày 6
Đạt ≥ 75% 27 (27%) 25 (25%) 18 (18%) 29 (29%)
Đạt ≥ 100% 2 (2%) 1 (1%) 2 (2%) 19 (19%)
Ngày 7
Đạt ≥ 75% 28 (28%) 27 (27%) 27 (27%) 23 (23%)
Đạt ≥ 100% 1 (1%) 1 (1%) 2 (2%) 21 (21%)
Sau phẫu thuật, hầu hết chế độ nuôi dưỡng không đáp ứng đủ nhu cầu vitamin và chất khoáng.15 
Không có đối tượng nghiên cứu nào được cung cấp đủ nhu cầu khuyến nghị về EPA, arginine, selen. 
Nuôi dưỡng đầy đủ vitamin B6, vitamin B12, Acid folic, vitamin C, sắt, kẽm, đều rất thấp, tỷ lệ này 
tăng dần vào các ngày sau đó khi người bệnh được chuyển sang nuôi dưỡng đường miệng, tới ngày 
thứ 7 tỷ lệ này lần lượt là 23%, 26%, 25%, 13%, 17% và 15%. Trong 2 ngày đầu sau phẫu thuật 
phần lớn người bệnh đều không được cung cấp vitamin và các loại chất khoáng thiết yếu trong các 
loại dịch truyền (Bảng 5).
Bảng 5. Giá trị một số vitamin và khoáng chất từ khẩu phần sau phẫu thuật
Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 Ngày 5 Ngày 6 Ngày 7
Ca:P 
X (n%)
0 (0%) 0 (0%)
0,2 ( 
3%)
0,2 (5%)
0,3 
(21%)
0,7 
(42%)
0,9 
(46%)
Vitamin B12 (µg/ngày)
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%)
0,1 
(13%)
0,2 
(14%)
0,5 
(19%)
0,8 
(24%)
1,1 
(26%)
Vitamin B6 (µg/ngày)
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%) 0,3 (7%) 2 (13%)
0,9 
(13%)
1,9 
(20%)
0,6 
(23%)
Acid Folic (µg/ngày) 
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%)
1,7 
(10%)
11,1 
(14%)
40,9 
(18%)
72,5 
(23%)
85,1 
(25%)
Vitamin C (mg/ngày)
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%) 0,4 (0%) 0,5 (0%)
10,4 
(3%)
25,5 
(8%)
32,4 
(13%)
Sắt (mg/ngày)
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%) 0,2 (0%) 0,8 (5%)
1,8 
(11%)
2,7 
(15%)
3,1 
(17%)
Kẽm (mg/ngày)
 X (n%)
0 (0%) 0 (0%) 0,3 (3%) 0,9 (6%)
2,1 
(12%)
3,6 
(12%)
3,5 
(15%)
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
87TCNCYH 129 (5) - 2020
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy cân nặng trung 
bình của người bệnh giảm 1,8 kg sau 7 ngày 
phẫu thuật. Beattie và cộng sự nghiên cứu trên 
đối tượng người bệnh phẫu thuật đường tiêu 
hoá chỉ ra sau phẫu thuật cân nặng của người 
bệnh bị giảm 4,21 kg.8 Sự khác biệt này là do 
thời gian theo dõi của 2 nghiên cứu là khác 
nhau, người bệnh trong nghiên cứu này được 
theo dõi trong 1 tuần ngắn hơn của Beattie là 2 
tuần, quá trình ghi nhận sự suy giảm cân nặng 
của người bệnh được theo dõi dài hơn, mất cân 
sẽ nhiều hơn.
 Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo SGA, 
trước phẫu thuật tỷ lệ người bệnh có nguy cơ 
suy dinh dưỡng là 55% trong đó có 2% xếp loại 
suy dinh dưỡng mức độ nặng. Nghiên cứu của 
Gupta và cộng sự tình trạng dinh dưỡng cũng 
được đánh giá bằng công cụ SGA cho thấy tỉ 
lệ suy dinh dưỡng là tương đồng với nghiên 
cứu này là 52%.9 Theo BMI, trước phẫu thuật tỷ 
lệ suy dinh dưỡng chung là 24% và tỷ lệ thừa 
cân béo phì là 11%, sau phẫu thuật tỷ lệ người 
bệnh suy dinh dưỡng là 32% và tỷ lệ thừa cân 
béo phì là 8%. Kết quả này có sự khác biệt so 
với nghiên cứu tại Đài Loan năm 2012 cũng 
trên đối tượng Ung thư đại trực tràng khi tỷ lệ 
suy dinh dưỡng là 4,4% và tỷ lệ béo phì lên tới 
46,6%.18 Điều này có thể giải thích do các yếu 
tố về dịch tễ, chủng tộc, di truyền tác động tới 
chỉ số nhân trắc ở các nước khác nhau là khác 
nhau đồng thời nghiên cứu tại Đài Loan lấy 
mức giá trị thừa cân béo phì là từ 24 kg/m² khác 
với nghiên cứu này là 25 kg/m². Nghiên cứu 
của Dương Thị Phượng năm 2016 tỷ lệ người 
bệnh có nồng độ Albumin máu thấp < 35g/l là 
31,8%,11 kết quả này tương tự như nghiên cứu 
của chúng tôi với tỷ lệ đối tượng albumin máu 
thấp là 36%. Tuy nhiên theo nghiên cứu của 
Hu WH và cộng sự nghiên cứu trên quy mô lớn 
kéo dài từ năm 2009 - 2013 trên người bệnh 
ung thư cho thấy tỷ lệ người bệnh có nồng độ 
Albumin máu thấp là 27,3% thấp hơn so với 
nghiên cứu này, điều này có thể giải thích do 
nghiên cứu của Hu WH tiến hành trên nhiều 
nhóm người bệnh ung thư khác nhau trong khi 
nghiên cứu này chỉ thực hiện trên nhóm người 
bệnh Ung thư đại trực tràng.15
Trọng lượng là chỉ số cơ bản và quan trọng 
cho việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng và tình 
trạng sức khoẻ của cơ thể. Việc mất 10% trọng 
lượng cơ thể vào bất cứ khoảng thời gian nào 
cũng được coi là bằng chứng xác định suy dinh 
dưỡng. Trong nghiên cứu có 80% người bệnh 
có hiện tượng sụt cân trong 6 tháng gần đây 
trong đó có 11% người bệnh sụt cân nghiêm 
trọng ≥ 10% cân nặng. Nghiên cứu của Gath 
AK và cộng sự năm 2010 trên đối tượng người 
bệnh ung thư đường tiêu hoá cho thấy tỉ lệ sụt 
cân nghiêm trọng trước phẫu thuật lên tới 52%, 
cao hơn rất nhiều nghiên cứu này. Sự khác biệt 
này do tiêu chuẩn đánh giá của hai nghiên cứu 
là khác nhau tác giả lấy tỷ lệ sụt cân đáng kể khi 
sụt < 2% cân nặng trong tuần trước khi nhập 
viện hoặc > 5% trong 1 tháng gần đây, hoặc > 
7,5% trong 3 tháng gần đây hoặc > 10% trong 
6 tháng gần đây.⁶ 
Sau phẫu thuật 100% người bệnh được 
nuôi dưỡng đường tĩnh mạch hoàn toàn trong 2 
ngày đầu. Tỷ lệ sử dụng nuôi dưỡng tĩnh mạch 
giảm dần trong những ngày sau đó. Trung bình 
sau 3,3 ngày người bệnh bắt đầu được tập ăn 
trở lại, người bệnh được nuôi ăn đường miệng 
sớm nhất vào ngày thứ 3 sau phẫu thuật, có 
13% người bệnh tới ngày thứ 7 vẫn được 
nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh mạch. 
Nghiên cứu này người bệnh được nuôi ăn 
đường miệng sớm hơn nghiên cứu can thiệp 
của Chu Thị Tuyết trên nhóm người bệnh đối 
chứng với giá trị trung bình là 109,5 giờ (4,56 
ngày) đồng thời nghiên cứu cũng chỉ ra việc 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
88 TCNCYH 129 (5) - 2020
nuôi dưỡng sớm cho người bệnh trung bình ở 
giờ thứ 37,7 là an toàn và giúp giảm thời gian 
nằm viện cho những người bệnh phẫu thuật 
đường tiêu hóa.10 Nuôi dưỡng sớm đường 
miệng ở những người bệnh phẫu thuật tiêu hóa 
giúp phục hồi nhanh các nhung mao ruột, giảm 
thẩm lậu vi khuẩn, giảm các biến chứng sau 
phẫu thuật và thời gian nằm viện. Người bệnh 
Ung thư đại trực tràng được khuyến nghị nuôi 
dưỡng sớm đường tiêu hóa trong vòng 24h đầu 
và chuyển sang ăn mềm trong vòng 48h sau 
phẫu thuật.12
Về tổng năng lượng cung cấp từ khẩu phần 
7 ngày sau phẫu thuật, nhìn chung năng lượng 
trung bình chỉ đạt được 50% - 60% nhu cầu 
khuyến nghị của ESPEN. Trong 2 ngày đầu, 
năng lượng cung cấp đạt cao nhất là 750 kcal/
ngày và 730 kcal/ngày và thấp nhất vào ngày 
thứ 3 và thứ 4 chỉ đạt 433 kcal/ngày ở ngày thứ 
3 và 533 kcal/ngày ngày thứ 4. Có sự thay đổi 
này là do khi người bệnh bắt đầu được tập ăn 
đường miệng thì các bác sĩ bắt đầu giảm dần 
hoặc ngừng nuôi dưỡng bằng dịch truyền trong 
khi nuôi dưỡng đường miệng của người bệnh 
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị, 
đặc biệt đa số người bệnh được tập ăn bằng 
nước cháo muối vào ngày thứ 3 và thứ 4, nên 
tổng năng lượng từ đường tĩnh mạch và đường 
miệng còn thấp, chênh lệch lớn với nhu cầu 
khuyến nghị đặc biệt vào 2 ngày này. Nghiên 
cứu của Nguyễn Thị Thanh tại Bệnh viện Đại 
học Y và Bệnh viện Bạch Mai năm 2017 có kết 
quả cao hơn nhiều so với chúng tôi khi năng 
lượng ngày đầu tiên và ngày thứ 2 đạt 1010,6 
kcal và 1017,4 kcal trong khi đó các ngày tiếp 
theo giá trị khẩu phần cũng cho kết quả tương 
đối giống nghiên cứu này khoảng 638,1 kcal/
ngày sự khác biệt này có thể là do, trong 2 
ngày đầu sau phẫu thuật chủ yếu người bệnh 
được nuôi dưỡng hoàn toàn bằng đường tĩnh 
mạch và đặc điểm chỉ định dịch truyền của các 
bác sĩ giữa các bệnh viện khác nhau.⁷ Trong 
nghiên cứu của Geirsdottir (2008) và Surwillo 
(2013) trên nhóm người bệnh ung thư, năng 
lượng người bệnh được cung cấp đều cao hơn 
nghiên cứu này lần lượt là 1905 ± 500 Kcal/
ngày và 1608 ± 436 Kcal/ngày.16,17 Nuôi dưỡng 
không đầy đủ ở những người bệnh sau phẫu 
thuật có liên quan tới kết quả đầu ra kém làm 
tăng tỉ lệ biến chứng, thời gian nằm viện, tỷ lệ 
tử vong ở những người bệnh ung thư đường 
tiêu hoá trên và Ung thư đại trực tràng. Do đó 
cân đối giữa lượng dịch truyền cùng với chế độ 
dinh dưỡng đường miệng là hết sức cần thiết 
khi chăm sóc sau phẫu thuật cho người bệnh 
Ung thư đại trực tràng.
 Chế độ ăn của người bệnh những ngày 
đầu chủ yếu là nước cháo muối, những ngày 
sau chuyển dần sang chế độ ăn mềm với số 
lượng hạn chế. Dẫn tới giá trị của vitamin và 
chất khoáng trong chế độ nuôi dưỡng bị thiếu 
hụt rất nhiều trong khi các chất này giữ vai trò 
quan trọng trong quá trình liền vết thương và 
sự hồi phục của người bệnh.13 Đặc biệt các 
người bệnh trong nghiên cứu cũng không được 
cung cấp đầy đủ các loại acid amin cần thiết 
như Arginne hay DHA, EPA, Selen những chất 
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc 
phòng chống và hạn chế suy mòn ung thư.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của người bệnh ung 
thư đại trực tràng đang ở mức khá cao, cùng 
với đó là tình trạng giảm cân sau phẫu thuật, 
chế độ ăn chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến 
nghị từ ngày thứ 4 sau phẫu thuật. Vì vậy, cần 
có những can thiệp dinh dưỡng phù hợp đặc 
biệt là chế độ nuôi dưỡng sau phẫu thuật nhằm 
cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh 
phẫu thuật ung thư đại trực tràng.
 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.World Health Organization (WHO). Global 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
89TCNCYH 129 (5) - 2020
action against cancer, Geneva, Swit - zerland.
https://apps.who.int/iris/handle/10665/43203
2. International Agency for Research on 
Cancer (IARC). New Global cancer data.https://
www.uicc.org/new - global - cancer - data - 
globocan - 2018
3. Monika Zeietarska, Joanna Krawczyk, 
Renata Zaucha. Nutrition status assessment in 
colorectal cancer patients qualified to systemic 
treatment, Nutr aid, 2017; 21(2): 157 - 161
4. Burden ST, Hill J, Shaffer JL, Todd C.J 
. Nutritional status of preoperative colorectal 
cancer patients.J Hum Nutr Diet Off J Br Diet 
Assoc,2010 Aug; 23(4):402 - 7
5. Patel HJ, Patel BM. TNF - alpha and 
cancer cachexia: molecular insights and clinical 
implications. Life Sci 2017;170:56e63 
6. Garth AK, Newsome CM, Simmance. 
Nutritional status, nutrition practices and 
post - operative complications in patients with 
gastrointestinal cancer.J Hum Nutr Diet, 2010 
Aug; 23(4):393 - 401
7. Nguyễn Thị Thanh.Thực trạng dinh 
dưỡng trước và sau phẫu thuật của người bệnh 
ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Bạch Mai 
và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, luận văn thạc 
sỹ y học, Đại học Y Hà Nội, 2017
8. Beattie A.H, Prach A.T, Baxter J.P. A 
randomised controlled trial evaluating the use of 
enteral nutritional supplements postoperatively 
in malnourished surgical patients, Gut, 2000,46 
(6), 813 - 818
9. Gupta D., Lis C.G., GranicK. Malnutrition 
was associated with poor quality of life in 
colorectal cancer: a retrospective analysis. J 
Clin Epidemiol, 2006,59 (7), 704 - 709
10. Chu Thị Tuyết. Hiệu quả dinh dưỡng 
toàn diện cho người bệnh phẫu thuật ổ bụng 
- tiêu hoá mở có chuẩn bị tại khoa ngoại bệnh 
viện Bạch Mai năm 2013. Luận án tiến sĩ, Viện 
vệ sinh dịch tễ trung ương, Hà Nội
11. Dương Thị Phượng, Nguyễn Thị Thuỳ 
Linh, Lê Thị Hương (2016). Tình trạng dinh 
dưỡng của người bệnh ung thư tại bệnh viện 
Đại Học Y Hà Nội năm 2016, Tạp chí nghiên 
cứu Y học, 106 (1) - 2017
12. Arends J, Bachmann P, Baracos V, 
Barthelemy N, Bertz H, Bozzetti F, et al. ESPEN 
guidelines on nutrition in cancer patients. Clin 
Nutr 2017;36(1):11e48. 
13. Marimuthu K, Varadhan KK, Ljungqvist 
O. A meta - analysis of the effect of combinations 
of immune modulating nutrients on outcome in 
patients undergoing major open gastrointestinal 
surgery. Ann Surg 2012;255(6):1060e8 
14. Viện Dinh dưỡng (2016), Nhu cầu dinh 
dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà 
xuất bản Y học.
15. HU wH, Lemarie E, Michallet M, de 
Montreuil CB, Schneider SM, Goldwasser F. 
Prevalence of malnutrition and current use 
of nutrition support in patients with cancer. 
JParenter Enteral Nutr2014;38(2):196e204 
16. Geirsdottir G and Thorsdottir I. Nutritional 
status of cancer patients in chemotherapy; 
dietary intake, nitrogen balance and screening. 
2008, Food Nutr Res, 52 (0)
17. Surwillo A and Wawrzyniak A. Nutritional 
assessment of selected patients with cancer. 
Rocz Panstw Zakl Hig, 2013, 64 (3), 225 - 233
18. Tu M. - Y, Chien T. - W, chou M. - . 
Useing a nutritional screeninh tool to evaluate 
the nutritional status of patients with colorectal 
cancer. Nutr Cancer, 2012, 64(2), 323 - 330
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
90 TCNCYH 129 (5) - 2020
Summary
NUTRITIONAL STATUS AND FEEDING OF PREOPERATIVE AND 7 
DAYS POSTOPERATIVE PATIENTS WITH COLORETAL CANCER 
AT THE NATIONAL CANCER HOSPITAL, 2018 - 2019.
A cross - sectional study was conducted among 100 patients with colorectal cancer at the 
National cancer hospital between 2018 - 2019 to assess nutritional status of colorectal cancer 
preoperative and postoperative colorectal patients and their dietary intake during 7 days - post 
operation. The results showed that 55% of hospitalized patients were at risk of malnutrition 
according SGA tool, 36% of hospitalized patients had malnutrition according to the Albumin index. 
The percentage of patients who lost weight within 6 months and 1 month were 80% and 79% 
respectively, in which 11% patients lost more than 10% body weight. Additionally, the research 
also demonstrated that after 7 days of operation, the proportion of malnutrition patients increase 
to 8%, as well as the portion of over weight patients decrease to 3%. 92% patients lost weight 
compared to before and after surgery, the average weight lost was 1.86 ± 1.09 kg. For patients 
in the postoperative period, there was average 6.3 days fed by parenteral nutrition. Oral intake 
average started at 3.3 ± 2.4 days. The proportion of patients meeting the energy recommendation 
was miserable. Diet for surgical patients was insufficient in terms of mineral and vitamins.
Keywords: nutritional status, nourishment, colorectal cancer, surgery.

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_dinh_duong_va_che_do_nuoi_duong_nguoi_benh_ung_th.pdf