Tính thích hợp của chất lượng thông tin Báo cáo tài chính-Cơ sở lý luận và thực trạng trong các doanh nghiệp tại Việt Nam

TÓM TẮT

Chất lượng thông tin (CLTT) Báo cáo tài

chính (BCTC) là một chủ đề thu hút được sự

quan tâm của nhiều đối tượng nghiên cứu trong

lĩnh vực kế toán (KT) (Céline Michailesco,

2010). Phạm (2016) đã tiến hành tổng hợp các

nghiên cứu về CLTT BCTC trong khoảng thời

gian từ năm 1980 đến 2016, kết quả cho thấy

các thuộc tính đánh giá CLTT BCTC khá đa

dạng, tổng cộng đã có đến 15 thuộc tính được

xác định. Nghiên cứu của Phạm (2016) cũng

cho thấy các nghiên cứu trong mọi giai đoạn

đều xem các thuộc tính đánh giá CLTT, được

công bố bởi các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp

như Hiệp hội kế toán Hoa kỳ (AAA), Hội đồng

chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ (FASB);

Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB),

là nền tảng lý thuyết vững chắc. Bên cạnh sự

đa dạng, nghiên cứu về CLTT BCTC vẫn có

những điểm chung, trong đó nổi bật là tính

Thích hợp (Relevance) luôn được các tổ chức,

hiệp hội nghề nghiệp xem là thành phần chất

lượng cơ bản của thông tin trên BCTC

pdf 10 trang phuongnguyen 4840
Bạn đang xem tài liệu "Tính thích hợp của chất lượng thông tin Báo cáo tài chính-Cơ sở lý luận và thực trạng trong các doanh nghiệp tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính thích hợp của chất lượng thông tin Báo cáo tài chính-Cơ sở lý luận và thực trạng trong các doanh nghiệp tại Việt Nam

Tính thích hợp của chất lượng thông tin Báo cáo tài chính-Cơ sở lý luận và thực trạng trong các doanh nghiệp tại Việt Nam
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 119 
Tính thích hợp của chất lượng thông tin 
báo cáo tài chính - Cơ sở lý luận và thực 
trạng trong các doanh nghiệp tại Việt Nam 
 Phạm Quốc Thuần 
Trường Đại học Kinh Tế - Luật, ĐHQG HCM - Email: thuanpq@uel.edu.vn 
 (Bài nhận ngày 10 tháng 9 năm 2016, hoàn chỉnh sửa chữa ngày 21 tháng 2 năm 2017) 
TÓM TẮT 
Chất lượng thông tin (CLTT) Báo cáo tài 
chính (BCTC) là một chủ đề thu hút được sự 
quan tâm của nhiều đối tượng nghiên cứu trong 
lĩnh vực kế toán (KT) (Céline Michailesco, 
2010). Phạm (2016) đã tiến hành tổng hợp các 
nghiên cứu về CLTT BCTC trong khoảng thời 
gian từ năm 1980 đến 2016, kết quả cho thấy 
các thuộc tính đánh giá CLTT BCTC khá đa 
dạng, tổng cộng đã có đến 15 thuộc tính được 
xác định. Nghiên cứu của Phạm (2016) cũng 
cho thấy các nghiên cứu trong mọi giai đoạn 
đều xem các thuộc tính đánh giá CLTT, được 
công bố bởi các tổ chức, hiệp hội nghề nghiệp 
như Hiệp hội kế toán Hoa kỳ (AAA), Hội đồng 
chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ (FASB); 
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), 
là nền tảng lý thuyết vững chắc. Bên cạnh sự 
đa dạng, nghiên cứu về CLTT BCTC vẫn có 
những điểm chung, trong đó nổi bật là tính 
Thích hợp (Relevance) luôn được các tổ chức, 
hiệp hội nghề nghiệp xem là thành phần chất 
lượng cơ bản của thông tin trên BCTC. 
Gần đây, khuôn mẫu các khái niệm cho 
BCTC được FASB & IASB ban hành chính thức 
vào năm 2010 (FASB & IASB 2010) đã tiếp tục 
khẳng định Thích hợp là thành phần chất lượng 
nền tảng quan trọng của thông tin BCTC. So 
với các công bố trước, đã có sự thay đổi khá 
lớn về các tiêu chí, thuộc tính dùng để đánh giá 
tính Thích hợp của CLTT BCTC. Xuất phát từ 
thực trạng trên, nghiên cứu này hướng đến các 
mục tiêu sau: khẳng định tầm quan trọng của 
thành phần Thích hợp đối với đánh giá CLTT 
BCTC; làm rõ các đặc tính đo lường tính Thích 
hợp của CLTT BCTC trước và sau khi ban 
hành FASB & IASB 2010; Xây dựng thang đo 
và đo lường tính Thích hợp của CLTT BCTC 
trong các doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam. 
Từ khóa: Chất lượng thông tin, báo cáo tài chính, tính thích hợp. 
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CLTT BCTC 
Theo quan điểm của AAA: vào năm 1966, 
AAA đã công bố một báo cáo về nền tảng lý 
thuyết của KT nhằm thiết lập những điều cơ 
bản của lý thuyết KT. Trong báo cáo này, AAA 
cho rằng Thích hợp (Relevance), Có thể xác 
minh được (Verifiability), Không sai lệch 
(Freedom from bias) và Khả năng xác định 
số lượng (Quantifiability) được xem như là 
những tiêu chuẩn để đảm bảo thông tin BCTC 
hữu ích. Công bố của AAA (1966) mặc dù 
được xem đã đặt nền tảng đầu tiên cho những 
nghiên cứu hướng về CLTT BCTC, tuy nhiên 
vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể đã không cung 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 120 
cấp một danh sách đầy đủ các thuộc tính cần 
thiết có liên quan đến tính Hữu ích của thông 
tin KT (Snavely, 1967). 
Theo khuôn mẫu của FASB: các thuộc tính 
về CLTT được FASB ban hành trong “Khuôn 
mẫu các khái niệm về KT” vào năm 1980. Mặc 
dù các khuôn mẫu này đã được FASB chỉnh 
sửa và bổ sung nhiều lần sau đó, các thuộc tính 
về CLTT vẫn không thay đổi. Theo khuôn mẫu 
này, các thuộc tính nền tảng của CLTT BCTC 
bao gồm: Thích hợp; Đáng tin cậy và Có thể 
hiểu được, trong đó Thích hợp được đánh giá 
bởi ba thuộc tính bao gồm giá trị Dự đoán (giúp 
người sử dụng thông tin đánh giá những tác 
động tiềm tàng của những nghiệp vụ quá khứ, 
hiện tại, tương lai; giá trị Phản hồi (khẳng định 
hay cải chính những đánh giá trong quá khứ) và 
giá trị Kịp thời (FASB, 1980). 
Theo khuôn mẫu của IASB: vào tháng 4 
năm 2001, IASB đã đưa ra khuôn mẫu các khái 
niệm làm nền tảng cho việc lập và trình bày 
BCTC trên cơ sở chỉnh sửa khuôn mẫu được 
ban hành trước đó bởi IASC. Theo đó, các 
thuộc tính nền tảng của CLTT BCTC bao gồm: 
Có thể hiểu được; Thích hợp; Đáng tin cậy; Có 
khả năng so sánh. Thông tin được xem là Thích 
hợp khi có ảnh hưởng đến quyết định kinh tế 
của những người sử dụng thông tin thông qua 
việc giúp họ đánh giá những sự kiện quá khứ, 
hiện tại, tương lai hoặc khẳng định hay cải 
chính những đánh giá trong quá khứ (IASB, 
2001). 
Theo quan điểm hòa hợp giữa FASB & 
IASB: dựa trên thỏa thuận Norwalk được ký 
vào năm 2002, khuôn mẫu chung về các tiêu 
chí thuộc CLTT BCTC đã được FASB & IASB 
công bố vào năm 2006. Vào năm 2010, khuôn 
mẫu này được ban hành chính thức và được sửa 
đổi với tên là “Khuôn mẫu các khái niệm cho 
BCTC 2010”. FASB & IASB 2010 khẳng định 
rằng Thích hợp và Trình bày trung thực là đặc 
tính CL nền tảng của thông tin trên BCTC. Bên 
cạnh đó, khuôn mẫu cũng nêu rõ các thuộc tính 
làm gia tăng CL thông tin BCTC. Cũng theo 
Khuôn mẫu này, thông tinh đảm bảo Thích hợp 
khi có khả năng tác động đến việc ra quyết định 
của người sử dụng. Thông tin có thể có khả 
năng ảnh hưởng đến việc ra quyết định khi nó 
mang Giá trị dự đoán (Predictive value), Giá trị 
xác nhận (Confirmatory value) hay cả hai 
(IASB, 2010). 
Vai trò của Thích hợp đối với CLTT BCTC: 
tổng quan về khuôn mẫu CLTT BCTC cho thấy 
bên cạnh sự khác biệt về số lượng thành phần 
và các thuộc tính cấu thành, quan điểm của các 
tổ chức nghề nghiệp vẫn có điểm tương đồng 
đó là Thích hợp luôn được xem là nền tảng 
chính yếu của CLTT BCTC. Hình 1 cho thấy 
Thích hợp xuất hiện trong Khuôn mẫu quy định 
CLTT BCTC của tất cả các tổ chức, hiệp hội 
nghề nghiệp được xem xét. 
Hình 1. Các thuộc tính nền tảng CLTT BCTC theo số lƣợng quan điểm của các tổ chức, hiệp hội 
nghề nghiệp 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 121 
Liên quan đến các thuộc tính đảm bảo yêu 
cầu Thích hợp của CLTT BCTC, quan điểm 
của các tổ chức nghề nghiệp vẫn còn nhiều 
điểm bất đồng. Báo cáo về nền tảng lý thuyết 
của KT năm 1966 không cung cấp một danh 
sách đầy đủ các thuộc tính cần thiết giúp đánh 
giá tính Thích hợp của CLTT BCTC; FASB 
1980 cho rằng Thích hợp được cấu thành bởi 3 
thuộc tính, đó là giá trị Dự đoán; giá trị Phản 
hồi giá trị Kịp thời; IASB 2001 mặc dù không 
nêu rõ các thuộc tính nhưng cũng cho rằng 
thông tin được xem là Thích hợp khi giúp 
người sử dụng đánh giá những sự kiện quá khứ, 
hiện tại, tương lai hoặc khẳng định hay cải 
chính những đánh giá trong quá khứ. Theo 
quan điểm hòa hợp giữa hai tổ chức KT được 
xem là lớn nhất trên thế giới là FASB & IASB 
dẫn đến việc ban hành “Khuôn mẫu các khái 
niệm cho BCTC 2010” thì Thích hợp được 
đánh giá bởi 2 thuộc tính, cụ thể: 
Giá trị dự đoán: thông tin được sử dụng như 
là một thông tin đầu vào bởi người sử dụng 
khi dự đoán các kết quả tương lai (IASB, 
2010). 
Giá trị xác nhận: thông tin cung cấp những 
phản hồi về việc thừa nhận hoặc những sự 
thay đổi của các đánh giá trước đó (IASB, 
2010). 
Trong nghiên cứu này, tác giả đánh giá 
Thích hợp dựa trên quan điểm của FASB & 
IASB 2010 bởi lẽ quan điểm này phù hợp với 
xu hướng hòa hợp và hội tụ quốc tế về KT theo 
hướng phát triển của KT Việt Nam. 
2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU 
TRƢỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH 
THÍCH HỢP CỦA CLTT BCTC 
Nghiên cứu của Jonas & Blanchet (2000): 
trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá những ưu điểm, 
hạn chế của các khuôn mẫu và các quy định về 
CLTT BCTC được ban hành bởi các tổ chức 
(FASB; Ủy ban chứng khoán Hoa kỳ) kết hợp 
với nghiên cứu định tính, nhóm tác giả đã tiến 
hành xây dựng thang đo CLTT BCTC. Theo 
đó, Thích hợp là một thang đo bậc 3 được đo 
lường bởi hai thành phần bậc 2 là Giá trị dự 
đoán, Giá trị phản hồi và thành phần bậc 1 là 
Kịp thời (4 biến quan sát). Giá trị dự đoán được 
đo lường bởi hai thành phần bậc 1 là Dự đoán 
từ lợi nhuận (3 biến quan sát) và Giá trị phân 
biệt (3 biến quan sát). Nghiên cứu chỉ dừng lại 
ở phần nghiên cứu định tính, chưa tiến hành 
kiểm định thang đo và nghiên cứu định lượng 
giúp đo lường thuộc tính Đáng tin cậy bằng con 
số cụ thể. 
Nghiên cứu của Ferdy van Beest & ctg 
(2009): nhóm tác giả đã đo lường CLTT BCTC 
trong các công ty niêm yết tại Hoa Kỳ, Anh và 
Hà Lan trong khoảng thời gian 2005 và 2007. 
Dựa trên các tiêu chí về CLTT BCTC của 
FASB & IASB 2008 (bản nháp-Exposure 
Draft), nhóm tác giả đã tiến hành xây dựng 
thang đo CLTT BCTC, trong đó, Thích hợp là 
thang đo bậc 1 có 4 biến quan sát. Kết quả năm 
2007 cho thấy Thích hợp của CLTT BCTC 
trong các DN Hoa Kỳ có điểm (thang điểm 5) 
là 3,09; các DN Anh và Hà Lan là 3,21. 
Nghiên cứu của Geert Braam & Ferdy van 
Beest (2013): nhóm tác giả đã đo lường CLTT 
BCTC trong các DN niêm yết tại Hoa Kỳ, Anh. 
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là thực 
nghiệm, dữ liệu thu thập là thông tin trên 
BCTC của năm 2010. Dựa trên quan điểm của 
FASB & IASB 2010, Thích hợp là thang đo 
bậc 1, bao gồm 13 biến quan sát. Kết quả cho 
thấy Thích hợp của CLTT BCTC trong các DN 
Hoa Kỳ và các DN Anh (thang điểm 5) có điểm 
trung bình là 2,88 và 3,13. 
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng 
& Dương Thị Khánh Linh (2014): nghiên cứu 
hướng đến mục tiêu đo lường CLTT BCTC 
trong các DN tại Việt Nam dựa trên cơ sở tổng 
quát các đặc điểm về CLTT BCTC được ban 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 122 
hành bởi IASB & FASB. Thang đo Thích hợp 
của CLTT BCTC là thang đo bậc 1, được đo 
lường bởi 2 biến quan sát. Nhóm tác giả đã tiến 
hành đo lường CLTT BCTC dựa trên quan 
điểm của ba nhóm đối tượng là KTV, kiểm 
toán viên và nhà đầu tư. Kết quả cho thấy các 
thành phần CLTT BCTC trong các DN Việt 
Nam được đánh giá từ 2,79 đến 3,45. Trong đó, 
giá trị Thích hợp của CLTT BCTC ở mức độ 
2,902/5 điểm. 
Đóng góp của các nghiên cứu trước: nghiên 
cứu về CLTT BCTC đã có một quá trình kế 
thừa và phát triển khá dài (Phạm, 2016). 
Nghiên cứu về tính Thích hợp của CLTT 
BCTC không tách khỏi quá trình hình thành và 
phát triển của việc ban hành Khuôn mẫu các 
khái niệm cho BCTC của các tổ chức nghề 
nghiệp. Dựa trên các khuôn mẫu, chủ yếu của 
FASB và IASB, các nhà nghiên cứu đã tiến 
hành xây dựng thang đo, đo lường và phản ánh 
thực trạng Thích hợp của CLTT BCTC trong 
các DN, tạo căn cứ cho việc đề xuất các giải 
pháp nhằm nâng cao CLTT BCTC trong các 
DN, tổ chức thuộc nhóm đối tượng khảo sát. 
Khe hổng của các nghiên cứu trước: bên 
cạnh những đóng góp, các nghiên cứu trước về 
Thích hợp của CLTT BCTC vẫn còn những 
điểm cần hoàn thiện, cụ thể: 
Đối tượng chính yếu của các nghiên cứu 
trước là các công ty niêm yết, vì vậy chưa 
có điều kiện so sánh CLTT BCTC giữa các 
DN đã và chưa niêm yết. 
Các nghiên cứu trước chưa xây dựng thang 
đo đo lường tính Thích hợp của CLTT 
BCTC với đầy đủ các thành phần, cấp bậc 
theo quy định của FASB & IASB 2010. 
Theo đó, Thích hợp là thang đo bậc 2, được 
cấu thành bởi hai thang đo bậc 1 là Giá trị 
Dự đoán và Giá trị xác nhận. 
Mục tiêu của nghiên cứu: trên cơ sở xác 
định khe hổng của các nghiên cứu trước, ở 
phần nội dung kế tiếp, tác giả hướng đến những 
mục tiêu chính yếu sau: 
+ Xây dựng thang đo, đo lường tính Thích 
hợp của CLTT BCTC trong các DN tại Việt 
Nam với đầy đủ các thành phần, cấp bậc theo 
quy định của FASB & IASB 2010; 
+ So sánh giá trị Thích hợp của CLTT 
BCTC giữa các nhóm DN (nhóm DN đã niêm 
yết với chưa niêm yết; Nhóm DN nhỏ với 
nhóm DN vừa và nhóm DN lớn). 
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Dựa trên mục tiêu đã được xác định, nghiên 
cứu này sử dụng phương pháp hỗn hợp, cụ thể: 
Phương pháp định tính: được sử dụng để 
xây dựng thang đo đo lường Thích hợp của 
CLTT BCTC. Phương pháp nghiên cứu tình 
huống được sử dụng với đối tượng tham gia là 
các chuyên gia đang làm việc thực tế tại các 
DN bao gồm: KT trưởng; Trưởng bộ phận IT; 
Giám đốc DN; Trưởng Phòng Kiểm soát nội 
bộ; Trưởng phòng Kiểm toán. Với số mẫu được 
lựa chọn theo phương pháp bảo hòa, nghiên 
cứu đã tiến hành phỏng vấn và phân tích tổng 
cộng 13 tình huống. 
Phương pháp định lượng: được sử dụng để 
đo lường tính Thích hợp của CLTT BCTC. 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp khảo sát, đối 
tượng thu thập dữ liệu chính yếu là Kế toán 
trưởng tại các DN. Dữ liệu được thu thập và xử 
lý thông qua phần mềm xử lý thống kê SPSS. 
Thang đo đo lường tính Thích hợp của 
CLTT BCTC: Thang đo này được xây dựng dựa 
trên các khái niệm cho BCTC của FASB & 
IASB 2010 kết hợp với ý kiến của các chuyên 
gia từ nghiên cứu tình huống. Theo đó, Thích 
hợp là thang đo bậc hai bao gồm hai thành phần 
bậc một với 6 biến quan sát (Bảng 02). 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 123 
Bảng 2. Thang đo đo lƣờng tính Thích hợp của CLTT BCTC 
Thành phần bậc 1 Biến quan sát 
Giá trị dự đoán DĐ1: BCTC của đơn vị cung cấp đầy đủ thông tin về cơ hội và rủi ro để nhà 
đầu tư ra quyết định 
DĐ2: BCTC của đơn vị cung cấp đầy đủ thông tin về cơ hội và rủi ro để người 
cho vay, chủ nợ ra quyết định 
DĐ3: BCTC của đơn vị cung cấp đầy đủ thông tin về cơ hội và rủi ro để tiên 
đoán các kết quả tương lai 
Giá trị xác nhận XN1: Thông tin trên BCTC thích hợp để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 
của đơn vị 
XN2: Thông tin trên BCTC thích hợp để đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn 
vị 
XN3: Thông tin trên BCTC phản ánh xác đáng thực trạng kinh tế, tài chính của 
đơn vị 
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Mô tả mẫu nghiên cứu: dữ liệu nghiên cứu 
được khảo sát thông qua phỏng vấn trực tiếp và 
trả lời Bảng câu hỏi trên mạng vào năm 2015. 
Tổng số mẫu đạt yêu cầu cho nghiên cứu là 
207. Có 78% DN khảo sát có trụ sở chính tại 
TPHCM, phần còn lại ở Hà Nội, Khánh Hòa, 
các tỉnh miền Đông và Tây Nam bộ. Về quy 
mô, tỷ lệ DN nhỏ, vừa, lớn lần lượt là 46%; 
26% và 28%. Về niêm yết, có 24% DN đã niêm 
yết và 76% DN chưa niêm yết. 
Kiểm định thang đo 
Để đánh giá độ tin cậy thang đo, tác giả sử 
dụng hệ số Cronbach ∝. Nguyễn Đình Thọ 
(2011) cho rằng thang đo được chấp nhận khi 
có hệ số tương quan biến tổng hiệu chỉnh>=0,3 
và Cronbach ∝ có giá trị từ 0,60 đến 0,95. Kết 
quả đánh giá độ tin cậy thang đo cho thấy 
Cronbach ∝ của các thành phần đo lường khái 
niệm Thích hợp đều có giá trị cao (từ 0,621 đến 
0,890) và hệ số tương quan biến tổng của các 
biến đều cao (0,343–0,824> 0,3). Điều này cho 
thấy thang đo Thích hợp có độ tin cậy tốt và 
các biến quan sát đều đạt yêu cầu (Bảng 03). 
Bảng 3. Kết quả phân tích Cronbach ∝ cho thang đo khái niệm Thích hợp 
Biến quan sát Trung bình 
thang đo nếu 
loại biến 
Phƣơng sai 
thang đo nếu 
loại biến 
Tƣơng 
quan biến 
tổng 
Cronbach's Alpha 
nếu loại biến 
Thành phần: Giá trị dự đoán (GTDĐ_PRE), Alpha = 0,621 
DĐ1 6,05314 3,303 ,400 ,563 
DĐ2 5,69082 2,914 ,565 ,332 
DĐ3 4,83575 3,196 ,343 ,654 
Thành phần: Giá trị xác nhận(GTXN_PRE), Alpha = 0,890 
XN1 7,41063 2,699 ,824 ,810 
XN2 7,30435 2,776 ,813 ,820 
XN3 7,56522 2,956 ,721 ,899 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 124 
Kết quả phân tích EFA cho thấy thang đo 
Thích hợp đạt giá trị phân biệt và giá trị hội tụ. 
Bảng 04 cho thấy có 2 nhân tố trích được tại 
Eigenvalues là 1,412 với tổng phương sai trích 
TVE là 73,1%, điều này hoàn toàn phù hợp với 
đặc điểm của thang đo Thích hợp là thang đo 
bậc hai bao gồm 2 thành phần bậc một. Bảng 
05 cho thấy trọng số nhân tố của các biến quan 
sát trên thành phần mà nó đo lường đạt giá trị 
cao nhất. Đối với biến DĐ3, kết quả kiểm định 
cho thấy biến này nhóm vào thành phần “Giá 
trị xác nhận”. Tuy nhiên, sau khi xem xét lại 
nội dung và tham khảo ý kiến từ phía các 
chuyên gia, tác giả quyết định tôn trọng giá trị 
nội dung của biến, giữ lại cho thành phần “Giá 
trị dự đoán” (Bảng 5). 
Bảng 4. Nhân tố và phƣơng sai trích của thang đo Thích hợp của CLTT BCTC 
Total Variance Explained- Tổng phƣơng sai giải thích 
Nhân tố 
Giá trị Eigen ban đầu Tổng bình phương tải trọng xoay 
 Tổng % phương sai Lũy kế % Tổng % phương sai Lũy kế % 
1 2,975 49,589 49,589 2,975 49,589 49,589 
2 1,412 23,535 73,124 1,412 23,535 73,124 
3 . . . 
Extraction Method: Principal Component Analysis. 
Bảng 5. Ma trận trọng số nhân tố của thang đo Thích hợp của CLTT BCTC 
Ma trận trọng số nhân tố 
Ký hiệu biến quan sát Giá trị xác nhận Giá trị dự đoán 
XN1 ,868 -,280 
XN2 ,878 -,270 
XN3 ,806 -,263 
DĐ1 ,292 ,787 
DĐ2 ,454 ,735 
DĐ3 ,714 ,179 
Extraction Method: Principal Component Analysis. 
Kết quả nghiên cứu và nhận xét 
Kết quả nghiên cứu cho thấy Thích hợp của 
CLTT BCTC trong các DN tại Việt Nam được 
đánh giá ở mức 3,24/5 điểm. Về chi tiết, thành 
phần Giá trị Xác nhận đạt giá trị cao nhất (3,71 
điểm), thành phần Giá trị Dự đoán được đánh 
giá ở mức thấp với số điểm là 2,76/5. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 125 
Bảng 6. Phân tích thực trạng CLTT BCTC tại các DN (Nguồn: khảo sát thực tế 2015) 
Ký hiệu biến Tên biến 
Giá trị Min 
Giá trị 
Max 
Trung 
bình 
Độ lệch 
chuẩn 
Phương 
sai 
THICHHOP Thích hợp 1,00 5,00 3,2383 ,67258 ,452 
GIATRIXACNHAN Giá trị xác nhận 1,00 5,00 3,7134 ,81615 ,666 
GIATRIDUDOAN Giá trị dự đoán 1,00 5,00 2,7633 ,81206 ,659 
Tổng số mẫu: 207 
Xét về qui mô DN, Thích hợp tương ứng 
với các DN nhỏ, vừa và lớn lần lượt là 3,044 
điểm; 3,321 điểm và 3,477/5điểm điều này cho 
thấy CLTT BCTC trong các DN tại Việt Nam 
tăng theo qui mô của DN (Hình 2). Bên cạnh 
đó, phân tích cũng cho thấy CLTT BCTC trong 
các DN có niêm yết (3,446 điểm) cũng cao hơn 
DN chưa niêm yết (3,147 điểm) (Hình 3). 
Hình 2. So sánh điểm của Thích hợp và các thành phần của nó theo qui mô DN 
Hình 3. Điểm của Thích hợp & các thành phần của nó theo điều kiện niêm yết 
5. KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tính Thích hợp 
của CLTT BCTC trong các DN tại Việt Nam 
thay đổi theo điều kiện niêm yết và quy mô 
doanh nghiệp. Rõ ràng là các DN đã thực hiện 
niêm yết; các DN có quy mô càng lớn thì càng 
chú trọng đến việc cung cấp BCTC đảm bảo 
CL. Về tổng thể, CLTT BCTC của các DN Việt 
Nam được đánh giá ở mức độ chưa cao: 3,24/5 
điểm. 
So sánh với các nghiên cứu trước đây trên 
thế giới, giá trị Thích hợp của CLTT BCTC 
trong các DN tại Việt Nam được xác định ở 
mức tương đồng so với các nghiên cứu khác 
trên thế giới: 3,09 của các DN tại Hoa Kỳ và 
3,21 của các DN tại Anh và Hà Lan (Ferdy van 
Beest & ctg, 2009). Kết quả khảo sát tại các 
DN Việt Nam cho thấy yêu cầu về Giá trị Xác 
nhận được đánh giá ở mức khá (3,71 điểm) 
trong khi Giá trị Dự đoán được đánh giá ở mức 
khá thấp (2,76 điểm). Điều này cho thấy BCTC 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 126 
chưa cung cấp đầy đủ thông tin để người sử 
dụng có thể đánh giá được cơ hội, rủi ro cũng 
như tiên đoán các kết quả tương lai của DN. 
Xuất phát từ thực trang trên, tác giả kiến 
nghị BCTC của các DN cần chú trọng hơn nữa 
việc cung cấp các thông tin bổ sung khi quy 
định trong chuẩn mực kế toán không đủ để giúp 
cho người sử dụng hiểu được tác động của 
những giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến 
tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp; DN cần chủ động 
cung cấp thêm các thông tin phi tài chính; các 
thông tin mô tả mang tính tường thuật, những 
phân tích chi tiết hơn các số liệu đã được thể 
hiện trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết 
quả hoạt động kinh doanh và Báo cáo lưu 
chuyển tiền tệ cũng như các thông tin bổ sung 
cần thiết khác nhằm giúp người sử dụng thông 
tin có thể đưa ra dự đoán các kết quả tương lai 
góp phần đảm bảo gia tăng tính Thích hợp của 
CLTT BCTC. 
Hiện nay, tại Việt Nam, các thuộc tính về 
CLTT BCTC vẫn chưa được qui định cụ thể 
trong các văn bản Pháp qui về Kế toán. Vì vậy 
tác giả kiến nghị Chuẩn mực chung của KT 
Việt Nam cần có mục riêng trình bày rõ những 
qui định này tạo điều kiện để các DN, tổ chức 
có căn cứ nền tảng hướng đến việc đảm bảo 
CLTT BCTC. 
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH & CN, TẬP 20, SỐ Q2 - 2017 
Trang 127 
Relevance of financial reporting quality - 
Theory and practice in Vietnamese 
enterprises 
 Pham Quoc Thuan 
University of Economics and Law, VNU HCM - Email: thuanpq@uel.edu.vn 
ABSTRACT 
Financial reporting quality is one the most 
interesting topics which draw a great deal of 
attention to researchers and scientists in the 
field of accounting (Céline Michailesco, 2010). 
In the review of research on financial 
information from 1980 to 2016, Pham (2016) 
found that characteristics of useful financial 
information are relatively diverse with as many 
as 15 attributes being identified. In addition, he 
also found that all research in any period has 
employed the characteristics published by 
professional associations such as American 
Institute of Accountants, Financial Accounting 
Standards Board (FASB) and the International 
Accounting Standards Board (IASB as 
theoretical basis. Research on the quality of 
financial information is diverse yet have many 
things in common, above all is the Relevance 
characteristic which considered to be the basic 
qualitative component of the quality of 
financial information in financial statements. 
Conceptual Framework officially issued 
by FASB & IASB in 2010 (FASB & IASB 2010) 
has further confirmed Relevance is the basic 
quality component of financial information. 
Compared with previous announcements, there 
has been a considerable change in the criteria 
and attributes used to evaluate the 
appropriateness of Relevance characteristic of 
financial information in financial statements. 
This study aims at confirming the importance of 
the Relevance component in evaluating the 
quality of financial information, clarifyingg the 
characteristics of Relevance measurement 
before and after Conceptual Framework 2010 
and constructing relevant scales as well as 
measuring the qualitative characteristic of 
Relevance among enterprises in Vietnam. 
Key words: information quality, financial reporting, Relevance. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. AAA-American Accounting Association, 
Statement of Basic Accounting Theory. 
American Accounting Association (1966). 
[2]. Céline Michailesco, Qualité de 
l’information comptable, Encyclopédie de 
Comptabilité. Contrôle de gestion et Audit 
Economica, pp. 1023 - 1033 (2010) 
. 
[3]. FASB, Statement of Financial Accounting 
Concepts No. 2: Qualitative Characteristics 
of Accounting Information. Financial 
Accounting Standards Board (1980), 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 20, No Q2 - 2017 
Trang 128 
C/DocumentPage?cid=1218220132570&ac
ceptedDisclaimer=true truy cập ngày 
15/03/2014 
[4]. Ferdy van Beest & ctg, Quality of Financial 
Reporting: measuring qualitative 
characteristics. NiCE Working Paper 09-
108 (2009). 
[5]. Geert Braam & Ferdy van Beest, 
Conceptually-Based Financial Reporting 
Quality Assessment. An Empirical Analysis 
on Quality Differences Between UK 
Annual Reports and US 10-K Reports. 
NiCE Working Paper 13-106 (November 
2013). 
[6]. IASB, Framework for the preparation and 
presentation of financial statements. IFRS 
(2001), 
eptualFramework.pdf truy cập ngày 
15/03/2014 
[7]. IASB, Conteptual Framework for Financial 
Reporting 2010. IFRS Foundation (2010). 
[8]. Jonas Gregory J & Blanchet Jeannot, 
Assessing quality of financial reporting. 
Accounting Horizons; Sep 2000; 14, 3; 
ProQuest Central pg. 353 (2000). 
[9]. Nguyễn Đình Thọ, Phương pháp nghiên 
cứu khoa học trong kinh doanh. NXB Lao 
động- Xã hội (2011). 
[10]. Nguyễn Thị Phương Hồng & Dương Thị 
Khánh Linh, Quan điểm về đặc điểm chất 
lượng BCTC của các DN Việt Nam hiện 
nay. Tạp chí KT & Kiểm toán, số 6/2014 
(2014). 
[11]. Phạm Quốc Thuần, Các nhân tố tác động 
đến CLTT BCTC trong các DN tại Việt 
Nam. Luận án Tiến sĩ Kinh Tế, ĐH Kinh Tế 
TPHCM, (201). 
[12]. Snavely, H. J., Accounting Information 
Criteria. The Accounting Review, 42(2):223- 
232, April (1967). 

File đính kèm:

  • pdftinh_thich_hop_cua_chat_luong_thong_tin_bao_cao_tai_chinh_co.pdf